Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Thực hiện Luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.23 KB, 103 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN CHÁNH
THỰC HIỆN LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN CHÁNH
THỰC HIỆN LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60.38.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HÀ THỊ MAI HIÊN
HÀ NỘI - 2012
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa học và Luận văn Thạc sĩ của mình, trước hết em xin gửi
lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám đốc, các khoa, phòng, thầy cô giáo của Học
viện Khoa học Xã hội đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho em
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên - Cô hướng dẫn khoa
học, đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động
viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2012
NGUYỄN VĂN CHÁNH


Học viên Cao học Khóa 1 (2010 - 2012)
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Học viện Khoa học Xã hội
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ
Luật học “Thực hiện Luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định” là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cũng lĩnh vực.
Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn
này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Hà
Thị Mai Hiên.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Hà Nội, tháng 10 năm 2012
NGUYỄN VĂN CHÁNH
Học viên Cao học Khóa 1 (2010 - 2012)
Chuyên ngành:Luật Kinh tế
Học viện Khoa học Xã hội
MỤC LỤC

Trang
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
MỞ ĐẦU 4
Chương 1 10
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
10
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa thực hiện Luật Thi hành
án dân sự
10
1.1.1. Thi hành án dân sự và pháp luật thi hành án dân sự 10

1.1.2. Khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự
18
1.1.3. Đặc điểm thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở
Việt Nam
25
1.2. Nội dung và các yếu tố tác động đến việc thực hiện Luật
Thi hành án dân sự
28
1.2.1. Nội dung hoạt động và hành vi thực hiện Luật Thi
hành án dân sự của các chủ thể
28
1.2.2. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện Luật Thi hành
án dân sự
31
1.3. Quá trình điều chỉnh pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Nam
32
Chương 2 40
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC THỰC
HIỆN LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Một số nội dung pháp luật thi hành án dân sự hiện hành 40
2.1.1. Những quy định về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự 40
2.1.2. Những quy định về thủ tục thi hành án dân sự 53
2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện Luật Thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Bình Định và một số vấn đề đặt ra hiện nay
71
2.2.1. Sơ lược vài nét về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và

dân số tỉnh Bình Định
71
2.2.2. Đặc điểm tình hình chung trong việc thực hiện Luật 72
1
Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định
2.3. Một số vướng mắc trong thực hiện Luật Thi hành án dân
sự trên địa bàn tỉnh Bình Định và các giải pháp tăng cường hiệu quả
thực hiện Luật Thi hành án dân sự
76
2.3.1. Một số vướng mắc trong thực hiện Luật Thi hành án
dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định
76
2.3.2. Các giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện Luật Thi
hành án dân sự
91
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC 100
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BA, QĐ Bản án, Quyết định
2. CHV Chấp hành viên
3. CQQLNN Cơ quan quản lý nhà nước
4. CQTHA Cơ quan thi hành án
5. CQTHADS Cơ quan thi hành án dân sự
6. TA Tòa án
7. TAND Tòa án nhân dân
8. THA Thi hành án
9. THADS Thi hành án dân sự
10. VKSND Viện Kiểm sát nhân dân

3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án
nói riêng và trong hoạt động tư pháp nói chung. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ
là phán quyết trên giấy, nếu nó không được thực thi trên thực tế. Do vậy, bản án,
quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm chỉnh có
tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi
hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép
nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền
lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Điều 36 Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các
bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành".
[50].
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này.

Nhiều năm qua, Chính
phủ đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công
tác này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được một số
kết quả đáng khích lệ, nhất là kể từ khi Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày
14/11/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009. Bên cạnh những tác động tích
cực của Luật Thi hành án dân sự, thì hiện nay cũng cho thấy còn nhiều hạn chế và
khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Luật Thi hành án dân sự. Hiệu quả công
tác thi hành án dân sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và sự quan
tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật
sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật, cụ thể: Tổng số
việc còn phải thi hành chuyển sang kỳ sau qua các năm tuy có giảm, nhưng vẫn lớn;

