Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục - Học viện Quản lí Giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.14 KB, 42 trang )

HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
KHOA GIÁO DỤC
_____________

______________
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM SAU KHI TỐT NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC GIÁO DỤC,
KHOA GIÁO DỤC - HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số:
Giảng viên hướng dẫn
TS. Cao Xuân Liễu
Chủ nhiệm đề tài
Phùng Thị Gái
Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài
(ký, họ tên, đóng dấu)
Hà Nội, 5/2015
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU
1. Nguyễn Thị Thanh
ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH
1. Học viện Quản lí Giáo dục – 31 Phan Đình Giót – Thanh Xuân – Hà
Nội
2. Sinh viên tốt nghiệp ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục -
Học viện Quản lí Giáo dục.
2
THÔNG TIN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngành
Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục - Học viện Quản lí Giáo dục.
- Mã số:


- Chủ nhiệm: Phùng Thị Gái.
- Giảng viên hướng dẫn: TS. Cao Xuân Liễu.
- Cơ quan chủ trì: Học viện Quản lý giáo dục
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015
2. Mục tiêu:
Khảo sát, phân tích, đánh giá và đưa ra số liệu thống kê về thực trạng
việc làm của sinh viên tốt nghiệp từ khóa 1 đến khóa 4 ngành Tâm lí học Giáo
dục, khoa Giáo dục - Học viện Quản lí Giáo dục.
3. Kết quả nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến đối tượng nghiên cứu đề tài
- Mô tả được thực trạng việc làm của sinh viên từ khóa 1 đến khóa 4
ngành tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lý giáo dục.
- Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tìm việc làm của sinh viên sau
khi tốt nghiệp.
4. Sản phẩm
Báo cáo phần tích về đề tài nghiên cứu khoa học.
Ngày 10 tháng 04 năm 2015
Cơ quan chủ trì
(ký và đóng dấu)
Giảng viên hướng dẫn Chủ nhiệm đề tài
3
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Thực trạng việc làm sau khi tốt
nghiệp của sinh viên ngành Tâm lý học giáo dục, khoa Giáo dục – Học
viện Quản lý giáo dục”, chúng tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt
thành và lời động viên của nhiều cá nhân, tập thể.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô trong ban lãnh đạo
nhà trường, Hội đồng Khoa học nhà trường, khoa Giáo dục đã tạo điều kiện
cho chúng tôi có cơ hội được trải nghiệm, tập dượt nghiên cứu khoa học, qua
đó chúng tôi đã rèn luyện cho mình một số kỹ năng nhất định, phục vụ hữu

ích cho học tập và công việc tương lai của mình.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thầy giáo – giảng viên
hướng dẫn TS. Cao Xuân Liễu – Thầy giáo đã giúp chúng tôi học hỏi được
nhiều kinh nghiệm, tâm huyết và tận tình hướng dẫn nhiệt thành cho chúng tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu để chúng tôi có thể hoàn thiện tốt đề tài
nghiên cứu của mình.
Đồng thời, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn bộ các anh chị sinh
viên từ Khóa 1 đến khóa 4, ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học
viện Quản lí Giáo dục đã cung cấp thông tin và giúp đỡ chúng tôi nhiệt tình
trong quá trình thực hiện đề tài.
Tuy đã dành nhiều thời gian và tâm huyết việc nghiêm cứu đề tài, nhưng
do kiến thức và kỹ năng còn hạn chế nên đề tài của chúng tôi không tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của Hội đồng khoa học
nhà trường, các thầy cô và các bạn để đề tài nghiên cứu khoa học của chúng
tôi có thể hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn !
4
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những tiêu chí để phản ánh trình độ phát triển của một đất
nước đó là việc làm và chất lượng việc làm chất của công dân. Vì vậy việc
làm luôn là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội. Việc làm không chỉ nuôi
sống mỗi người, mỗi quốc gia mà nó còn là điều kiện tồn tại của toàn xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay đã và đang đặt ra những thách
thức và cơ hội cho mỗi người cho nên việc làm lại được quan tâm hơn bao giờ
hết.
Từ năm 2009, theo Quy chế thực hiện 3 công khai mà Bộ Giáo dục và

Đào tạo triển khai, các trường Đại học, Cao đẳng phải công bố trước xã hội về
tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi ra trường một năm. Tuy nhiên trên thực tế,
nhiều trường chưa công bố được tỷ lệ này, có trường công bố không đầy đủ
hoặc mang tính chất chiếu lệ.
Mỗi sinh viên đều mong muốn sau khi ra trường sẽ tìm kiếm được một
công việc đúng chuyên ngành theo học và với mức thu nhập phù hợp. Tuy
nhiên không phải sinh viên nào sau khi ra trường cũng tìm được công việc như
ý muốn. Vì vậy, ngay khi đang ngồi trên ghế nhà trường đã có rất nhiều sinh
viên lo lắng và muốn tìm hiểu về thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp của
khoa, chuyên ngành mình theo họ để có những định hướng cho việc học tập.
Trên thực tế đã có nhiều tác giả nghiên cứu về thực trạng việc làm, thực
trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, thực trạng việc làm sau khi tốt
nghiệp sinh viên ngành Tâm lý học nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu về
thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp sinh viên ngành Tâm lý học giáo dục,
khoa Giáo dục – Học viện Quản lý Giáo dục.
Xuất phát từ mong muốn của nhóm thực hiện đề tài, mong muốn có
những thông tin về thực trạng việc làm của các sinh viên đã tốt nghiệp ngành
Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục để có một
cách nhìn nhận đúng hơn về công việc của mình trong tương lai. Đồng thời
giúp lãnh đạo trường có những thông tin cần thiết về việc làm của sinh viên
6
sau khi tốt nghiệp, làm căn cứ đưa ra những điều chỉnh hợp lý trong công tác
giảng dạy và xây dựng nội dung chương trình đào tạo, phù hợp với nhu cầu
thực tế của xã hội, đảm bảo chất lượng đào tạo các thế hệ sinh viên của trường
ngày càng nâng cao.
Vì vậy, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Thực trạng việc làm sau khi tốt
nghiệp của sinh viên ngành Tâm lý học giáo dục, khoa Giáo dục – Học
viện Quản lý giáo dục” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát, phân tích, đánh giá và đưa ra số liệu thống kê về thực trạng

