DANH SÁCH NHÓM LỚP CT B35
1. Nguyễn Thị Minh Thư (nhóm trưởng)
2. Mai Thị Thùy Linh
3. Lê Trung Anh
4. Đặng Ngọc Hường
5. Lê Thanh Hải
1
MỤC LỤC
I. LỊCH SỬ QUAN HỆ MỸ - NHẬT SAU CTTG II:
Sau thế chiến II, Nhật Bản là nước bại trận còn phe Đồng minh gồm Mỹ, Anh,
Pháp và Liên Xô là các nước thắng trận. Ngày 14/8/1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu
hàng quân đội Đồng minh vô điều kiện, Nhật Bản chịu sự chiếm đóng của lực
lượng quân Đồng minh với Tướng Douglas Mac Arthur được chỉ định giữ chức
Tổng chỉ huy tối cao các lực lượng Đồng minh. Mục tiêu chủ yếu của lực lượng
Đồng minh chiếm đóng ở Nhật Bản là thủ tiêu chủ nghĩa quân phiệt và thiết lập dân
chủ hóa nước Nhật. Song lực lượng Đồng minh chiếm đóng ở Nhật Bản lúc này chủ
yếu là người Mỹ nên các chính sách thực thi của họ không nằm ngoài mục tiêu đảm
bảo Nhật Bản không thể trở thành mối đe doạ đối với Mỹ.
Tuy nhiên, sự chiếm đóng của Mỹ ở Nhật diễn ra đồng thời với việc Mỹ giúp
đỡ Nhật Bản phục hồi kinh tế và phát triển văn hoá. Cùng với kế hoạch Marshall ở
châu Âu, Mỹ viện trợ kinh tế và khoa học kĩ thuật cho Nhật. Phong cách Mỹ và lối
sống Mỹ cũng bắt đầu xâm nhập vào xã hội Nhật Bản.
Năm 1949, khi cách mạng Trung Quốc thành công với sự ra đời của nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Mỹ đã thực hiện "đường lối đảo ngược", đẩy mạnh
quan hệ với Nhật Bản nhằm ngăn chặn làn sóng cộng sản ở châu Á.
Tóm lại, Nhật Bản bại trận trong CTTG II đã mở ra một thời kỳ mới trong
quan hệ Mỹ-Nhật. Kết thúc chiến tranh cũng có ý nghĩa là mở đầu thời kỳ chiếm
đóng của Mỹ ở Nhật Bản. Điều này phản ánh đúng thực trạng của hai nước sau
chiến tranh, một bên thắng trận và một bên bại trận. Kẻ bại trận bị nhiều điều khoản
ràng buộc mang tính quốc tế và bị kiệt quệ về kinh tế. Quan hệ Mỹ-Nhật vốn là cựu
thù trong chiến tranh nay đã trở thành đồng minh chiến lược.
II. CƠ SỞ HỢP TÁC:
Giữa Mỹ và Nhật Bản, quan hệ đặc biệt đã được xác lập suốt trong giai
đoạn chiến tranh lạnh, đó là mối quan hệ giữa người bảo trợ và người được bảo trợ.
2
Sau thất bại trong chiến tranh thế giới II, Nhật Bản đã chọn con đường phát triển
kinh tế bằng toàn bộ sức lực của mình, phó thác việc phòng vệ Nhật Bản vào tay
Mỹ, nước thắng Nhật trong chiến tranh. Mối quan hệ bất bình đẳng này đã tồn tại
trong một thời gian dài vì nó phục vụ cho lợi ích của cả Mỹ và Nhật Bản.