số việc thi hành án chưa có điều kiện thi hành án, nhất là về tiền vẫn chiếm tỷ lệ cao
so với tổng số phải thi hành.
4
Năm 2010: Tổng số việc phải thi hành là 615.411 việc, trong đó có 406.896
việc có điều kiện thi hành (chiếm 66,12%), 207.617 việc chưa có điều kiện thi hành
(chiếm 33,88%), thì đã thi hành xong 351.373 việc, đạt tỷ lệ 86,35% trong số việc
có điều kiện thi hành (vượt chỉ tiêu 6,35%). Tổng số tiền phải thi hành là 30.698 tỷ
100 triệu 112 nghìn đồng, trong đó số có điều kiện thi hành là 10.368 tỷ 001 triệu 120
nghìn đồng (chiếm 33,78%), số chưa có điều kiện thi hành là 20.300 tỷ 198 triệu 756
nghìn đồng (chiếm 66,22%), đã thi hành được 8.301 tỷ 320 triệu 561 nghìn đồng, đạt
tỷ lệ 80,1% so số tiền có điều kiện thi hành. ".[53].
- Năm 2011: Tổng số việc phải thi hành là 632.545 việc, trong đó có 431.979
việc có điều kiện thi hành (chiếm 68,29%), 200.666 việc chưa có điều kiện thi hành
(chiếm 31,7%), thì đã thi hành xong 379.990 việc, đạt tỷ lệ 88% trên số việc có
điều kiện thi hành (vượt chỉ tiêu 7%), tăng 28.617 việc (1,65%) so với năm 2010.
Tổng số tiền phải thi hành 35.416 tỷ 341 triệu 736 nghìn đồng, tăng 4.718 tỷ 241 triệu
624 nghìn đồng (16,14%) so với năm 2010. Kết quả phân loại, số có điều kiện thi hành
là 13.366 tỷ 290 triệu 661 nghìn đồng (chiếm 37,74%), số chưa có điều kiện thi hành là
22.020 tỷ 51 triệu 750 nghìn đồng (chiếm 62,26%), đã thi hành được 10.167 tỷ 712
triệu 889 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 76,1% so số tiền có điều kiện thi hành. ".[53].
Đây là vấn đề rất lớn và bức xúc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự hiện
nay. Có thể nhận thấy rằng: Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên nhân: Ý
thức tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân nói chung và một số cơ quan, tổ
chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính quyền địa phương) còn
nhiều hạn chế và yếu kém. Mặt khác, là do chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ,
chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan trong quá trình
thi hành án; mặc dù Luật Thi hành án dân sự đã ra đời và có hiệu lực trong quá trình
tác nghiệp. Song, cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự chưa được
hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án dân sự chưa thực sự đầy đủ,
chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; một số lĩnh vực trong cơ chế quản lý và cơ chế

thi hành án hiện nay không hợp lý, gây nhiều cản trở và làm giảm hiệu quả công tác thi
hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng.
5
Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: Kinh
tế, pháp luật, chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ . . . Nhưng trong
khuôn khổ luận văn luật học, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những vấn đề liên quan
đến pháp luật.
Với tất cả những lý do nêu trên, việc chọn đề tài "Thực hiện Luật Thi
hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định " làm luận văn thạc sĩ luật học là cấp
thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước những đòi hỏi khách quan, tất yếu của công tác thi hành án dân sự,
trong thời gian qua đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án
dân sự, cụ thể như sau:
- "Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự
sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Tiến Long (Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005);
- "Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường trên địa bàn thành phố Bà
Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Phạm Thị Việt Nga (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2008);
- "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động THA ở Việt Nam
trong giai đoạn mới" đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước do Bộ Tư pháp chủ
trì (2005);
- "Mô hình quản lý thống nhất công tác THA" đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ do Cục Quản lý THADS - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện;
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện các tiêu chuẩn chức danh
tư pháp” Đề tài khoa học cấp bộ năm 2005 do Tiến sĩ Dương Thanh Mai làm chủ
nhiệm;
6

- "Đổi mới tổ chức và hoạt động THADS ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn
Quang Thái (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
2003);
- "Các biện pháp cưỡng chế THADS" của tác giả Nguyễn Công Long (Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội);
- "Hoàn thiện pháp luật THADS" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy (Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001);
- "Một số vấn đề về tổ chức và THADS Việt Nam" của tác giả Trần Văn
Quảng (Luận văn thạc sỹ Luật học, 1997);
- "Xã hội hóa một số nội dung THADS" của tác giả Lê Xuân Hồng (Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002);
- "Đổi mới thủ tục THADS Việt Nam" của tác giả Lê Anh Tuấn (Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004);
- "Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong THADS ở Việt
Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa (Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005);
- "Giám sát THADS ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Hoàng Thế Anh (Luận
văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005);
- "Những vướng mắc trong cơ chế phối hợp về THADS" của tác giả Hoàng
Thế Liên và Nguyễn Thanh Thủy đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng
5/2001;
- "Vấn đề đổi mới thủ tục THADS ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên đề về THADS,
năm 2006);
- “Pháp lệnh THADS năm 2004 sau ba năm thi hành” của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên đề về THADS,
năm 2007);
- “Thực trạng về án tồn đọng và những giải pháp của Thi hành án dân sự
thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn Lực và Đào Anh Dũng đăng trên
7