việc làm của sinh viên tốt nghiệp từ khóa 1 đến khóa 4 ngành Tâm lí học Giáo
dục, khoa Giáo dục - Học viện Quản lí Giáo dục.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng việc làm của sinh viên ngành
Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục sau khi tốt
nghiệp.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu những sinh viên đã tốt
nghiệp ngành Tâm lý học giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lý giáo
dục.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc làm, sinh viên, vai trò của việc
làm đối với sinh viên sau khi tốt nghiệp.
4.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng việc làm của sinh viên
ngành Tâm lý học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục sau
khi tốt nghiệp.
4.3. Đề xuất một số kiến nghị về phía sinh viên và cơ sở đào tạo trong
học tập và giảng dạy.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5/2014 đến tháng 4/2015
5.2. Giới hạn nghiên cứu
7
Đề tài tập trung nghiên cứu và sử dụng các số liệu thu được từ việc khảo
sát và phân thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngành Tâm lý
học giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lý Giáo dục. Từ đó đưa ra một
số biện pháp giúp sinh viên tự trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ phù hợp
Phạm vi khảo sát là100 sinh viênđã tốt nghiệp ngành Tâm lí học Giáo
dục, khoa Giáo dục - Học viện Quản Lí Giáo Dục.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến việc làm, việc làm sau khi tốt

nghiệp, việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên.
- Từ đó đưa ra các khái niệm liên quan đến việc làm, việc làm sau khi tốt
nghiệp của sinh viên.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
Tiến hành xây dựng phiếu hỏi dành cho đối tượng sinh viên đã tốt nghiệp
ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục nhằm
khảo sát thực trạng việc làm, thu thập những thông tin cần thiết để đánh giá,
phân tích thực trạng việc làm.
- Phương pháp phỏng vấn.
Thông qua trò chuyện qua điện thoại và facebook để làm sâu và rõ hơn
một số thông tin về việc làm của những sinh viên đã tốt nghiệp.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lý số liệu thu được trong quá trình khảo sát để phân tích, đánh giá
thực trạng.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ
lục; đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh
viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục
8
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu thực trạng việc làm sau
khi tốt nghiệp của sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học
viện Quản lí Giáo dục
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp của
sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo
dục
Kết luận và kiến nghị.
9
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM SAU KHI TỐT NGHIỆP CỦA
SINH VIÊN NGÀNH TÂM LÍ HỌC GIÁO DỤC, KHOA GIÁO DỤC –
HỌC VIỆN QUẢN LÍ GIÁO DỤC
1.1. Một số nét cơ bản về ngành Tâm lý học Giáo dục
1.1.1. Tâm lý học Giáo dục
• Tâm lý học
Theo “Wikipedia” tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hoạt động,
tinh thần và tư tưởng của con người, cụ thể là cảm xúc, ý chí và hành động.
Tâm lý học cũng chú tâm đến sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng thái
tâm lý và các yếu tố bên ngoài lên hành vi và tinh thần của con người. Tâm lý
học vừa được nghiên cứu khoa học lẫn phi khoa học.
Theo Nguyễn Xuân Thức trong Tâm lý học đại cương thì tâm lý học là
một ngành khoa học trung gian nằm giữa khoa học xã hội và khoa học tự
nhiên vì tâm lý học nghiên cứu các hoạt động tâm lý con người. Các hiện
tượng tâm lý người có cơ sở vật chất là đặc điểm sinh học (cơ thể, não, giác
quan, hệ thần kinh) và đồng thời tâm lý người có bản chất xã hội, phản ánh
cuộc sống xã hội lịch sử vì thế tâm lý học vừa có tính chất của khoa học tự
nhiên vừa có tính chất của khoa học xã hội.
• Giáo dục
Theo “Wikipedia” giáo dục nghĩa chung là hình thức học tập, của một
nhóm người; kiến thức, kỹ năng và thói quen được trao quyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu. Giáo dục
thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông
qua tự học.Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta
suy nghĩ, cảm nhận hay hành động đều có thể xem như được giáo dục.
Giáo dục theo nghĩa rộng là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích,
có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới
người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm hình thành nhân cách
cho họ.
10