1. Lý thuyết về cơ sở hợp tác an ninh
Trong quá trình để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia, các
quốc gia có cùng chung mục đích hoặc có chung kẻ thù đã liên kết với nhau để kết
hợp khả năng quân sự, chính trị tạo nên sức mạnh chung nhằm đạt được mục đích
đề ra. Do các quốc gia có sự khác nhau về đặc điểm dân cư, địa lý, giới cầm quyền,
văn hóa … nên luôn tồn tại các mâu thuẫn. Vì vậy từ thời thượng cổ đến nay việc
quốc gia này liên minh hợp tác với các quốc gia khác để bảo vệ an ninh quốc gia là
việc thường thấy. Có những liên minh tạm thời, lỏng lẻo nhưng cũng có những liên
minh tồn tại lâu dài, chặt chẽ.
An ninh quốc gia được đảm bảo khi không có các mối đe dọa đến các lợi ích
của nó hoặc nếu có thì quốc gia này có khả năng ngăn chặn và đẩy lùi các đe dọa
đó. Các quốc gia thường lựa chọn tham gia vào một liên minh là giải pháp đem lại
cho quốc gia nhiều mặt lợi.
Thứ nhất, một liên minh sẽ giúp quốc gia bổ sung được sức mạnh. Do các
quốc gia luôn bị giới hạn về nguồn lực nên quốc gia sẽ gặp phải những hạn chế nhất
định khi phải tự đối phó với các nguy cơ an ninh. Với sự kết hợp thành liên minh
khả năng kết hợp sức mạnh lại với nhau để tang cường sức mạnh của cả hai
Ngoài ra hợp tác an ninh là một phương cách hợp lí và có hiệu quả để góp phần
thực hiện được mục tiêu an ninh của một quốc gia thông qua việc tăng cường khả
năng chống chọi với các mối đe dọa, giảm được chi phí, tiết kiệm được nguồn lực,
răn đe các đối thủ và tạo dựng quan hệ tốt hơn với đồng minh.
Thêm vào đó, các nhà hiện thực chủ nghĩa cho rằng mục đích cơ bản của các
chủ thể trong chính trị quốc tế là bảo vệ lợi ích dân tộc, mà trước hết là đảm bảo an
ninh tối đa của riêng mình. Trong một thế giới vô chính phủ, để đảm bảo an ninh
của mình chống lại một nước hoặc một nhóm nước đang tăng cường quyền lực quá
mức và do đó đe doạ sẽ thống trị cả thế giới hay một phần thế giới, các quốc gia
thường thi hành chính sách cân bằng lực lượng bằng cách tạo ra một đối trọng sức
mạnh tương đương nhờ vào việc tăng cường sức mạnh của chính mình hoặc thiết
lập liên minh phòng thủ với một số nước khác. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, khi
mà hai nước đối đầu là Liên Xô và Mỹ đều đang tìm cách để nâng cao sức mạnh,
mở rộng tầm ảnh hưởng của mình, đồng thời kìm chế sức mạnh của đối phương thì
việc tìm thêm cho mình một đồng minh là rất quan trọng. Để đối phó với Liên Xô
3
và chủ nghĩa cộng sản đang ngày càng lớn mạnh, Mỹ và Nhật Bản đã chọn lựa cách
liên minh với nhau. Đối với Mỹ thì Nhật Bản là một đồng minh quan trọng ở khu
vực châu Á Thaí Bình Dương, là căn cứ tiền tiêu của Mỹ chống lại Liên Xô và các
nước cộng sản. Còn với Nhật Bản thì sự có mặt của Mỹ ở đây sẽ đảm bảo an ninh
cho nước này khi mà Liên Xô và Trung Quốc bên cạnh đang ngày càng tăng cường
khả năng quân sự, đặc biệt là vũ khí hạt nhân của hai nước này lúc nào cũng có thể
lăm le đe dọa đến Nhật Bản. Giữa Mỹ và Nhật Bản, quan hệ đặc biệt đã được xác
lập trong suốt giai đoạn chiến tranh lạnh, đó là quan hệ giữa người bảo trợ và người
được bảo trợ. Mới nhìn qua thì có thể thấy được tính bất cân đối, bất bình đẳng
trong mối quan hệ này, tuy vậy hai nước vẫn là đồng minh với nhau ngay cả khi
chiến tranh lạnh kết thúc, có lẽ phần lớn là do nó còn phục vụ cho những lợi ích
riêng khác của cả hai nước.