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên đề về THADS, năm 2008).
Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật tố tụng dân sự của trường Đại học luật Hà
Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí
Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành
án dân sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình
cũng đã đề cập đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề đó một cách toàn diện,
chuyên sâu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu tổng quát của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn
cho việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục tiêu lớn đó cần phải thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thực hiện thi hành án và thi hành án dân sự.
- Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật về Luật Thi hành
án dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự.
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự.
4. Phạm vi nghiên cứu
" Thực hiện Luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định " là
một đề tài có tính khái quát tương đối cao, nội dung cơ bản rất rộng, phong phú và
phức tạp. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu cơ sở lý luận và quá trình thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
đánh giá thực trạng thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định và từ đó rút ra
những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm đáp ứng công tác thi
hành án dân sự trong điều kiện hội nhập sâu rộng của đất nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
8

- Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, tổng hợp.
6. Ý nghĩa và những điểm mới của luận văn
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái
niệm thi hành án và thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án
và thi hành án dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên
cứu khoa học về pháp luật thi hành án.
- Từ việc đánh giá kết quả thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008 trên
địa bàn tỉnh Bình Định, tác giả đưa ra được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự trong thời gian đến.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các
chữ viết tắt, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện Luật Thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự và một số vấn đề đặt ra
đối với việc thực hiện Luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định.

.

9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa thực hiện Luật Thi hành án dân sự
1.1.1. Thi hành án dân sự và pháp luật thi hành án dân sự
Bản án, quyết định của Tòa án thể hiện quyền lực của Nhà nước trong việc

quản lý xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và các chủ thể liên quan,
bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội. Khi các BA, QĐ của Tòa án được thực thi trên
thực tế, thì quyền tư pháp của Nhà nước mới được thực hiện trọn vẹn, công lý mới
trở thành hiện thực, trật tự pháp luật mới được khôi phục. Chính vì vậy, Điều 136
Hiến pháp 1992 nêu rõ: “Các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành”. Như vậy, thi hành án dân sự có thể được tiếp cận từ hai góc độ tổ
chức, quản lý của nhà nước đối với hoạt động thi hành án và từ góc độ các chủ thể
người phải thi hành án và người được thi hàn án.
Để bảo đảm hiệu lực BA, QĐ của Tòa án là yêu cầu tất yếu khách quan trong
hoạt động Nhà nước, là nguyên tắc Hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động
THA ở nước ta. Trong thực tế, hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta trải qua các
thời kỳ lịch sử. Vì vậy, quan niệm về THADS cũng có những quan điểm khác nhau,
phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ.
* Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thi hành án dân sự là một giai đoạn của tố
tụng tư pháp. Theo quan điểm này, những nội dung trong BA, QĐ của Tòa án nhằm
đảm bảo khôi phục lại trật tự pháp luật và tình trạng ban đầu chỉ đạt được khi BA,
QĐ đó được thực hiện trên thực tế và thông qua hoạt động THADS tiếp sau hoạt
động xét xử. Chính vì vậy, THADS được coi là "giai đoạn có tính quyết định cuối
cùng" trong quá trình tố tụng và hiệu quả của nó sẽ góp phần đạt được mục đích của
quá trình tố tụng.
* Quan điểm thứ hai cho rằng: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính;
10
bản chất và mục đích của THADS khác hoàn toàn với tố tụng. Những người theo
quan điểm này cho rằng bản chất và mục đích của tố tụng là xác định sự thật của vụ
việc và giải quyết vụ việc theo đúng các qui định của pháp luật với qui trình chặt
chẽ, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích
của người tham gia tố tụng . . . Khi có phán quyết của Tòa án có nghĩa là sự thật đã
được khẳng định và việc áp dụng pháp luật đã hoàn thành, quá trình tố tụng kết