Giáo dục nghĩa hẹp là một bộ phận của hoạt động giáo dục (nghĩa rộng),
là quá trình hình thành cho người được giáo dục lý tưởng, động cơ, tình cảm,
niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử
đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao
lưu.
• Tâm lý học Giáo dục
Là một chuyên ngành của khoa học tâm lý nghiên cứu những ứng dụng
của tâm lý trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
1.1.2. Sinh viên ngành Tâm lý học Giáo dục
Là những người học tại các trường đại học đào tạo chuyên ngành về tâm
lý họcgiáo dục để nghiên cứu các hoạt động, tinh thần, tư tưởng và đặc điểm
quá trình giáo dục để nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục.
Đào tạo Cử nhân ngành Tâm lý học, nắm vững kiến thức cơ bản về các
lĩnh vực như tâm lý bệnh nhân, tâm lý tư vấn, tâm lý học đường, tâm lý xã
hội, tâm lý học quản trị kinh doanh, tâm lý học quản lý, tâm lý học lao động
nhằm nghiên cứu tư duy và hành vi của con người bao gồm sức khỏe, nhận
thức, cảm xúc, các khía cạnh xã hội của hành vi cư xử của con người . . .
Sinh viên tốt nghiệp ngành Tâm lí học nói chung và ngành Tâm lí học
Giáo dục nói riêng có thể làm việc ở những lĩnh vực sau:
• Nghiên cứu khoa học tâm lý tại các Viện, các Trung tâm Khoa học, các
sở ban ngành, các Cơ quan Hoạch định Chính sách - Chiến lược, Cơ quan
điều tra tâm lý tội phạm và bộ phận nghiên cứu tâm lý khách cho các Công
ty.
• Ứng dụng thực hành tâm lý.
• Tư vấn Tâm lý tại các cơ quan: Phát thanh, Truyền hình, Tư vấn trực
tuyến, Báo chí, tại các trung tâm tư vấn, qua Tổng đài, các trường học, các
tổ chức lao động v.v
11
• Trợ lý trị liệu Tâm lý, giúp việc cho các chuyên gia Tâm lý học Lâm
sàng tại các Bệnh viện Tâm thần, các trung tâm chăm sóc sức khỏe tinh

thần, Bệnh viện Nhi đồng, trung tâm dưỡng lão, Trung tâm điều trị bệnh
nhân nhiễm HIV, trung tâm cai nghiện và các trường Giáo dưỡng của Bộ
Công an.
• Tư vấn cho lãnh đạo về các vấn đề Nhân sự, Tổ chức lao động và
nghiên cứu Tâm lý tư vấn cho khách hàng tại các tổ chức lao động và các
công ty.
• Giảng dạy Tâm lý học.
1.2. Một số vấn đề về việc làm
1.2.1. Khái niệm việc làm
Có nhiều quan niệm khác nhau về việc làm:
Theo quan điểm của Các Mác : Việc làm là từ dùng để chỉ trạng thái phù
hợp giữa sức lao động và điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công
nghệ ) để sử dụng sức lao động đó.
Sức lao động do người lao động sở hữu. Những điều kiện cần thiết như
vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ có thể do người lao động có quyền sở hữu,
sử dụng, quản lý hoặc không. Theo quan điểm của Mác thì bất cứ tình huống
nào xảy ra gây nên trạng thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều kiện cần
thiết để sử dụng sức lao động đó đều có thể dẫn tới sự thiếu việc làm hay mất
việc làm.
Theo Điều 9, chương II, Bộ luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (10/2012/QH13) “ Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu
nhập mà không bị pháp luật cấm”.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) “ Việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và hiện vật”.
Việc làm là công việc hay nhóm công việc thuộc hệ thống ngành kinh tế
quốc dân, được thực hiện bởi người lao động với mục đích là tạo ra giá trị vật
chất và tinh thần cho bản thân họ, cho tập thể, cho xã hội mà trong đó họ là
thành viên. Việc làm không tự nó tạo ra sản phầm, tạo ra thu nhập. Sự thực
12
hiện việc làm nói chung, mới tạo ra thu nhập và là thu nhập hợp pháp, chính

đáng.
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu việc làm là những hoạt động lao
động tạo ra giá trị vật chất và giá trị tinh thần cho mỗi cá nhân, cộng đồng
mà không bị pháp luật cấm.
1.2.2. Phân loại việc làm
Tùy theo mục đích nghiên cứu mà người ta phân loại việc làm theo nhiều
cách khác nhau.
Việc làm bình thường và việc làm khó khăn, độc hại, nguy hiểm. Việc
làm bình thường là việc làm mà người lao động tham gia trực tiếp hay gián
tiếp vào cồn việc có thể cảm nhận được sự an toàn khi tiếp xúc và giải quyết
công việc đó. Việc làm khó khăn độc hại, nguy hiểm là những công việc chứa
đựng những yếu tố hóa học, vật lý, sinh học có hại đối với cơ thể người lao
động.
Việc làm chân tay, việc làm trí óc: cách phân loại này dựa vào phương
thức thực hiện công việc. Người lao động chân tay là những người phải thực
hiện các công việc thông qua các thao tác bằng chân tay, dựa trên nền tảng là
sức khẻo cơ bắp. Người lao động trí óc là những người sử dụng phương thức
tư duy để giải quyết công việc, ví dụ như: kỹ sư, kiến trúc sư, giáo viên, nhà
quản lí
Việc làm tự nguyện, việc làm cưỡng bức, bắt buộc. Việc làm tự nguyện
là việc làm người lao động có quyền lựa chọn. Việc làm cưỡng bức, bắt buộc
là loại việc làm mà người lao động phải thực hiện do một áp lực vật chất hay
tinh thần , hoặc do một chính sách liên quan.
Việc làm trọn ngày (full time) và việc làm không trọn ngày (part time).
Việc làm trọn ngày là việc làm mà người lao động có thể thực hiện công
việc với thời gian làm việc tối đa của công việc đảm nhiệm. Với việc làm
không trọn ngày, người lao động chỉ phải thực hiện nghĩa vụ lao động trong
13
từng khoảng thời gian ngắn, đều đặn hoặc bất chợt. Sự có mặt tại địa điểm làm
việc không thường xuyên.

