Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI
CHÍNH PHỦ VÀ CÁC DOANH NGHIỆP
1. Bản chất của WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995
và là một bước phát triển toàn diện của Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại (GATT). WTO quản lý các Hiệp định thương mại do các Thành viên ký kết,
đặc biệt là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), Hiệp định chung
về Thương mại dịch vụ (GATS) và Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs). Các
quy định và thủ tục của WTO tạo ra một khuôn khổ cho việc trao đổi hàng hóa,
dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Các nguyên tắc và quy định được các Thành viên đàm
phán thông qua các cuộc thảo luận chính thức và không chính thức khác trong các
diễn đàn khác nhau của WTO và các vòng đàm phán thương mại đa phương định
kỳ như Vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển hiện nay (DDA).
Các Thành viên WTO có trình độ kinh tế khác nhau, từ những nền kinh tế kém phát triển
nhất cho tới những nền kinh tế phát triển nhất. Sự thành công của tổ chức này được thể
hiện ở sự phát triển liên tục số lượng các nước tham gia. Kể từ khi tổ chức này được
thành lập, đã có hai mươi hai nước – kể cả Việt Nam – gia nhập WTO, đưa tổng số
Thành viên lên tới 150 (tới thời điểm tháng 10 năm 2007), chiếm trên 90% tổng thương
mại toàn cầu. Các Thành viên mới của châu Á gia nhập WTO trước Việt Nam là Trung
Quốc và Đài Loan, hai nền kinh tế gia nhập năm 2001 và 2002, Ácmênia (2003),
Campuchia (2004) và Nêpan (2004).
WTO coi việc không phân biệt đối xử, mở cửa thị trường và cạnh tranh toàn cầu trong
thương mại quốc tế sẽ thúc đẩy phúc lợi quốc gia tại tất cả các nước là triết lý nền tảng
của mình. Một lý do khiến WTO tồn tại là các hạn chế về chính trị đã ngăn cản các Chính
phủ áp dụng các chính sách thương mại hiệu quả hơn, và thông qua sự trao đổi có đi có
lại các cam kết tự do hóa, các nước có thể vượt qua các hạn chế chính trị này. Các quy
định và thủ tục của WTO (www.wto.org) được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc
chung, các nguyên tắc này có thể được tóm tắt dưới đây:
Đối xử tối huệ quốc (MFN): Nguyên tắc không phân biệt đối xử này quy định rằng việc
nhập khẩu khẩu hàng hóa và dịch vụ từ một Thành viên WTO sẽ được đối xử không kém
thuận lợi hơn việc nhập khảu hàng hóa và dịch vụ từ bất kỳ Thành viên nào khác. Đối xử
MFN là vô điều kiện. Trên thực tiễn, trong hầu hết các trường hợp điều này có nghĩa một
nước không thể áp dụng mức thuế nhập khẩu đối với sản phẩm nhập khẩu từ một Thành
viên cao hơn so với mức thuế áp dụng đối với sản phẩm tương tự từ bất kỳ Thành viên
nào khác. Các Khu vực Mậu dịch tự do như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và
liên minh thuế quan nếu thỏa mãn một số điều kiện nhất định sẽ được coi là ngoại lệ của
nguyên tắc MFN.
Đối xử quốc gia: Nguyên tắc không phân biệt đối xử này quy định rằng sản phẩm và dịch
vụ nhập khẩu sẽ được hưởng đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho sản phẩm
tương tự trong nước. Trên thực tiễn, nguyên tắc này quy định các Chính phủ không được
phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu khi áp dụng các luật lệ và quy định trong nước,
như các quy định về thuế hay bảo vệ người tiêu dùng và môi trường. Tuy nhiên, sự phân
biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu vẫn có thể được thực hiện thông qua các biện pháp tại
biên giới, đặc biệt là thuế quan. Đối với thương mại dịch vụ, việc dành đối xử quốc gia
không phải là tự động do nguyên tắc này phải được đàm phán trong từng phân ngành hay
thậm chí từng dịch vụ cụ thể.
Chỉ áp dụng thuế quan để kiểm soát thương mại: để tạo điều kiện mở cửa thị trường và
đảm bảo khả năng có thể dự đoán được của thương mại hàng hóa, WTO yêu cầu các
Thành viên chỉ thực hiện hạn chế thương mại thông qua thuế quan thay cho hạn ngạch,
các kế hoạch định hướng hay các biện pháp phi thuế quan khác.