thúc. Như vậy, một phán quyết thể hiện quyền lực nhà nước có tính chất bắt buộc
tôn trọng, chấp hành và phản ánh mối quan hệ phát sinh giữa các chủ thể liên quan
đến THADS tính chất hành chính tổ chức được thực hiện theo những nguyên tắc
khác với các nguyên tắc tố tụng tư pháp. Điều này thể hiện ở căn cứ để THA là các
BA, QĐ của Tòa án; các hoạt động, biện pháp, cách thức trong quá trình THADS
đều tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định nhằm thực hiện nội dung quyết
định của BA, QĐ của Tòa án; cơ quan THADS phải tác động trực tiếp tới đối tượng
phải THA để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành
nghĩa vụ được xác định trong BA, QĐ của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng
pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, nhà nước và xã hội; giáo dục họ trở thành
những công dân có ích cho xã hội . . .
Như vậy, cả hai quan điểm trên đều đưa ra những luận điểm riêng của mình
và ở chừng mực nhất định đều có tính hợp lý của nó. Tuy nhiên, mỗi quan điểm đều
có những vấn đề chưa thể lý giải một cách thuyết phục. Bởi lẽ, những người theo
quan điểm cho rằng THADS là hoạt động tư pháp lại không trả lời được câu hỏi:
Cơ quan THADS có phải là cơ quan tiến hành tố tụng hay Chấp hành viên có phải
là người tiến hành tố tụng hay không? Thực tế, chưa có văn bản quy phạm pháp luật
nào quy định cơ quan THADS là cơ quan tiến hành tố tụng và CHV là những người
tiến hành tố tụng. Ngược lại, quan điểm cho rằng THADS là hoạt động hành chính,
có nghĩa là ở đây phương pháp thuyết phục, giáo dục có ý nghĩa quan trọng nhưng
phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi hành có tính đặc thù. Thực ra, đối với
Thi hành án dân sự thì lại không phù hợp, vì các lẽ sau đây:
Một là, xét về địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, CHV là người được Nhà
nước giao trách nhiệm thi hành các BA, QĐ của Tòa án; khi thực hiện nhiệm vụ,
11
CHV phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc THADS
theo quy định tại Điều 17 Luật THADS; CHV có nhiệm vụ, quyền hạn thi hành
đúng nội dung BA, QĐ của Tòa án theo quy định tại Điều 20 Luật THADS. Như
vậy, trong quá trình tổ chức THA, CHV có quyền độc lập và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc THADS. Trong trường hợp này, không thể áp dụng phương

pháp mệnh lệnh, phục tùng đối với CHV như trong quan hệ hành chính đơn thuần.
Không ai có quyền ra lệnh cho cơ quan THADS, CHV phải hoãn, tạm đình chỉ,
đình chỉ, trả đơn yêu cầu THA hoặc thay đổi biện pháp cưỡng chế THA mà không
có căn cứ pháp luật. Những việc này do chính Thủ trưởng cơ quan THADS hoặc
CHV quyết định khi có những căn cứ pháp lý được qui định trong Luật THADS.
Hai là, xét về tính chất của thi hành án dân sự, thì kể từ năm 1990 đến nay,
việc THADS chủ yếu được tiến hành dựa trên cơ sở đơn yêu cầu của người được
THA, có nghĩa là thực hiện theo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự -
nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự. Ngoài ra, trong bất cứ giai đoạn nào của
quá trình THA, các bên đương sự cũng có quyền tự thỏa thuận với nhau về nội
dung, địa điểm, phương thức thi hành, thậm chí có thể thỏa thuận thi hành khác với
nội dung quyết định của bản án. Vì vậy phương pháp mệnh lệnh, phục tùng không
thể áp dụng được. Ngược lại, một quyết định hành chính có hiệu lực thì không thể
nói đến chuyện đối tượng bị áp dụng có thể chọn lựa thực hiện quyết định đó hay
không hoặc tuỳ tiện thay đổi nội dung của nó.
* Quan điểm thứ ba cho rằng: Thi hành án dân sự là dạng hoạt động hành
chính - tư pháp, vừa mang tính chất của hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố
của hoạt động tư pháp, vấn đề này, được thể hiện bởi những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Thi hành án dân sự là một giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử,
có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó. Giai đoạn
THADS có thể bắt đầu ngay từ khi việc xét xử vụ án chưa kết thúc như việc thi
hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án (Điều 130 Luật THADS) hoặc
những BA, QĐ của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay như BA, QĐ về cấp
dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động hoặc
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao
12
động trở lại làm việc mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị (Khoản 2 Điều 2 Luật
THADS). Ngay cả khi việc xét xử chấm dứt; BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật
nhưng mối quan hệ giữa cơ quan xét xử và cơ quan THADS vẫn tồn tại như việc cơ
quan THADS yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ hoặc kiến nghị cơ quan