Việc làm nhân văn. Theo quan điểm hiện đại, việc làm nhân văn là việc
làm với những nội dung cơ bản sau: chắc chắn và hữu ích, tôn trọng các quyền
lao động, mức thù lao hợp lý tương xứng, bảo vệ các quyền xã hội, bảo đảm
sự tham gia và thương lượng tập thể, quyền tự do công đoàn và đối thoại xã
hội.
1.2.3. Vai trò của việc làm
Việc làm là vấn đề quan trọng và có ảnh hưởng tới nhiều mặt đời sống xã
hội.
Việc làm là tiêu chí khẳng định sự văn minh. Hình thức, nội dung và các
yếu tố cấu thành và liên quan đến việc làm, đến sự làm việc là những cái thể
hiện rõ trình độ văn minh của lao động nói riêng và của xã hội nói chung.
Việc làm là điều kiện đảm bảo an toàn của xã hội. Việc làm không chỉ là
điều kiện kiếm sống của người lao động mà còn góp phần to lớn tạo nên nhân
cách sống của người lao động và các công dân trong xã hội. Sự an toàn kinh
tế, an toàn cá nhân, an toàn xã hội phụ thuộc nhiều vào việc người lao động
có được đảm bảo công ăn việc làm hay không.
Việc làm là yếu tố thúc đẩy sự phát triển bền vững. Ngày nay, sự phát
triển của xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó có sự phát triển của nền
sản xuất, của sự phát triển con người. Tuy nhiên, xét cho cùng, chúng đều liên
quan và chịu sự chi phối mạnh mẽ của việc làm. Đối với mỗi quốc gia, việc
giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ tạo điều kiện và cơ sở để triển khai các chính
sách xã hội khác như: y tế, văn hóa, giáo dục góp phần đảm bảo an toàn, ổn
định , và phát triển xã hội. Về mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề
sản xuất. Hiệu quả của việc giải quyết tốt việc làm cũng là hiệu quả của sản
xuất. Đối với Việt Nam, việc làm còn gắn với công cuộc xóa đói giảm nghèo,
giải quyết việc làm là biện pháp quan trọng và thiết thực trong xóa đói giảm
nghèo. Đối với người lao động, việc làm tạo cơ hội cho họ có thu nhập, đảm
bảo cuộc sống của bản thân, gia đình, đồng thời đống góp cho xã hội.
14
1.3. Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp

1.3.1. Sinh viên
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc Latin là “studens” có nghĩa là người
làm việc, người tìm kiến, khai thác tri thức, khái niệm này được dùng tương
đương với “student” trong tiếng Anh, “etudiant” trong tiếng Pháp để chỉ
những người theo học ở bậc đại học và được phân biệt với trẻ em đang theo
học phổ thông.
Sinh viên là đại diện cho một nhóm xã hội đặc biệt, họ ở trong giai đoạn
chuyển tiếp từ vị trí của người học nghề lên vị trí của người lao động nghề có
trình độ chuyên môn cao, đây là nguồn bổ sung đội ngũ trí thức cho xã hội.
Họ là nguồn dữ trự chủ yếu cho đội ngũ các chuyên gia theo các nghề nghiệp
khác nhau trong cấu trúc của tầng lớp xã hội.
Sinh viên là một công dân thực thụ của đất nước với đầy đủ nghĩ vụ và
uyền hạn trước pháp luật. Xã hội coi họ là một thành viên, một người trưởng
thành. Tuy nhiên do đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa tham gia trực tiếp
vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất nên sinh viên chưa hoàn toàn tự lập
về mọi mặt so với thanh niên cùng độ tuổi phải vào đời sớm. Ở đây, tính chất
trưởng thành của sinh viên có nét đặc trưng riêng.
Lứa tuổi sinh viên là giai đoạn cuối tuổi thanh niên (từ 18 – 25 tuổi) nên
đã đạt đến trình độ cao của sự trưởng thành về sinh lý, tâm lý và quan hệ xã
hội. Ở sinh viên, niềm tin xu hướng, nghề nghiệp và các năng lực cần thiết
được củng cố và phát triển. Các quá trình tâm lý đặc biệt là quá trình nhận
thức được nghề nghiệp hóa. Kỳ vọng đối với nghề nghiệp tương lai của sinh
viên được phát triển. Tính sẵn sàng, độc lập với hoạt động nghề nghiệp tương
lai được củng cố.
Có thể thấy hoạt động học tập của sinh viên ở bậc đại học là một hoạt
động chủ đạo được tổ chức một cách độc đáo nhằm chuẩn bị trở thành những
chuyên gia có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
1.3.2. Tốt nghiệp
15
Là một động từ có nghĩa là được công nhận đã đạt tiêu chuẩn kiểm tra