2. Phía Mỹ:
Chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh thế giới 2 nhằm thực hiện hai mục tiêu
chính:
- Xoá bỏ hoàn toàn trật tự thế giới cũ của các đế quốc Tây Âu, đưa toàn bộ thế
giới tư bản chủ nghĩa vào một trật tự chính trị và kinh tế mới do Hoa Kỳ khống
chế.
- Làm suy yếu, ngăn chặn sự phát triển và lan rộng ảnh hưởng của Liên
Xô và chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Mỹ chọn mục tiêu thứ hai làm chủ đạo, thực
hiện chính sách “ngăn chặn cộng sản”.
Học thuyết quân sự của Mỹ trong thời kỳ này nhằm tìm cách giành ưu thế
quân sự trên phạm vi toàn cầu; bao vây cô lập Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa; xây dựng các khối quân sự để vừa kiểm soát các đồng minh, vừa tạo cơ sở
cho hoạt động quân sự khi cần thiết.
Ở Tây Âu, Mỹ đã xây dựng khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Trong khi đó ở châu Á Thái Bình Dương, Mỹ đã xây dựng hàng trăm căn cứ quân
sự thành các phòng tuyến nhiều tầng nấc, trong đó Mỹ coi việc xây dựng Hiệp ước
phòng thủ với Nhật Bản lâu dài là hết sức cần thiết, thậm chí coi Nhật Bản như một
NATO phương Đông.
Lợi ích chiến lược của Mỹ ở châu Á được xác định vào khoảng thời gian
1949-1950. Tháng 1/1950, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson đã tuyên bố: “Phạm vi
phòng thủ của Mỹ trải từ A-lơ-san đến Nhật Bản và tiếp tục đến tận quần đảo Ryu-
kyu và Phillipin”.
4
Chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh thế giới II phản
ánh chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm thực hiện cuộc chiến tranh lạnh mà nội dung
chính của nó là cô lập và tiến tới xoá bỏ hệ thống XHCN theo mô hình Xô viết.
Việc chiếm đóng Nhật Bản sau chiến tranh và giúp Nhật khôi phục và phát triển
kinh tế nằm trong những tính toán chiến lược của nước này. Một mặt Mỹ muốn
chứng tỏ với công luận của Nhật Bản và thế gới rằng cuộc chiến tranh đã qua, sự
giúp đỡ đối với Nhật Bản là cần thiết và qua đó nhằm xoá đi hình ảnh chẳng đẹp đẽ
gì của đội quân chiếm đóng. Mặt khác, dùng Nhật như một căn cứ tiền tiêu để răn
đe hai siêu cường cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc.
Bên cạnh đó, Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật là Mỹ nhằm biến Nhật thành một
bàn đạp cho các lực lượng của Mỹ ở Viễn Đông, lôi kéo Nhật vào liên minh chống
liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, gây chiến tranh xâm lược ở Triều Tiên (1950-
1953), chống nhân dân hai nước Trung – Triều, đàn áp phong trào dân chủ đang
phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản.
Hơn nữa, việc liên minh với Nhật Bản, đặc biệt là sau sự ra đời của Hiệp ước
phòng thủ giữa hai nước còn tạo cơ sở pháp lý cho việc có mặt dài hạn của các căn
cứ quân sự Mỹ ở Nhật, đồng thời Mỹ cũng muốn kiểm soát trực tiếp và kiềm chế
khả năng quân sự của Nhật Bản. Một liên minh quân sự với Nhất cũng là một sự
đảm bảo chắc chắn cho sự có mặt của Mỹ trong khu vực và sự an tâm của Nhật
trước các thách thức lớn như Liên Xô, Trung Quốc hay Triều Tiên.