có thẩm quyền xem xét lại BA, QĐ khi phát hiện có sai lầm hoặc án tuyên không
khả thi, không thể thi hành được (Khoản 2, 3, Điều 179 Luật THADS). Trong quá
trình tổ chức THADS, Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền
yêu cầu cơ quan THADS hoãn THA (Điểm d, Khoản 1, Điều 48 Luật THADS); tạm
đình chỉ THADS để xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
hoặc Tòa án thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người
phải THA (Khoản 1, 2 Điều 49 Luật THADS). Những quyết định này mang tính bắt
buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến
việc THADS. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình
có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để THADS đạt hiệu quả. Tính chấp
hành trong THADS phản ánh một đặc trưng chứng tỏ nó không đơn thuần là hoạt
động tố tụng thuần tuý. Về mặt hình thức, bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện
kiểm sát, chúng ta có thể thấy các chủ thể tham gia vào giai đoạn THADS đông đảo
và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng trước đó, ví dụ: Tổ dân phố, Uỷ ban
nhân dân cấp xã (nơi người phải THA cư trú), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện;
cơ quan, tổ chức nơi người phải THA làm việc; ngân hàng, tổ chức tín dụng nơi
người phải THA mở tài khoản, giao dịch Các chủ thể này có đặc điểm khác với
các chủ thể trong giai đoạn tố tụng trước đó về địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn.
Thứ hai, bản chất của THADS là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp
hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau
nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong BA, QĐ của Tòa án phải thực
hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của THADS là bảo đảm cho
các quyết định của Tòa án được ghi trong BA, QĐ được thực thi trên thực tế chứ
không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét
đặc trưng của hoạt động hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu
cầu trong hoạt động THADS mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng
13
trước đó - chấp hành các quy định của pháp luật.
Thứ ba, theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân thì Viện kiểm sát không thực hiện chức năng kiểm sát chung như trước

đây, có nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm sát đối với hoạt động hành chính
mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Bởi vậy, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân và Luật THADS có nhiều điều, khoản qui định về kiểm sát THA; trong
thực tế Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã ban hành nhiều kháng nghị đối với các
quyết định về THADS, tuy nhiên tính chất của kháng nghị trong giai đoạn THADS
có nhiều điểm không giống với kháng nghị trong giai đoạn xét xử Điều này cho
thấy rõ mối quan hệ mật thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ
quan THADS, giữa pháp luật tố tụng tư pháp với pháp luật về THADS, giữa quan
hệ pháp luật tố tụng với quan hệ pháp luật về THADS.
Thứ tư, quá trình THADS nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục THADS cũng được quy định
chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan
đến quyền con người, quyền công dân. Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với CHV trong
việc tiến hành, thực hiện các trình tự, thủ tục THADS cũng không thấp hơn những
người tiến hành tố tụng trước đó là phải độc lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm
hiệu lực BA, QĐ của Tòa án và tiến tới đạt được sự thật trên thực tế; nếu không độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật thì giá trị sự thật mà BA, QĐ của Tòa án đã xác định
sẽ không còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa thuận tự
nguyện khác trong quá trình THADS.
Thứ năm, giữa THADS và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ
nhân quả với nhau. Trong lĩnh vực hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ quan
tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp ngăn
chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản thì đến giai đoạn THADS, cơ quan
THADS sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự cất giấu, tẩu tán tài sản dẫn đến tình
trạng vụ việc tồn đọng không thể thi hành được. Trong giai đoạn xét xử, nếu một
BA, QĐ được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể,
được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc THADS sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn
14
nhiều. Ngược lại, nếu BA, QĐ của Tòa án được tuyên không khách quan, toàn diện
và công bằng, thiếu tính khả thi sẽ gây cản trở cho việc THADS, làm giảm lòng tin