kiến thức hoặc trình độ nghiệp vụ sau khi học xong một trường hoặc một bậc
học, một cấp học.
Như vậy, sinh viên tốt nghiệp là những người đã hoàn thành xong
chương trình học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và
được công nhận đạt tiêu chuẩn kiểm tra kiến thức hoặc trình độ nghiệp vụ.
Sau khi tốt nghiệp tại các trường đại học, cao đẳng, hay trung cấp chuyên
nghiệp, sinh viên sẽ trở thành lực lượng lao động có chuyên môn cao, tìm
kiếm việc làm để tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất của
cải vật chất. Khi đó, sinh viên sẽ trở thành những người lao động. Theo Bộ
Luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thuật ngữ người
lao động được hiều là : “ là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động,
làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành
của người sử dụng lao động.”
1.3.3. Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp
Qua quá trình nghiên cứu và tổng hợp. Chúng tôi có thể đưa ra khái niệm
việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp như sau:
Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp là những hoạt động lao động
được thực hiện sau khi sinh viên được công nhận đạt tiêu chuẩn kiến thức
hoặc trình độ nghiệp vụ, những hoạt động lao động đó không bị pháp luật
cấm và tạo ra những giá trị về vật chất và tinh thần.
1.3.4. Vai trò của việc làm đối với sinh viên sau khi tốt nghiệp
Trước hết, việc làm tạo ra nguồn thu nhập cho sinh viên để trang trải và
ổn định cuộc sống mà không phụ thuộc vào gia đình.
Việc làm, đặc biệt là việc làm đúng chuyên ngành sẽ giúp sinh viên ứng
dụng, áp dụng những kiến thức chuyên môn được đào tạo trong nhà trường
vào thực tế từ đó rút kinh nghiệm, nâng cao năng lực bản thân. Tạo cơ hội cho
sinh viên tiếp xúc thực tế, có môi trường mới để trải nghiệm và học hỏi.
Việc làm có thể xem là một tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo, năng
lực của bản thân mỗi sinh viên. Khẳng định địa vị xã hội của mỗi người.
16

1.3.5. Những yếu tố tác động đến việc làm của sinh viên
sau khi tốt nghiệp
Việc xác định ngành học và nghề nghiệp sau này là một yếu tố quan
trọng quyết định đến việc học và xin việc của sinh viên sau này. Ngành học
phù hợp với năng lực, sở thích của bản thân sẽ giúp bạn có cơ hội học tập tốt
hơn và cơ hội tìm việc phù hợp hơn sau khi ra trường.
Nhu cầu nhân lực của xã hội, căn cứ vào nhu cầu của xã hội với ngành
học để đào tạo số lượng cử nhân đáp ứng nhu cầu. Tránh tình trạng đào tạo ồ
ạt những ngành học “hot” dẫn đến thừa nhân lực trong ngành và thất nghiệp.
Hiện tại, Việt Nam có hơn 500 trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Việc
mở cửa ồ ạt các trường đại học với chất lượng đầu vào thấp, làm tăng tỉ lệ
cạnh tranh trong quá trình xin việc của sinh viên.
Thực tế vấn đề việc làm ở Việt Nam cũng đang gặp khó khăn. Trong
bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng, nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm lao động
như các công ty chứng khoán, công ty xây dựng…, một số doanh nghiệp giải
thể, đóng cửa đã làm mất việc của hàng ngàn lao động.
Nguồn nhân lực được đào tạo nhưng không đáp ứng được yêu cầu công
việc. Sinh viên sau khi tốt nghiệp không đủ năng lực, trình độ đảm nhận các
vị trí trong doanh nghiệp, khiến các nhà tuyển dụng từ chối hoặc phải đào tạo
lại.
Bằng cấp và các mối quan hệ xã hội cũng là một yếu tố đóng vai trò
quan trọng ảnh hưởng tới quá trình xin việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Những sinh viên có xếp loại tốt nghiệp loại ưu thường có cơ hội xin việc cao
hơn. Bên cạnh đó, quen biết nhiều mối quan hệ cũng giúp bạn xin việc dễ
dàng hơn.
17
Chương 2
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
VIỆC LÀM SAU KHI TỐT NGHIỆP CỦA SINH VIÊN NGÀNH TÂM LÍ
HỌC GIÁO DỤC, KHOA GIÁO DỤC – HỌC VIỆN QUẢN LÍ GIÁO DỤC

2.1.Tiến trình nghiên cứu
Để tìm hiểu về thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngành
Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo Dục – Học viện Quản lý Giáo dục chúng tôi
đã tiến hành nghiên cứu qua 4 giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Xây dựng đề cương nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 9/2014 đến tháng 10/2014
Nhiệm vụ: Xây dựng đề cương chi tiết cho đề tài nghiên cứu
- Giai đoạn 2: Xây dựng khung lý thuyết
Thời gian: Từ tháng 10/2014 đến tháng 12/2014
Nhiệm vụ:
- Xây dựng khung lý thuyết về vấn đề việc làm, việc làm sau khi tốt
nghiệp của sinh viên, những nét cơ bản về ngành Tâm lí học Giáo dục.
- Khái niệm công cụ:
+ Việc làm là những hoạt động lao động tạo ra giá trị vật chất và giá trị
tinh thần cho mỗi cá nhân, cộng đồng mà không bị pháp luật cấm.
+ Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp là những hoạt động lao động
được thực hiện sau khi sinh viên được công nhận đạt tiêu chuẩn kiến thức
hoặc trình độ nghiệp vụ, những hoạt động lao động đó không bị pháp luật cấm
và tạo ra những giá trị về vật chất và tinh thần.
- Xây dựng phiếu hỏi cho đề tài.
Chúng tôi xây dựng phiếu hỏi với hệ thống 25 câu hỏi, trong đó có 20
câu hỏi đóng và 5 câu hỏi mở.
18
- Giai đoạn 3: Khảo sát thực tế. Tiến hành phát phiếu hỏi khảo sát, tổng hợp
và xử lí số liệu thu được.
Thời gian: Từ tháng 1/2015 đến tháng 3/2015
Nhiệm vụ: Phát phiếu hỏi tới 100 sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục,
khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục từ khóa 1 đến khóa 4.
Tiến hành phỏng vấn sâu một số sinh viên đã tốt nghiệp về cơ quan,
chức vụ, lí do lựa chọn công việc và những đóng góp về mặt kiến thức, kỹ