Giảm dần các rào cản thương mại thông qua đàm phán: kể từ khi hệ thống GATT/WTO
ra đời vào năm 1946, các Thành viên đã tiến hành 8 vòng đàm phán đa phương để loại bỏ
dần các rào cản thương mại. Trong giai đoạn đầu, các cuộc đàm phán thương mại đa
phương tập trung vào việc giảm thuế quan. Dần dần, các Thành viên này đã mở rộng
phạm vi của GATT/WTO sang các biện pháp phi thuế quan như tiêu chuẩn, trợ cấp gây
bóp méo thương mại hoặc các biện pháp tự vệ tạm thời (chống bán phá giá và thuế đối
kháng) cũng như mua sắm chính phủ. Vòng đàm phán gần đây nhất là vòng Uruguay
(1986-1994), đã mở rộng đáng kể các quy tắc của WTO sang các lĩnh vực mới như
thương mại dịch vụ, các chính sách tác động tới sở hữu trí tuệ và các quy định về đầu tư
nước ngoài ảnh hưởng tới thương mại. Hiện nay, các cuộc đàm phán trong Vòng đàm
phán đa phương lần thứ 9, Vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển (DDR) được bắt đầu vào
năm 2001 đang được tiến hành. Bảo hộ nông nghiệp tại các nước phát triển là nội dung
cản trở chính của vòng đàm phán này.
Minh bạch hóa: Luật và quy định của các nước ảnh hưởng tới ngoại thương và đầu tư
nước ngoài phải được công bố và cung cấp cho tất cả các bên, các thủ tục để thực thi luật
lệ và quy định phải công khai. Hơn nữa, quy chế thương mại của mỗi Thành viên phải
được WTO rà soát định kỳ để đảm bảo sự tuân thủ với các quy định của WTO.
Giải quyết tranh chấp: Để thực hiện chức năng giám sát các quy tắc đã được thỏa thuận
trong các Hiệp định của mình, WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các Thành viên.
Bất kỳ quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan có đầy đủ thẩm quyền quản lý các mối quan hệ
thương mại quốc tế của mình cũng có thể gia nhập WTO. Hiện nay, hơn 75% các quốc
gia và lãnh thổ hải quan trên thế giới là Thành viên của tổ chức này và hơn 10% quốc gia,
tổ chức nữa đang trong quá trình gia nhập.
2. Bối cảnh và phương thức gia nhập WTO
Để trở thành Thành viên WTO, một nước hoặc vùng lãnh thổ phải tuân theo các thủ tục
công khai, rõ ràng và quá trình gia nhập của Việt Nam cũng đã được thực hiện theo các
thủ tục này. Các điều kiện gia nhập WTO phải được thỏa thuận giữa nước gia nhập và
các Thành viên WTO (Điều XII). Tiến trình gia nhập thường phải thông qua một số
bước, trong đó đàm phán gia nhập là giai đoạn thực chất cuối cùng. Tóm lại, các thủ tục
liên quan là Chính phủ thông báo mong muốn trở thành Thành viên WTO của mình
thông qua việc gửi một bức thư thông báo cho Tổng giám đốc (trên thực tế, nước xin gia
nhập sẽ phải yêu cầu trở thành quan sát viên trước khi gửi thư). Sau khi nhận được thư,
Tổng giám đốc WTO sẽ thành lập một Ban công tác bao gồm các Thành viên WTO có
quan tâm để xem xét đơn xin gia nhập. Chính phủ nước xin gia nhập sẽ phải đệ trình một
bản Bị vong lục mô tả cơ chế ngoại thương của mình. Trên cơ sở tài liệu này, Ban công
tác sẽ thảo luận và làm rõ cơ chế thương mại của nước xin gia nhập, thường là thông qua
các câu hỏi cụ thể dựa trên bản Bị vong lục cũng như kinh nghiệm thực tế của các doanh
nghiệp, tổ chức kinh doanh (trong quá trình gia nhập, Việt Nam đã nhận được khoảng
3500 câu hỏi của các Thành viên Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO). Những
câu hỏi đó tập trung cụ thể xem cơ chế thương mại của nước xin gia nhập có phù hợp với
các quy tắc của WTO hay không. Các quy định và thực tiễn không phù hợp với WTO
phải được điều chỉnh hoặc tuân theo các điều khoản được đàm phán cụ thể.
Các nước đang gia nhập WTO phải chấp nhận (i) một gói cam kết chung, được gọi là
“cam kết cả gói” và (ii) thỏa thuận được với tất cả các Thành viên WTO có yêu cầu
nhượng bộ bổ sung để họ ủng hộ nước gia nhập. Yêu cầu (ii) thường được thỏa thuận
thông qua các cuộc đàm phán song phương diễn ra trước khi gia nhập. Các cuộc đàm
phán gia nhập WTO được tiến hành giữa nước xin gia nhập và tất cả các Thành viên
WTO muốn tăng cường tiếp cận thị trường nước xin gia nhập. Trong tiến trình gia nhập,
nước xin gia nhập đàm phán các biểu nhượng bộ về thuế quan và các cam kết cụ thể về
thương mại dịch vụ với các nước có quan tâm.