của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Do đó, việc tổ chức THADS nhanh
chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng cố,
tăng cường uy tín của cơ quan xét xử.
Những phân tích nêu trên cho thấy cần phải xem xét THADS như là một hiện
tượng phức tạp, có tính đặc thù, không nên xem như một dạng hoạt động hoạt động
hành chính hoặc hoạt động tư pháp đơn thuần. Vì vậy, chúng tôi đồng tình với quan
điểm thứ ba cho rằng THADS là dạng hoạt động hành chính - tư pháp, vừa mang tính
chất của hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố của hoạt động tư pháp.
Như vậy, có thể quan niệm: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính -
tư pháp, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời, buộc những cá
nhân, tổ chức phải thực hiện các nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của
Tòa án.
Pháp luật thi hành án dân sự.
Thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng là một giai đoạn của quá
trình tố tụng. Hoạt động thi hành án luôn luôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Trong
hoạt động THADS, pháp luật THADS có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo
thi hành các BA, QĐ của Tòa án. Đánh giá lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật
THADS cho thấy rằng pháp luật THADS đã có những bước hoàn thiện trong từng giai
đoạn nhất định. Hệ thống văn bản pháp luật về THADS hiện hành đã tạo cơ sở cho việc
xây dựng cơ chế quản lý thống nhất về THADS, hệ thống cơ quan quản lý THADS, cơ
quan THADS độc lập với cơ quan xét xử để có điều kiện tập trung cho việc thi hành các
BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự, thủ tục THADS; các quyết định của
Trọng tài thương mại; các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự
nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án…
15
Các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về THADS có
thể phân chia theo các nhóm quan hệ sau:

Thứ nhất, nhóm quan hệ mang tính chất nội dung. Nhóm này phản ánh
những quan hệ về nội dung việc thi hành và chấp hành các BA, QĐ của Tòa án
ngay sau khi BA, QĐ có hiệu lực pháp luật. Các phán quyết của Tòa án về dân sự là
căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ THA của các cơ quan THADS cũng như
quyền, nghĩa vụ dân sự mà người được THA, người phải THA, cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan đến việc THADS có trách nhiệm chấp hành.
Từ những quan hệ chủ yếu này sẽ phát sinh nhiều mối quan hệ khác trong
quá trình THA nhằm bảo đảm việc thực hiện nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong quá trình thực thi các BA, QĐ về dân sự của Tòa án. Mặt khác,
trong quá trình THADS, có thể xảy ra những sự kiện pháp lý hay sự chi phối của
hoạt động xét xử tác động tới nội dung của BA, QĐ làm xuất hiện những mối quan
hệ mới, ví dụ như BA, QĐ dân sự có hiệu lực bị kháng nghị, bị huỷ bỏ hay thay đổi
nội dung sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, thậm chí, theo hướng ngược
lại Trong nhóm quan hệ mang tính nội dung, còn có thể xuất hiện mối quan hệ
giữa cơ quan THADS với các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan đến
việc THADS. Tóm lại, các mối quan hệ này phản ánh nội dung các quan hệ nhân
thân và tài sản giữa các chủ thể có liên quan đến THADS, xác định quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể trong việc thi hành và chấp hành BA, QĐ của Tòa án về dân sự.
Thứ hai, nhóm quan hệ mang tính tổ chức - quản lý. Các quan hệ này liên
quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm quyền và quy chế hoạt
động của cơ quan THADS. Những mối quan hệ này được thể hiện cụ thể như:
Mối quan hệ giữa cơ quan quản lý Nhà nước về THADS với cơ quan THADS;
cơ cấu tổ chức, hoạt động trong hệ thống các cơ quan THADS; giữa cơ quan
THADS cấp trên và cơ quan THADS cấp dưới về mặt tổ chức Trong thực tiễn,
việc xử lý các mối quan hệ này thường rất phức tạp, có nhiều vướng mắc, bất cập.
Do đó, nếu quy định đúng đắn các mối quan hệ trong quá trình tổ chức và quản lý
THADS, xác định cơ chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động THADS phù hợp
sẽ góp phần tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của THADS.
16
Thứ ba, nhóm quan hệ mang tính chất trình tự, thủ tục THADS. Một trong