năng, thái độ giúp sinh viên khóa sau chuẩn bị trong quá trình học tập.
Tổng hợp, xử lí, đánh giá số liệu thu thập được từ phiếu hỏi.
- Giai đoạn 4: Viết báo cáo nghiệm thu, hoàn thiện đề tài
Thời gian: Từ tháng 3/2015 đến tháng 4/2015
Nhiệm vụ: Tổng hợp các thông tin đã tìm hiểu và thu thập được. Đưa ra
kết luận và khuyến nghị.
Viết báo cáo hoàn chỉnh.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết là phương pháp thu thập thông tin
khoa học thông qua đọc sách báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái
niệm và tư tưởng cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài, hình thành giả thuyết
khoa học, dự đoán về những thuộc tính của đối tượng nghiên cứu, xây dựng
mô hình lý thuyết hy thực nghiệm ban đầu.
Mục đích sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Tìm hiểu cơ sở lý thuyết liên quan đến ngành Tâm lí học Giáo dục, vấn
đề việc làm và việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp phục vụ cho việc xây
dựng khung cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
- Phân tích và tổng hợp lý thuyết để xây dựng khái niệm công cụ cho đề
tài nghiên cứu.
Nội dung thực hiện phương pháp: tìm hiểu các tài liệu, chuyên đề các bài
viết, các công trình nghiên cứu được đăng tải trên sách, báo, tạp chí, mạng
internet về việc làm, việc làm sau khi tốt nghiệp, việc làm sau khi tốt nghiệp
19
của sinh viên đểđưa ra khái niệm “việc làm” và “việc làm của sinh viên sau
khi tốt nghệp”.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
2.3.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi là phương pháp dùng phiếu hỏi do
người nghiên cứu thiết kế sẵn một phiếu với nhưng câu hỏi được sắp xếp theo

một trật tự của suy luận lôgic, người nghiên cứu có thể thu được những thông
tin chân xác về sự vật hoặc hiện tượng từ đối tượng điều tra.
Mục đích thực hiện phương pháp:đây là phương pháp chủ đạo mà
nhóm chúng tôi sử dụng nhằm mục đích thu thập số liệu về thực trạng việc
làm của sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện
Quản lí Giáo dục.
Khách thể áp dụng phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: 100 sinh
viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục
từ khóa 1 đến khóa 4.
Nội dung: đưa ra hệ thống câu hỏi để tìm hiểu về thực trạng việc làm của
sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo
dục.
Cách tiến hành phương pháp:
Bước 1: Xác định mục tiêu xây dựng phiếu hỏi.
Phiếu hỏi nhằm mục tiêu thu thập những thông tin về thực trạng việc làm
của sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí
Giáo dục: tình trạng việc làm, thời gian xin việc, mức lương, giờ làm việc,
mức độ hài lòng với công việc
Bước 2: Xác định nội dung phiếu hỏi.
- Thu thập thông tin về: khóa, xếp loại tốt nghiệp.
- Tình trạng việc làm: có hay chưa có việc làm.
- Xin được việc làm trong thời gian bao lâu, bằng cách nào.
- Cơ quan và chức vụ hiện tại.
- Công việc có đúng chuyên ngành hay không?
- Thời gian làm việc, mức lương và mức độ hài lòng với công việc.
-Ý kiến đóng góp của Anh (Chị) về mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ mà
sinh viên cần trau dồi.
Bước 3: Xây dựng phiếu hỏi.
Từ những nội dung cần hỏi ở bước 2, chúng tôi đã xây dựng được phiếu
hỏi dành cho sinh viên tốt nghiệp từ khóa 1 đến khóa 4 với hệ thống 25 câu

20
hỏi. Trong đó có 20 câu hỏi đóng và 5 câu hỏi mở được sắp xếp theo trật tự
lôgic.
Bước 4: Tiến hành khảo sát.
Từ mẫu phiếu đã được xây dựng, chúng tôi tiến hành khảo sát trên 100 khách
thể sinh viên từ khóa 1 đến khóa 4. Hình thức khảo sát thông qua gmail, facebook,
điện thoại và phát phiếu hỏi, chúng tôi thu được 58/100 phiếu phát ra.
Bước 5: Thu thập và xử lí phiếu hỏi.
Sau khi thu được 58 phiếu, trong đó có 4 phiếu không hợp lệ. Còn lại 54
phiếu hỏi, chúng tôi tiến hành xử lí thông tin thu thập được để đưa ra những
con số thống kê về thực trạng việc làm của sinh viên ngành Tâm lí học Giáo
dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục.
2.3.2.1. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn là đưa ra những câu hỏi với người đối thoại đê
thu thập thông tin.
Mục đích thực hiện phương pháp: thu thập, bổ sung và kiểm tra làm rõ
hơn những thông tin đã thu thập được từ khảo sát thực tiễn bằng phiếu hỏi.
Khách thể: 10 sinh viên.
Nội dung: phỏng vấn sâu về 5 câu hỏi mở trong phiếu hỏi.
- Lý do anh (chị) chưa có việc làm?
- Anh (chị) đang làm ở cơ quan nào?
- Chức vụ hiện tại của Anh (chị) ?
- Tại sao Anh (chị) lại lựa chọn công việc này ?
- Anh (chị) có ý kiến gì để giúp sinh viên có thể dễ dàng tìm được việc
sau khi ra trường? (về kiến thức, kỹ năng, thái độ)
2.3.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý, hệ thống hóa các
thông tin đã thu thập được ở phiếu hỏi. Từ đó có thể phân tích, đánh giá thực
trạng việc làm của sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học
viện Quản lí Giáo dục.