3. Phía Nhật Bản:
Chính sách của Nhật Bản được bắt đầu với “Học thuyết Yoshida” và được
củng cố, phát triển vào những năm 1960 dưới thời các Chính phủ Ikeda và Satò, bao
gồm 3 điểm cốt lõi:
- Trong chiến tranh lạnh, Nhật Bản coi mình là một thành viên của phương Tây,
xác định phương châm chủ yếu “thoát Á, nhập Âu”.
- Dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh quốc phòng, hạn chế đến mức nhỏ nhất việc
xây dựng lực lượng phòng vệ của riêng mình. Nhật hoàn toàn phụ thuộc vào
Mỹ, tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ về an ninh, quốc phòng để tạp trung phát triển
kinh tế.
- Coi trọng khôi phục và phát triển kinh tế.
Đặc trưng của chính sách ngoại giao kinh tế này là đuổi kịp và vượt các nước
phát triển khác. Tôn chỉ của Nhật trong thời kỳ này là “ chỗ ngồi thấp, lợi nhuận
cao”. Do đó, thêm một hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật dường đóng vai trò tích cực cho
chiến lược phát triển của Nhật hơn là những tiêu cực nó đưa lại.
5
Chiến tranh thế giới thứ hai để lại cho Nhật Bản những hậu quả nặng nề (gần
3 triệu người chết và mất tích, kinh tế bị tàn phá, 13 triệu người thất nghiệp, đói
rét…), bị Mỹ chiếm đóng dưới danh nghĩa Đồng minh (1945 – 1952). Trong tình
hình hết sức khó khăn như vậy và thêm sức ép của các nước thắng trận Nhật đã cam
kết đi theo chính sách hòa bình và chỉ duy trì một lực lượng quân sự hòa toàn có
tính chất phòng thủ. Điều 9 Hiến pháp năm 1947 của Nhật quy định Nhật không
được quyền sở hữu các lực lượng bộ binh, hải quân và không quân cấm xuất khẩu
vũ khí cũng như không cho phép Nhật giải quyết tranh chấp bằng vũ lực. Với hạn
chế như thế và trước một nước Nga hùng mạnh với vô số các đầu đạn hat nhân tên
lửa và Trung Quốc đang muốn khẳng định mình thì Nhật không có cách nào tốt hơn
là hợp tác an ninh với Mỹ, dựa vào Mỹ và ô hạt nhân của Mỹ để duy trì hạt nhân
trong thời kỳ chiến tranh lạnh
1
.
Bên cạnh đó, việc ký hiệp ước với Mỹ sẽ giúp Nhật tiết kiệm được một khoản
chi phí quốc phòng lớn và cho phép Nhật chỉ tập trung vào một mối quan tâm chủ
yếu là phát triển kinh tế. Ngoài ra cũng phải ghi nhận rằng sự phục hồi sau chiến
tranh chưa tạo cho nước Nhật một vị trí đủ mạnh để mặc cả với Mỹ khi ký kết hiệp
ước giữa hai nước.
III. NỘI DUNG HỢP TÁC:
1. Các nguyên tắc duy trì Liên minh
Hiệp ước hòa bình công nhận rằng Nhật Bản là một quốc gia có chủ quyền có
quyền tham gia vào các thỏa thuận an ninh tập thể, và hơn nữa, Điều lệ của Liên
Hiệp Quốc công nhận rằng tất cả các quốc gia có quyền cố hữu của cá nhân và tập
phòng thủ tự.
Trong thực hiện các quyền này, Nhật Bản mong muốn, như một sự sắp xếp
tạm thời cho quốc phòng của mình, rằng Hoa Kỳ sẽ duy trì lực lượng vũ trang của
riêng mình và về Nhật Bản để ngăn chặn cuộc tấn công vũ trang vào Nhật Bản.