Mỗi Thành viên WTO có quyền đặt ra yêu cầu cụ thể về thuế quan, các biện pháp phi
thuế và quy định ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ với nước xin gia nhập. Tuy nhiên, chỉ
một nhóm nhỏ các Thành viên WTO sử dụng công cụ này, hầu hết các Thành viên khác
không đóng vai trò gì hoặc tự xác định sẽ tham gia hạn chế vào các cuộc họp của Ban
công tác. Không phải tất cả các khía cạnh của tiến trình gia nhập WTO đều hoàn toàn
minh bạch. Đặc biệt, thường có rất ít thông tin về các cuộc đàm phán song phương được
đề cập ở trên, trong các cuộc đàm phán này, các vấn đề phi kinh tế cũng có thể được xem
xét, ví dụ như trong trường hợp các cuộc đàm phán song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
được thảo luận dưới đây.
Khi các cuộc đàm phán song phương mở cửa thị trường và đàm phán đa phương kết thúc,
Báo cáo của Ban công tác được chuyển cho Đại Hội đồng. Dự thảo Quyết định và Nghị
định thư gia nhập cũng như biểu thuế quan và biểu cam kết cụ thể về dịch vụ đã được
thỏa thuận sẽ được bổ sung vào Báo cáo. Lời văn của Hiệp định WTO quy định rằng,
muốn trở thành Thành viên phải có sự chấp thuận của ít nhất 2/3 số Thành viên WTO.
Tuy nhiên, quy tắc bỏ phiếu này chỉ mang tính lý thuyết, do vào năm 1995 các Thành
viên WTO đã quyết định không áp dụng các điều khoản cho phép bỏ phiếu về việc gia
nhập hoặc yêu cầu miễn trừ mà thay vào đó phải tiếp tục áp dụng nguyên tắc đồng thuận
(WT/L/93). Nguyên tắc đồng thuận được áp dụng trong việc quyết định trường hợp gia
nhập của Việt Nam cũng như hầu hết các vấn đề khác của WTO. Nguyên tắc này cho
phép một nước dù có khối lượng thương mại rất nhỏ cũng có thể cản trở các thỏa thuận
của WTO. Đồng thuận không có nghĩa là tất cả các nước phải đồng ý mà là không có ai
phản đối.
Sự ra đời của WTO đã khiến cho các điều kiện gia nhập ngày càng chặt chẽ hơn giai
đoạn GATT trước đây và các cuộc đàm phán của Việt Nam đã bị ảnh hưởng rất rõ bởi xu
hướng này. Các nước xin gia nhập WTO bị yêu cầu phải ràng buộc biểu thuế của họ ở
mức bằng hoặc xấp xỉ mức thuế áp dụng. Hơn nữa, các nước mới gia nhập phải tự do hóa
việc tiếp cận thị trường nội địa của họ nhiều hơn đáng kể so với giai đoạn trước năm
1995. Có một số lý do giải thích cho việc tại sao tiến trình gia nhập WTO lại “phức tạp”
hơn trước đây.
Trước hết, phạm vi của Hiệp định WTO đã mở rộng hơn nhiều so với GATT. Bên cạnh
lĩnh vực truyền thống của GATT là thương mại hàng hóa, WTO điều chỉnh cả thương
mại dịch vụ, các vấn đề về sở hữu trí tuệ và các biện pháp đầu tư liên quan tới thương
mại.
Thứ hai, có thể thấy sự thay đổi quan điểm đáng kể của các cường quốc thương mại, đặc
biệt là Hoa Kỳ. Trước khi Liên bang Xô Viết sụp đổ vào cuối những năm 80 của thế kỷ
trước, Washington sẵn sàng chấp nhận các chính sách thương mại có thể tổn hại tới các
lợi ích thương mại của mình để đổi lấy các ưu tiên trong chính sách đối ngoại (Kostecki,
1979). Từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước, việc theo đuổi các quyền lợi kinh tế quốc gia trở
nên quan trọng hơn, cho thấy đã có nhiều quan tâm hơn tới các thỏa thuận thương mại cụ
thể (VanGrasstek, 1995, Naray, 2000).
Thứ ba, các cường quốc thương mại chính ngày càng coi việc gia nhập WTO là một bước
đi lớn của nước xin gia nhập nhằm hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Việc trở thành
Thành viên WTO là một cách để khuyến khích nước gia nhập xóa bỏ các chính sách kinh
tế mang tính can thiệp, thay vào đó là việc áp dụng các cách tiếp cận ít mang tính bảo hộ
và theo định hướng thị trường nhiều hơn. Việc này giải thích tại sao tiến trình gia nhập sẽ
hiệu quả nhất khi tiến hành song song với một chương trình cải cách trong nước. Khía
cạnh này trở nên đặc biệt quan trọng trong các cuộc đàm phán gia nhập của những nước
như Trung Quốc, Nga hoặc Việt Nam, những nước mà khối lượng thương mại hiện tại
hoặc trong tương lai rất có thể sẽ ảnh hưởng lớn tới hệ thống thương mại trong các thập
kỷ tới.