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VIỆC LÀM
SAU KHI TỐT NGHIỆP CỦA SINH VIÊN NGÀNH TÂM LÍ HỌC
GIÁO DỤC, KHOA GIÁO DỤC – HỌC VIỆN QUẢN LÍ GIÁO DỤC
21
3.1. Một vài nét về khách thể nghiên cứu
3.1.1. Khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục
Học viện quản giáo dục là một trường được thành lập từ năm 2006 với
tiền thân là trường Cán bộ Quản lý Gíao dục và Đào tạo. Hiên nay trường có 4
Khoa: khoa Công nghệ thông tin, khoa Quản lý, khoa Giáo dục và khoa Cơ
bản đã đào tạo đến khóa thứ tám.
Khoa giáo dục trang bị cho người học những hiểu biết cơ bản các kiến
thức tâm lý học, giáo dục học. Có khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học
tâm lý, giáo dục học trong hoạt động giáo dục, tư vấn, dịch vụ và phát triển
cộng đồng. Có khả năng nghiên cứu khoa học,giảng dạy và tổ chức các hoạt
động dạy học về tâm lý học và giáo dục học.
Chức năng, nhiệm vụ của khoa là:
Phối hợp với phòng Đào tạo xây dựng chương trình, kế hoạch giảng dạy,
học tập; tổ chức đào tạo theo chương trình giáo dục đại học mã ngành Tâm lý
học Giáo dục và một số mã ngành khác của Học viện.
Giảng dạy các chuyên đề thuộc lĩnh vực Tâm lý học Giáo dục cho các
khoa đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài Học viện.
Ứng dụng và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực Tâm
lý học Giáo dụctrong công tác quản lí giáo dục và xã hội.
Tổ chức tư vấn và dịch vụ về Tâm lý học Giáo dục cho cá nhân, tổ chức
và các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước.
Đội ngũ cán bộ: trưởng khoa là Tiến sĩ Nguyễn Minh Đức. Hiện nay
khoa có 18 cán bộ, giảng viên, trong đó có 14 giảng viên, 1 chuyên viên văn
phòng, 1 trợ lý đào tạo, 1 trợ lý sinh viên, 1 viên chức.
3.1.2.Sinh viên ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện

Quản lí Giáo dục
Sinh viên tốt nghiệp ngành Tâm lý học giáo dục, khoa Giáo dục – Học
viện Quản lý giáo dục là những người được đào tạo trong ngành Tâm lý học
Giáo dục, khoa Giáo dục của Học viện Quản lý Giáo dục đã hoàn thành
chương trình đào tạo, đủ điều kiện ra trường và được nhận bằng tốt nghiệp
22
Hiện nay ngành Tâm lý học giáo dục, khoa Giáo dục của Học viện Quản lý
Giáo dục đã có 4 khóa sinh viên tốt nghiệp gồm khóa 1, khóa 2, khóa 3, và khóa 4
với khoảng 500 sinh viên đã được nhận bằng. Hiện nay, nhà trường và Khoa đã và
đang đào tạo những khóa tiếp theo của ngành Tâm lí học Giáo dục, từ khóa 8 trở
đi, chuyển từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức tín chỉ.
3.2. Thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngành Tâm lý
học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lý Giáo dục
Để tìm hiểu những thông tin về thực trạng việc làm của sinh viên ngành
Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục, chúng tôi
sử dụng câu hỏi số 5 trong phiếu hỏi (phụ lục). Kết quả khảo sát thu được thể
hiện ở biểu đồ 3.1 dưới đây:
Biểu đồ 3.1:Thực trạng việc làm của sinh viên ngành Tâm lí học
Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục.
Qua biểu đồ, chúng tôi nhận thấy:
Phần lớn sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm, với tỉ lệ là 90,7%. Còn lại
9,3% sinh viên chưa có việc làm. Như vậy tỉ lệ sinh viên có việc làm lớn hơn
gấp 10 lần tỉ lệ sinh viên chưa có việc làm, có thể nói đây là một con số đáng
mừng trong bối cảnh xã hội đang bàn luận quá nhiều về tình trạng thất nghiệp
của sinh viên sau khi ra trường. Đặc biệt là với khối ngành Khoa học xã hội.
3.2.1. Thực trạng sinh viên tốt nghiệp ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa
Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục chưa có việc làm.
Từ biểu đồ 3.1 cho chúng ta biết có 9,3% sinh viên tốt nghiệp chưa có
việc làm. Trong đó phần lớn sinh viên có xếp loại học lực TB-Khá với tỉ lệ
60%, như vậy, xếp loại học lực tốt nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng quyết