những đặc trưng cơ bản của THADS là được tiến hành theo một trình tự, thủ tục
chặt chẽ mang tính hành chính - tư pháp, chịu sự điều chỉnh của pháp luật về
THADS và một số các quy định của pháp luật tố tụng. Chính vì vậy, trình tự, thủ
tục THADS làm xuất hiện hàng loạt các mối quan hệ giữa các chủ thể trong quá
trình THADS, cụ thể:
- Những quan hệ phát sinh từ thủ tục tố tụng (giai đoạn xét xử) sang thủ tục
THADS, chủ yếu là việc chuyển giao BA, QĐ đã có hiệu lực của Tòa án; tiếp đó là
trình tự, thủ tục THADS như: Thụ lý THA, ra quyết định THA, tự nguyện thỏa
thuận THA, thông báo THA và các biện pháp bảo đảm Đặc biệt là việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế như: khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi xử lý tiền, giấy
tờ có giá của người phải THA; trừ vào thu nhập của người phải THA; kê biên, xử lý
tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác
tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài
sản, giấy tờ; buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện
công việc nhất định.
- Các mối quan hệ khác phát sinh làm gián đoạn việc THADS như việc hoãn,
tạm đình chỉ và trả lại đơn yêu cầu THA.
- Các mối quan hệ phát sinh liên quan đến thủ tục khiếu nại, tố cáo của các
chủ thể trong quá trình THA.
Để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội trên, Nhà nước phải ban hành các
quy định pháp luật. Những quy phạm pháp luật này gọi là quy phạm pháp luật về
THADS. Tổng hợp các quy phạm pháp luật nói trên tạo thành pháp luật về THADS.
Từ những phân tích nêu trên có thể khái niệm: Pháp luật về thi hành án dân
sự là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành các
bản án, quyết định về dân sự, bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ của người
được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
các tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án; quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý, tổ chức việc thi hành
17

án; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành
viên và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
1.1.2. Khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
a) Khái niệm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân; pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, nghĩa là
bằng pháp luật có thể trật tự hóa, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội theo
những định hướng mong muốn và điều đó chỉ có thể đạt được khi những mệnh lệnh,
chỉ dẫn các quan hệ pháp luật được thực hiện trong đời sống xã hội, thể hiện bằng
hành vi thực tế, hợp pháp của các tổ chức, các cơ quan, của những người có chức
vụ, quyền hạn.
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể
phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo điều
kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống.
Trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam, yêu cầu về thực thi pháp luật đã được ghi
nhận trong Hiến pháp: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và
pháp luật. Mọi hành động vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi hợp pháp của
tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật [50]. Chính vì vậy, thực hiện pháp
luật là đòi hỏi khách quan của quản lý Nhà nước, tăng cường pháp chế, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Về thực hiện pháp luật, hiện nay có nhiều nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật
của Khoa Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
nay là Viện Nhà nước - Pháp luật thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh thì thực hiện pháp luật được hiểu là “quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những qui định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ
sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [54]. Theo giáo trình

18
Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính Quốc gia “Thực
hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho những quy tắc của pháp luật trở
thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [55]. Theo giáo trình Lý luận
Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội “Thực hiện pháp luật là một
quá trình hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật,
làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật ”[44].
Như vậy, các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về
những nội dung cơ bản, đó là: thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm
thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế,
hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở thành
hiện thực trong cuộc sống. Về cơ bản, chúng tôi đồng tình với các khái niệm về thực
hiện pháp luật như nêu trên và cho rằng: Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động
có mục đích làm cho các quy định của pháp luật được thực hiện trong thực tế cuộc
sống và trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Trên cơ sở khái niệm, có thể thấy rằng thực hiện pháp luật THADS là thực
hiện pháp luật về một lĩnh vực trong xã hội mà cụ thể, đó là THADS. THADS nhằm
bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Thông qua THADS, bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Đồng thời,
THADS còn là giai đoạn kiểm nghiệm thực tiễn đối với những phán quyết của Tòa
án, phản ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Từ việc thực
hiện pháp luật THADS, cán bộ ngành Tòa án có thể rút ra cho mình những bài học
bổ ích, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử. THADS là một lĩnh vực cụ
thể, vì vậy, thực hiện pháp luật về THADS cũng có đầy đủ các nội dung cơ bản của
khái niệm thực hiện pháp luật nói chung, đồng thời cũng có những mục tiêu, yêu
cầu, nội dung cụ thể. Do đó, có thể nêu khái niệm thực hiện pháp luật về THADS
như sau:
Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự là quá trình hoạt động có mục đích