Cuối cùng, và cũng liên quan tới lý do trên, rõ ràng là các Thành viên WTO có xu hướng
muốn nước gia nhập đưa ra các cam kết cao hơn các quy định ghi trong lời văn của các
Hiệp định WTO, hay còn gọi là hiện tượng “WTO cộng”. Ví dụ, một số nền kinh tế đang
chuyển đổi đã bị yêu cầu phải đưa ra các cam kết và báo cáo về tiến trình tư nhân hóa các
doanh nghiệp nhà nước trong khi đó GATT/WTO hoàn toàn không quy định gì về vấn đề
này (Kostecki,1979, Bernier, 1982). Một ví dụ của yêu cầu này là hiện nay vấn đề sở hữu
ngành năng lượng vẫn là nội dung cản trở tiến trình gia nhập WTO của Nga, ngay cả khi
Việt Nam đã gia nhập tổ chức này. Việc Nam cũng bị yêu cầu phải đưa ra các cam kết
liên quan tới cổ phần hóa trong tiến trình gia nhập của mình.
Vấn đề cốt lõi trong các cuộc đàm phán gia nhập nằm ở chỗ nước muốn gia nhập là bên
“bị động”. Điều này có nghĩa nước này có nghĩa vụ phải đàm phán với các Thành viên
hiện tại của WTO và thông thường có rất ít quyền trong quá trình đàm phán này. Nói
cách khác, tiến trình gia nhập mang tính bất cân bằng, theo nghĩa nước gia nhập không
thể đưa ra các yêu cầu về quyền lợi bổ sung, vượt quá những gì đang được quy định trong
các Hiệp định hiện tại của WTO trong khi các Thành viên WTO có thể – và thường thực
hiện – đưa ra các yêu cầu cao hơn mức độ hiện tại (Hoekman, Kostecki, 2001). Trong
một số trường hợp, các nước xin gia nhập bị yêu cầu phải thực hiện các nghĩa vụ thậm
chí cao hơn mức độ cam kết của các Thành viên hiện tại. Một ví dụ tiêu biểu là mức độ
cam kết về thuế, trong khi quy tắc phổ biến hiện nay là mức độ cam kết phải toàn diện và
thuế ràng buộc không cao hơn hai lần mức thuế áp dụng bình quân gia quyền theo khối
lượng nhập khẩu áp dụng tại các nước OECD (khoảng 10%). Trong khi mức độ cam kết
bình quân của các Thành viên đang phát triển là khoảng 20% đối với các dòng thuế cam
kết (rất nhiều dòng thuế chưa cam kết). Các ví dụ khác là yêu cầu xóa bỏ trợ cấp hàng
nông sản trong khi rất nhiều Thành viên phát triển của WTO, kể cả EU và Hoa Kỳ, vẫn
duy trì các khoản trợ cấp này, ngoài ra còn có cả các cam kết về dịch vụ toàn diện hơn so
với các cam kết trong Vòng đàm phán Uruguay cũng như việc yêu cầu thực hiện đầy đủ
các cải cách cần thiết (thay vì thực hiện quá trình chuyển đổi một cách từ từ) trở thành
một điều kiện của tiến trình gia nhập.
3. Lịch sử mối quan hệ giữa Việt Nam và WTO
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo cho tới tận giữa những năm 80 của thế kỷ trước.
Kể từ năm 1986, dưới chính sách “Đổi mới”, tăng cường định hướng thị trường và hội
nhập vào nền kinh tế toàn cầu đã trở thành mục tiêu chính của Việt Nam. Tiến trình cải
cách tập trung vào việc tái cơ cấu các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong
nước, tổ chức lại hệ thống hành chính và thiếp lập các mối quan hệ kinh tế với thế giới.
Nhằm tăng cường các mối quan hệ kinh tế với khu vực, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á – Âu và Diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu Á -Thái Bình Dương (APEC). Việt Nam cũng duy trì các mối quan hệ thương
mại chặt chẽ với Trung Quốc, được điều chỉnh theo Hiệp định Thương mại năm 1991 và
các hiệp ước hợp tác kinh tế khác. Tham gia vào các thể chế khu vực nói trên tạo ra bước
hội nhập đầu tiên của Việt Nam vào hệ thống thương mại để chuẩn bị cho việc trở thành
Thành viên WTO.