Hoa Kỳ, vì lợi ích của hòa bình và an ninh, hiện đang sẵn sàng để duy trì nhất
định của lực lượng vũ trang của mình và về Nhật Bản, với mong muốn, tuy nhiên,
Nhật Bản sẽ ngày càng tự chịu trách nhiệm phòng thủ của riêng mình chống lại trực
tiếp và gián tiếp xâm lược, luôn luôn tránh bất kỳ trang bị vũ khí mà có thể là một
mối đe dọa tấn công hoặc phục vụ khác hơn là để thúc đẩy hòa bình và an ninh theo
quy định của mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Hoa Kỳ cung cấp các lực lượng không quân và lực lượng biển cho Nhật Bản.
1
Lê Linh Lan, “Vai trò an ninh của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh”, Tạp chí nghiên cứu
quốc tế số 4,tháng 12/1995.
6
Các lực lượng này có thể được sử dụng để góp phần duy trì hòa bình và an ninh ở
vùng Viễn Đông và đến an ninh của Nhật Bản chống lại cuộc tấn công vũ trang, bao
gồm cả hỗ trợ được theo yêu cầu rõ ràng của Chính phủ Nhật Bản để đưa ra cuộc
bạo loạn và rối loạn nội mô lớn ở Nhật Bản, gây ra thông qua sự xúi giục hoặc can
thiệp của một quyền lực bên ngoài, quyềnhạn.(Điều1)
Trong quá trình thực hiện quyền nêu tại Điều 1, Nhật Bản sẽ không cấp, nếu
không có sự đồng ý trước của Hoa Kỳ, bất kỳ cơ sở hoặc bất kỳ quyền, quyền hạn,
cơ quan nào, trong hoặc liên quan đến cơ sở, quyền của đơn vị đồn trú hoặc của cơ
động, hoặc quá cảnh của mặt đất, không khí hay các lực lượng hải quân đến bất kỳ
quyền lực thứ ba.
2
Các điều kiện đó phải phối trí các lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ tại và về
Nhật Bản được xác định bằng các thoả thuận hành chính giữa hai Chính phủ.
3
Hiệp ước này sẽ hết hạn bất cứ khi nào theo ý kiến của các Chính phủ của Hoa
Kỳ và Nhật Bản có trách nhiệm đã có hiệu lực như Liên Hợp Quốc sắp xếp hoặc bố
trí thay thế như an ninh cá nhân hoặc tập thể tốt sẽ cung cấp cho việc bảo dưỡng của
Liên Hiệp Quốc hay không hòa bình và an ninh trong khu vực Nhật Bản.
4
Theo hiệp ước, cả hai bên có nghĩa vụ để duy trì và phát triển năng lực của họ
để chống lại cuộc tấn công vũ trang ở chung và để hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp
tấn công vũ trang vào vùng lãnh thổ thuộc quyền quản lý của Nhật Bản., tuy nhiên,
rằng Nhật Bản không thể giúp đỡ với các quốc phòng của Hoa Kỳ bởi vì nó đã được
hiến pháp cấm việc gửi các lực lượng vũ trang ở nước ngoài (Điều 9).
Hiệp ước cũng thể hiện sự từ bỏ của người dân Nhật Bản về "mối đe dọa hoặc
sử dụng vũ lực như một phương tiện giải quyết tranh chấp quốc tế". Điều 6 của hiệp
ước quy định về việc đóng quân của lực lượng Hoa Kỳ tại Nhật Bản, với chi tiết cụ
thể về cung cấp cơ sở và các khu vực sử dụng của họ và chính quyền của công dân
Nhật Bản. Biên bản thỏa thuận với các điều ước quy định rằng chính phủ Nhật Bản
phải được tư vấn trước khi thay đổi trong việc triển khai lực lượng Hoa Kỳ tại Nhật
Bản hay với việc sử dụng các căn cứ của Nhật Bản cho các hoạt động chiến đấu
khác trong quốc phòng của Nhật Bản chính nó.
2
Điều 2, Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật năm 1951
3
Điều 3, Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật năm 1951
4
Điều 4, Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật năm 1951
7