để làm cho các quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự được thực hiện trong thực
19
tế cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, những hoạt động thực tế, hợp pháp của
các chủ thể pháp luật về thi hành án, nhằm phát huy hiệu lực của các bản án, quyết
định của Toà án, đảm bảo các bản án, quyết định được tôn trọng và thi hành nghiêm
chỉnh.
b) Mục đích và ý nghĩa thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
Mục đích chính và cơ bản nhất của hoạt động thi hành án dân sự là làm cho
các quyết định của Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền về dân sự được đưa ra thi
hành nghiêm túc trên thực tế. Còn mục đích của thực hiện Luật Thi hành án dân sự
là đảm bảo cho quy trình, thủ tục hoạt động của các cơ quan, tổ chức thi hành án
dân sự, các cá nhân, chủ thể phải thi hành và được thi hành, các chủ thể liên quan
đến thi hành án tuân theo đúng các quy định của pháp luật.
Ý nghĩa của thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
Một là: Thi hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã
hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Có thể thấy rằng: Công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói
riêng có một vai trò và ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong hoạt động của bất kỳ của
01 Nhà nước trên thế giới nói chung và Nhà nước ta nói riêng. Bởi chỉ có thông
qua hoạt động thi hành án dân sự này mà những phán quyết của Tòa án nhân dân
các cấp nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước sẽ trở thành hiện thực,
công lý xã hội luôn được bảo đảm. Một vụ án hay một vụ việc nào đó khi thông
qua thủ tục tố tụng tại Tòa án giải quyết chỉ kết thúc khi bản án quyết định của
Tòa án được thi hành kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Do vậy, nếu công tác thi hành án dân sự không được quan tâm đúng mức
và hoạt động thi hành án dân sự không hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
hay nói cách khác là sẽ ảnh hưởng rất tiêu cực, tác động đến toàn bộ quá trình tác
nghiệp của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, trật tự kỷ cương xã hội bị đảo lộn,
quyền lực nhà nước bị xem thường, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị
xâm hại. Ngược lại, nếu hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ mang lại

niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần lập lại kỷ
cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, một bản án, quyết
20
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành trên thực tế cho
thấy sự thiếu nghiêm minh của pháp luật, dễ gây ra sự mất đoàn kết, xung đột kéo
dài trong nhân dân, tạo kẽ hở để các phần tử phản động lợi dụng tuyên truyền lôi
kéo nói xấu chế độ, kích động thù hận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân.
Hai là: Thi hành án dân sự là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa
án và hoạt động tư pháp khác
Công tác điều tra, truy tố và xét xử diễn ra diễn ra cả một quá trình và rất
phức tạp. Và kết quả của các hoạt động này có thể chỉ là con số không nếu như các
bản án, quyết định của Tòa án đó chỉ nằm trên giấy bởi nó không được đưa ra thi
hành trên thực tế. Với ý nghĩa quan trọng đó, thi hành án dân sự là một hoạt động
không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự. Bởi vì, thông qua hoạt động thi hành án dân sự thì kết quả của hoạt động
xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo.
Mặt khác, hoạt động thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua
thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh, trung thực chất lượng và hiệu quả
của hoạt động xét xử. Vì nếu như bản án tuyên đúng với bản chất, hiện thực khách
quan, có lý, có tình thì trong quá trình thi hành án sẽ thuận lợi hơn những trường hợp
bản án, quyết định của Tòa án không đúng sự thật, không phù hợp với thực tế khách
quan. Thực tế cho thấy có nhiều vụ việc đương sự không tự nguyện thi hành hoặc gửi
đơn khiếu nại, tố cáo đi nhiều nơi, từ địa phương đến trung ương, vượt cấp, kéo dài,
tạo nhiều điểm nóng không phải vì cơ quan thi hành án làm sai mà vì không đồng
tình với quyết định của Tòa án nên cố tình trì hoãn việc thi hành án dân sự.
Ba là: Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
Với tính đặc thù riêng của hoạt động thi hành án dân sự là sự kết hợp chặt
chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi
hành án và sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, sự phối hợp các cơ quan tổ chức
có liên quan và sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý

thức trách nhiệm của cộng đồng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án dân
sự không chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên mà
còn là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và
21

×