Các mối quan hệ của Việt Nam với WTO được bắt đầu vào năm 1995 với việc nộp yêu
cầu gia nhập chính thức. Vào tháng 1 năm 1995, Đại hội đồng của WTO đã thành lập
Ban công tác để xem xét đơn xin gia nhập của Việt Nam. Ban công tác đã tiến hành 14
cuộc họp trong giai đoạn gần 12 năm – một quá trình đàm phán gia nhập khá dài. Các
thành viên của Ban công tác gồm Áchentina, Úc, Braxin, Brunây, Bungari, Campuchia,
Canađa, Chilê, Trung Quốc, Côlômbia, Croatia, Cuba, Cộng hòa Đôminíc, Ai Cập, En
Sanvađo, Liên minh châu Âu và các Thành viên của mình, Honđuras, Hồng Kông,
Ixơlen, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hòa Kyrgyzxtanxtan, Malaysia,
Mêhicô, Marốc, Myanma, Niu Dilân, Na Uy, Pakistan, Panama, Paraguay, Philíppin,
Rumani, Singapo, Sri Lanka, Thụy Sỹ, Đài Loan, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ và
Uruguay (www.wto.org). Việt Nam đã chuẩn bị bản Bị vong lục về chế độ ngoại thương
của mình vào năm 1996 nhưng phải tới tận năm 1998 thì kế hoạch cho các cuộc họp định
kỳ của Ban công tác mới được đưa ra. Các cuộc đàm phán diễn ra chậm chạp do các lo
ngại về chính trị, nhu cầu cần có những thay đổi hệ thống quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam và các Thành viên WTO đặt ra yêu cầu Việt Nam phải đưa ra các nhượng bộ
lớn.
Bảng 1
Các mốc lớn trong quan hệ của Việt Nam với WTO
1994 Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và thiết lập quan hệ
ngoại giao bình thường vào năm 1995. Điều này đã thúc đẩy việc mở cửa nền kinh tế
Việt Nam.
1995 Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO vào tháng 1 năm 2005.
1996 Bắt đầu cuộc gặp thường kỳ của Ban công tác về việc Việt
Nam gia nhập WTO.
1998 Các cơ quan quản lý Việt Nam quyết định đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO.
2001 Phiên đàm phán đa phương lần thứ 9 của WTO/GATT – vòng đàm phán Đôha vì sự
phát triển – được khởi động vào tháng 11 năm 2001.
2002 Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên đối với hàng hóa và dịch vụ.
2004 Việt Nam đưa ra Bản chào sửa đổi tham vọng hơn về tiếp cận thị trường vào tháng
6 năm 2004 tại phiên họp lần thứ 8 của Ban công tác, Bản chào này thể hiện một bước
đột phá trong đàm phán gia nhập WTO.
2004 Bắt đầu các cuộc đàm phán song phương với các Thành viên WTO. Một Thỏa
thuận đột phá được ký kết với Liên minh châu Âu.
2005 Ký thỏa thuận với Trung Quốc về việc Việt Nam gia nhập WTO.
2006 Hoa Kỳ và Việt Nam ký Hiệp định song phương về các cam kết gia nhập WTO của
Việt Nam, đây là Hiệp định song phương cuối cùng và dường như là khó khăn nhất trong
số 28 Hiệp định song phương với các Thành viên WTO.
2002 – 2006 Các cơ quan quản lý Việt Nam đã rà soát sâu rộng hầu hết luật và quy định
của Việt Nam trong các lĩnh vực liên quan tới WTO cũng như các lĩnh vực khác và đã
đưa kế hoạch hành động liên quan tới WTO vào Kế hoạch phát triển năm năm 2006 –
2010 (SRV, 2006)
2007 Việt Nam trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới vào
ngày 11 tháng 1 năm 2007.
2007 Chính phủ Việt Nam đưa ra chương trình hành động thực thi các cam kết gia nhập
WTO.
Vào năm 2002, Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về mở cửa thị trường hàng hóa và
dịch vụ, sau đó Bản chào sửa đổi vào tháng 7 năm 2004 mang tính tham vọng hơn. Cả hai
Bản chào đều được các Thành viên WTO hoan nghênh. Sau một số vòng đàm phán, các
đối tác thương mại của Việt Nam đồng ý bắt đầu dự thảo Báo cáo của Ban công tác về
việc Việt Nam gia nhập WTO và tiến hành các cuộc đàm phán song phương cần thiết để
đạt được thỏa thuận gia nhập giữa các bên.
Việt Nam tiến hành các cuộc đàm phán song phương với 28 Thành viên WTO, bao gồm
cả Liên minh châu Âu (tính là một Thành viên mặc dù Liên minh này đại diện cho 25
nước), Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thỏa thuận với Hoa Kỳ ký vào tháng 5 năm 2006 là thỏa
thuận song phương cuối cùng và có lẽ là thỏa thuận song phương khó khăn nhất mà Việt
Nam đã đàm phán. Việc ký kết thỏa thuận này cho phép Tổng thống Hoa Kỳ có thẩm
quyền cần thiết để dành cho Việt Nam quy chế “quan hệ thương mại bình thường vĩnh
viễn” (PNTR) – đây là điều kiện tiên quyết cho phép Hoa Kỳ công nhận Việt Nam là một
Thành viên WTO.