địnhcơ hội xin việc của sinh viên sau khi ra trường. Theo ý kiến của các anh
chị tham gia khảo sát, xếp loại học lực từ khá trở lên thường có cơ hội xin việc
cao hơn. Bên cạnh đó, việc rèn luyện, tích cực tham gia các hoạt động tình
nguyện, các phong trào sinh viên cũng giúp sinh viên hình thành những kỹ
năng yêu cầu trong công việc (kỹ năng giao tiếp, làmviệc nhóm, lập kế
23
hoạch ) giúp sinh viên có cơ hội tìm việc làm dễ dàng hơn. Theo khảo sát của
chúng tôi, lí do chủ yếu mà hiện tại sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm là:
- Đang trong quá trình chuyển việc: Một số anh chị đã đi làm nhưng xin
nghỉ việc vì công việc không được như mong muốn, chưa tìm được
công việc phù hợp với mình : chị N.T.T.G tốt nghiệp loại giỏi, là sinh
viên khóa 4 cho biết, “sau khi tốt nghiệp chị đã nhận dạy trẻ tự kỷ gần 1
năm nhưng vì lương thấp nên đang nộp hồ sơ ở nơi khác, nếu không xin
được việc ổn định thì sẽ học tiếp lên thạc sĩ để có cơ hội xin việc tốt
hơn”. Hoặc có một số anh chị đang trong thời gian chờ kết quả xin việc.
- Mức lương thấp, không phù hợp với năng lực bản thân:một số anh chị
đã đi xin việc nhưng các công việc tìm được đều là những việc có mức
lương thấp, công việc không phù hợp với năng lực bản thân. Mức lương
thấp không đủ chi tiêu, công việc không liên quan đến ngành học nên
không phát huy được năng lực nên họ chọn một giải pháp an toàn hơn
là học lên hoặc học một chuyên ngành khác để tìm một công việc phù
hợp.
- Ngành tâm lí học Giáo dục của Học viện Quản lí Giáo dục chưa có mã
ngành nên cũng gây khó khăn cho sinh viên khi đi xin việc.
- Lý do khác : Một số anh chị vì lý do gia đình (đang trong qúa trình
mang thai, chăm sóc con nhỏ, ), đầu tư vào việc nâng cao trình độ
chuyên môn
3.2.2. Thực trạng sinh viên tốt nghiệp Ngành Tâm lí học Giáo dục, khoa
Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục đã có việc làm.
Cũng từ số liệu ở biểu đồ 3.1 ta thấy có 90,7% sinh viên tốt nghiệp ngành

Tâm lí học Giáo dục, khoa Giáo dục – Học viện Quản lí Giáo dục đã có việc
làm. Theo đánh giá của chúng tôi đây là con số cho chúng ta một cái nhìn lạc
quan về tình trạng việc làm của sinh viên nhóm ngành xã hội sau khi tốt
nghiệp.
Sử dụng những câu hỏi 7, 8 trong phiếu hỏi (phụ lục) đối với những sinh
viên tốt nghiệp đã xin được việc, chúng tôi thu được số liệu về thời gian xin
việc và cách thức xin việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp như sau:
24
Về thời gian xin việc: có 51% tìm được việc làm trong thời gian dưới 3
tháng, trong đó có một số sinh viên có việc từ khi còn là đi học; 25,5% sinh
viên xin được việc trong thời gian từ 3 đến 6 tháng; 8,2% sinh viên xin được
việc làm trong thời gian từ 6 đến 12 tháng và 16,3% sinh việc xin việc sau 1
năm. Như vậy, phần lớn sinh viên xin được việc làm sau khi tốt nghiệp từ sáu
tháng trở xuống. Có thể nói đây là khoảng thời gian để sinh viên tốt nghiệp
tìm việc và chuẩn bị cho công việc, thích nghi với hoàn cảnh và môi trường
mới.
Về cách thức xin việc: có 63,3% sinh viên sau khi tốt nghiệp xin việc
“nhờ năng lực bản thân”, chiếm tỉ lệ cao nhất trong 3 cách thức xin việc mà
chúng tôi khảo sát. Mỗi sinh viên sau khi tốt nghiệp đều có thể tự tìm được
việc làm cho mình, ngoài bằng cấp thì kỹ năng viết hồ sơ và kinh nghiệm làm
việc giúp cho cơ hội xin việc cao hơn. Anh N.X.T.A sinh viên k4 cho biết:
“kỹ năng viết hồ sơ giúp anh tạo ấn tượng trong quá trình xin việc, việc chuẩn
bị kỹ hồ sơ, biết cách trình bày sẽ giúp ghi điểm với nhà tuyển dụng”. Có
20,4% xin việc “nhờ sự giúp đỡ của gia đình” và 16,3% xin việc “nhờ mối
quan hệ khác”. Nhờ vào năng lực bản thân cùng với sự giúp đỡ của gia đình
và các mối quan hệ khác, sinh viên có cơ hội tìm việc làm trong thời gian
ngắn và phù hợp với ngành học.
Đối với nhóm sinh viên đã có việc làm, chúng tôi thực hiện khảo sát để
phân loại từng nhóm công việc đúng chuyên ngành, gần ngành và không
đúng chuyên ngành. Với câu hỏi 12 trong phiếu hỏi (phụ lục 1): “ Anh (chị)

làm việc có đúng chuyên ngành không?” chúng tôi thu được kết quả ở biểu đồ
sau:
Biểu đồ 3.2:Thực trạng việc làm theo chuyên ngành
Từ biểu đồ 3.2 ta thấy, có 42,9% sinh viên làm việc đúng chuyên ngành;
36,7% sinh viên làm việc gần ngành và 20,4% sinh viên làm việc không đúng
chuyên ngành. Như vậy, sinh viên làm việc đúng chuyên ngành có tỉ lệ cao
nhất với 42,9%. Một số chức vụ và cơ quan, đơn vị mà các anh chị sinh viên
25

×