Trọng tâm cải cách kinh tế và chính sách phát triển dựa vào xuất khẩu của Việt Nam đã
khiến cho quá trình gia nhập, vốn kéo dài và rất phức tạp, trở nên đơn giản hơn. Việc ký
kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA) và tham gia Khu vực Mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA) rất hữu ích trong bối cảnh này do các thỏa thuận này đã khởi
động quá trình tự do hóa và tiến trình “phi điều tiết hóa” (US Aid,
2007). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng các cuộc đàm phán mở cửa thị trường là
dễ dàng. Các bên đã phải mất rất nhiều thời gian và đàm phán diễn ra rất căng thẳng
trước khi đạt được thỏa thuận gia nhập. Bộ trưởng Trương Đình Tuyển và đoàn đàm phán
Việt Nam do Thứ trưởng Thương mại Lương Văn Tự đã tập trung toàn bộ sức lực vào
các cuộc đàm phán gia nhập, thường phải làm việc thâu đêm, đặc biệt trong giai đoạn
cuối cùng của các cuộc đàm phán gia nhập.
Quyết tâm trở thành Thành viên WTO của Việt Nam có thể đã được thúc đẩy bởi kinh
nghiệm thành công của các nền kinh tế hướng về xuất khẩu tại khu vực Đông Á, những
thay đổi hệ thống tại các nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ và sự quan tâm của Trung
Quốc đối với tổ chức này. Có thể một động lực nữa là quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc tạo ra việc làm cho hơn 1 triệu lao động mới gia nhập thị trường lao động
mỗi năm tại Việt Nam, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đạt được mục tiêu tiêu tham
vọng là đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 (SRV, 2006).
Trong quá trình gia nhập WTO của mình, Việt Nam đã không nhận được nhiều đối xử
đặc biệt và khác biệt từ các Thành viên WTO. Việt Nam đã phải thực hiện các bước cụ
thể trước, trong và sau giai đoạn đàm phán để có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức
nhằm hỗ trợ quá trình phát triển của mình. Các nỗ lực này được một số nhà tài trợ và tổ
chức quốc tế hỗ trợ thông qua việc cung cấp các chương trình xây dựng năng lực và kinh
nghiệm (một trong số các chuyên gia dày dạn kinh nghiệm hỗ trợ Việt Nam trong những
ngày đầu của tiến trình gia nhập là Ông Arthur Dunkel, cựu Tổng giám đốc của WTO và
ông Trần Văn Thìn, cựu đại sứ của EC tại GATT). Nhờ có sự kết hợp phù hợp giữa các
nỗ lực và dự án của Việt Nam và quốc tế, các mục tiêu phát triển của Việt Nam trong tiến
trình gia nhập WTO đã được làm rõ và Việt Nam đã đưa ra được các chiến lược đàm
phán phù hợp. Cụ thể hơn, các cơ quan Việt Nam đã đưa ra các bước đi để thực hiện mục
tiêu này.
Trước hết, ngay trong giai đoạn gia nhập đầu tiên, Việt Nam đã dự đoán được các cam
kết đa dạng trong WTO sẽ đòi hỏi cải cách nền kinh tế trong nước tới mức nào và những
thay đổi đó sẽ đóng góp vào quá trình phát triển theo cách nào. Việt Nam xác định dệt
may, giầy dép, nông nghiệp, thủy sản và du lịch là những ngành có thể được hưởng lợi
ngay từ các chương trình cải cách này và đã xây dựng ưu tiên đàm phán của mình, có tính
tới những ngành có tiềm năng có lợi thế so sánh.
Thứ hai, các cơ quan quản lý Việt Nam đã nhận thấy tiến trình gia nhập WTO có thể kéo
dài và phức tạp, do đó đã nỗ lực để tập hợp đủ hỗ trợ trong nước cho tiến trình gia nhập
này. Yếu tố thứ hai được ủng hộ bởi các cuộc tham vấn ở cấp chính trị và tầm nhìn rõ
ràng về chi phí, lợi ích và các ưu tiên trong các cuộc đàm phán gia nhập. Xây dựng một
chiến lược đàm phán phù hợp gồm cả các vấn đề vượt quá thẩm quyền của Bộ Thương
mại và Chính phủ đã có quan điểm chung về chiến lược đàm phán gia nhập WTO. Rõ
ràng, vấn đề này không bị coi là một quyết định kỹ trị do một nhóm quan chức kiểm soát
mà đã được rất nhiều cơ quan chính phủ và Đảng Cộng sản xem xét cũng như được tham
vấn với các ngành trong nước. Việt Nam đang đạt được nhiều tiến bộ trong việc xây dựng
một tiến trình mở, chính thức để đảm bảo quyền của các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ
chức dân sự trong việc xây dựng các văn bản pháp lý.
Thứ ba, do thời gian kéo dài, độ phức tạp cao và phạm vi rất rộng của Thỏa thuận gia
nhập, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng một “lộ trình” xác định các hoạt động khác nhau
trong quá trình gia nhập và giai đoạn thực thi. Thông tin chi tiết về các cấu phần của “lộ
trình” này nằm trong Nghị quyết tháng 2 năm 2007 về việc ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ để thực thi Nghị quyết 4 Hội nghị Trung ương X về một số chủ
chương và chính sách lớn để phát triển nhanh và bền vững cho nền kinh tế khi Việt Nam
gia nhập WTO (Nghị quyết số 16/2007/CP-NQ của Chính phủ) và trong Kế hoạch phát
triển kinh xã hội 5 năm 2006 – 2010 (SRV, 2006).
4. Cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO: Tổng quan
Một nền kinh tế muốn phát triển xuất khẩu các sản phẩm chế biến thay vì nguyên liệu và
tận dụng các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDIs) trên thực tế không có lựa chọn nào
khác ngoài việc tham gia hệ thống thương mại của WTO. Lý do nằm ở chỗ “con dấu gia
nhập WTO” được cộng đồng doanh nghiệp quốc tế coi là một dấu hiệu về sự vận hành
bình thường trong các mối quan hệ kinh tế toàn cầu. Có thể đưa ra nhiều lý do kinh tế,
luật pháp và chính trị để giải thích tại sao gia nhập WTO lại cần thiết đến thế và việc gia
nhập sẽ đem lại những cơ hội và thách thức nào cho Việt Nam.
Đối với một số người, lý do quan trọng nhất để gia nhập WTO là nhằm hội nhập nền kinh
tế quốc gia vào nền kinh tế toàn cầu. Mọi người kỳ vọng rằng với việc gia nhập WTO,
Việt Nam có thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu và nhập khẩu một cách ổn định và dễ
dự đoán hơn, từ đó, số lượng và chất lượng hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu sẽ tăng
theo. Gia nhập WTO cũng thúc đẩy quá trình tự do hóa nhập khẩu, từ đó cho phép tiếp
cận với các đầu vào nhập khẩu (công nghệ, trang thiết bị và phương pháp quản lý hiện
đại) cũng như hàng hóa tiêu dùng đa dạng và rẻ hơn; các đầu vào nhập khẩu rất quan
trọng đối với một nền kinh tế đang hiện đại hóa nhanh chóng như Việt Nam.
Một lợi ích kinh tế nữa từ việc gia nhập WTO là tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Gia nhập WTO sẽ khiến các doanh nghiệp tin tưởng hơn vì Việt Nam sẽ
được coi là một điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư. Có bằng chứng cho thấy rất nhiều
nhà đầu tư nước ngoài lớn (ví dụ như Intel) đã quan tâm hơn tới Việt Nam khi Việt Nam
chuẩn bị trở thành Thành viên của WTO. Chỉ trong vòng 9 tháng sau khi gia nhập WTO,
các doanh nghiệp nước ngoài đã cam kết sẽ đầu tư gần 6,5 tỷ Đôla Mỹ vào các dự án đầu
tư mới tại Việt Nam (số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2007). Hơn nữa, việc trở thành
Thành viên của WTO khuyến khích sử dụng nhiều hơn các tài sản thuộc sở hữu trí tuệ,
dẫn tới các điều kiện tốt hơn để đạt được thành công về kinh tế thông qua chất lượng sản
phẩm cao hơn, sự sáng tạo và kỹ năng tiếp thị hiện đại (xây dựng thương hiệu, cấp phép,
nhượng quyền và các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm tốt hơn).
Lợi ích pháp lý của việc tiếp cận một hệ thống thương mại dựa trên pháp quyền và sử
dụng quá trình giải quyết tranh chấp trong WTO cũng thường được nhắc đến như một lý
do quan trọng cho việc gia nhập WTO của Việt Nam. Các cuộc tham vấn, đàm phán và
trung gian hòa giải cũng như giải quyết tranh chấp dựa trên quy tắc rõ ràng sẽ rất quan
trọng đối với các quốc gia không có tiếng nói quan trọng trong thương mại bằng các
Thành viên như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản hoặc Trung Quốc. Gia nhập
WTO cho thấy các mối quan hệ thương mại của Việt Nam với các cường quốc thương
mại sẽ được bảo vệ bởi các quy tắc và thủ tục của hệ thống thương mại đa phương, rất
nhiều lợi ích cụ thể của hệ thống này sẽ được đề cập dưới đây.
Gia nhập WTO cũng được thúc đẩy bởi các lý do chính trị. Đặc biệt, đối với các nước
trong giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam thì WTO là một công cụ giúp Chính phủ duy
trì được chính sách thương mại minh bạch và tự do nhờ vào vai trò nội địa của hệ thống
thương mại đa phương, hệ thống này đẩy mạnh các lợi ích xuất khẩu nhiều hơn so với lợi
ích thu được từ các ngành thay thế nhập khẩu. Trở thành Thành viên WTO đem lại cơ hội
để đảm bảo việc thực hiện các bước tự do hóa cơ chế thương mại thông qua chấp nhận
các nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp lý đối với các mức thuế, loại bỏ các hạn chế định
lượng hoặc loại bỏ trợ cấp (Michalopoulos,2002). Gia nhập WTO cũng là một công cụ để
thể hiện cam kết của nước gia nhập trong việc hòa nhập các nền kinh tế theo định hướng
thị trường vào cộng đồng quốc tế, một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển thương mại
quốc tế.
Tương tự như vậy, yếu tố chính trị đóng một vai trò quan trọng tại nhiều Thành viên
WTO khi quyết định có chấp nhận một nước mới gia nhập hay không. Ví dụ, đối với Hoa
Kỳ, nước dành cho Việt Nam đối xử Tối huệ quốc tuân thủ theo WTO (theo thuật ngữ
của Hoa Kỳ là Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn), thì quyết định này được mô
tả “là một trong số các bước đi mà Hoa Kỳ thực hiện trong lĩnh vực thương mại và chính
sách đối ngoại để bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đồng thời đưa quan hệ hiện nay
của hai nước vượt qua cuộc chiến tranh Việt Nam” (Báo cáo CRS của Quốc hội Hoa Kỳ,
2006).
5. Mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam
Lý do chủ yếu và trực tiếp khiến Việt Nam muốn gia nhập WTO là tìm cách thúc đẩy
xuất khẩu nông thủy sản, dệt may, quần áo và dầy dép cũng như các mặt hàng sản xuất
trong nước khác. Đặc biệt, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) của Việt Nam – những
doanh nghiệp có ít nguồn lực để đối phó với những vấn đề phức tạp về thể chế – rất có
thể sẽ được hưởng lợi nhờ khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu tốt hơn. Tác động tới
xuất khẩu là tích cực vì khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng một môi trường ổn
định và bình đẳng hơn ở nước ngoài, có nhiều khả năng hơn trong việc kiện lại các thực
tiễn thương mại không bình đẳng và có cơ hội để đảm bảo rằng các cuộc đàm phán của
WTO trong tương lai sẽ đem lại các cơ hội xuất khẩu cho các sản phẩm mà Việt Nam
quan tâm (bốn thị trường xuất khẩu chính chiếm hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam đều là các Thành viên của WTO). Cũng có thể hy vọng rằng việc gia nhập sẽ
không chỉ thúc đẩy doanh số xuất khẩu các mặt hàng quyền thống sang các thị trường
hiện tại mà còn tăng xuất khẩu các sản phẩm mới sang các thị trường mới (xem them chi
tiết tại Chương II-VII).
Về cơ bản, có ba lý do chính khiến cho việc gia nhập WTO sẽ dẫn tới tăng cường tiếp cận
thị trường. Thứ nhất, Việt Nam sẽ được các Thành viên WTO dành đối xử MFN đầy đủ
và lâu dài và điều này là một cải thiện đáng kể. Mặc dù Việt Nam đã được hưởng đối xử
MFN tạm thời với Hoa Kỳ và các đối tác thương mại khác nhưng đối xử MFN dựa trên
cơ sở WTO là một thỏa thuận ưu đãi. Điều này là một mốc rõ ràng cho việc chuyển từ
môi trường mang tính đơn phương và tự nguyện (ví dụ các cuộc thảo luận tại Quốc hội
Hoa Kỳ trước khi gia hạn đối xử MFN hàng năm), nơi việc lạm dụng sức mạnh kinh tế vì
lý do chính trị thực sự là một mối đe dọa, sang một mối quan hệ đối tác thương mại dựa
trên các quy tắc rõ ràng, nơi các vấn đề thương mại được giải quyết một cách minh bạch,
tuân theo các luật lệ của WTO (xem Hộp 1).
Hộp 1
WTO và Đối xử MNF tại Hoa Kỳ
Hiện nay, các nước chưa tham gia WTO có thể được nhiều quốc gia, kể cả Hoa Kỳ, đơn
phương dành đối xử MFN trong thương mại nhưng không có gì đảm bảo rằng họ sẽ tiếp