Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nghiên cứu nhu cầu bảo hiểm nông nghiệp cho chăn nuôi bò thịt của các hộ nông dân huyện sông lô, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.6 KB, 106 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





VŨ THỊ NGÀ




NGHIÊN CỨU NHU CẦU BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP
CHO CHĂN NUÔI BÒ THỊT CỦA CÁC HỘ NÔNG DÂN
HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC



LUẬN VĂN THẠC SĨ



HÀ NỘI - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




VŨ THỊ NGÀ



NGHIÊN CỨU NHU CẦU BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP
CHO CHĂN NUÔI BÒ THỊT CỦA CÁC HỘ NÔNG DÂN
HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC


LUẬN VĂN THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ : 60.62.01.15


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN VĂN SONG


HÀ NỘI - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học hàm, học vị nào.
Tôi cam đoan rằng: Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được

cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả



Vũ Thị Ngà















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trước hết cho tôi được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo khoa Kinh tế
& Phát triển nông thôn, các thầy cô giáo trong Ban đào tạo sau đại học cùng toàn
thể các thầy cô giáo trong Học viện Nông Nghiệp Việt Nam đã trang bị cho tôi

những kiến thức cần thiết và có định hướng đúng đắn trong học tập để hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới GS.TS. Nguyễn Văn
Song, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến tập thể phòng Nông
Nghiệp & PTNT, Chi cục Thống kê huyện Sông Lô cùng toàn thể các hộ gia đình đã
cung cấp số liệu và tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập tại
địa phương.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn
động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả



Vũ Thị Ngà







Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT viii
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1 Mục tiêu chung 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 3
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 3
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 4
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài 4
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản 4
2.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi 8
2.1.3 Tác dụng của bảo hiểm nông nghiệp 10
2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi
bò thịt 13
2.2 Cơ sở thực tiễn 13
2.2.1 Thực trạng bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam 13
2.2.2 Kinh nghiệm một số nước trên thế giới 15
2.3 Bài học kinh nghiệm rút ra từ tổng quan cho nghiên cứu luận văn 20
PHẦN III. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
3.1 Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu 22
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 22
3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 26
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv


2.2 Phương pháp nghiên cứu 34
2.2.1 Khung phân tích 34
3.2.2 Phương pháp thu thập số liệu, thông tin 36
3.2.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 37
3.2.4 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 38
PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
4.1 Tình hình chăn nuôi bò thịt của huyện Sông Lô 40
4.1.1 Thực trạng chăn nuôi bò thịt của huyện Sông Lô 40
4.1.2 Tình hình chăn nuôi bò thịt của các hộ điều tra 43
4.1.3 Rủi ro trong chăn nuôi bò thịt của các hộ điều tra 44
4.1.4 Thực trạng bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi huyện Sông Lô 50
4.2 Nhu cầu bảo hiểm nông nghiệp cho chăn nuôi bò thịt của các hộ nông dân
trên địa bàn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc 51
4.2.1 Nhu cầu tham gia bảo hiểm cho chăn nuôi bò thịt của các hộ điều tra 51
4.2.2 Nhu cầu của các hộ về mức bồi thường của bảo hiểm 52
4.2.3 Nhu cầu của các hộ về cơ quan đánh giá thiệt hại 53
4.2.4 Nhu cầu của các hộ về hình thức chi trả bảo hiểm 55
4.2.5 Nhu cầu của các hộ về thời gian chi trả bảo hiểm 55
4.2.6 Nhu cầu của các hộ về hình thức mua bảo hiểm 56
4.3 Phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu tham gia BHNN và mức sẵn
lòng chi trả của các hộ 57
4.3.1 Yếu tố quy mô chăn nuôi 57
4.3.2 Yếu tố phương thức chăn nuôi 60
4.3.3 Yếu tố thu nhập/đầu con 62
4.3.4 Yếu tố tuổi của chủ hộ 64
4.3.5 Yếu tố giới tính của chủ hộ 66
4.3.6 Yếu tố trình độ chuyên môn của chủ hộ 67
4.3.7 Một số yếu tố khác 70
4.3.8 Xác định tổng quỹ bảo hiểm chăn nuôi bò thịt của các hộ nông dân huyện

Sông Lô 70
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

4.4 Thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến nhu cầu tham gia bảo hiểm cho chăn
nuôi bò thịt của người dân 71
4.4.1 Thuận lợi 71
4.4.2 Khó khăn
74
4.5 Định hướng và giải pháp 78
4.5.1 Định hướng 78
4.5.2 Giải pháp 79
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 85
5.1 Kết luận 85
5.2 Kiến nghị 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC 91

















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

Bảng 3.1 Hiện trạng sử dụng đất huyện Sông Lô qua 3 năm 2011-2013 27
Bảng 3.2 Tình hình dân số và lao động huyện Sông Lô qua 3 năm 2011-2013 29
Bảng 3.3 Cơ sở hạ tầng trang thiết bị cho huyện Sông Lô trong 31
giai đoạn 2011 - 2013 31
Bảng 3.4 Kết quả sản xuất kinh doanh huyện Sông Lô giai đoạn 2011-2013 33
Bảng 3.5 Mẫu hộ điều tra 36
Bảng 4.1 Tình hình chăn nuôi bò thịt của huyện Sông Lô qua 3 năm (2011 -
2013) 41
Bảng 4.2 Tình hình cơ bản của các hộ điều
tra
43
Bảng 4.3 Rủi ro trực tiếp trong quá trình sản xuất của các hộ 45
Bảng 4.4 Rủi ro về nguồn lực của các hộ 47
Bảng 4.5 Nhu cầu của các hộ về mức bồi thường của BH 53
Bảng 4.6 Nhu cầu của các hộ về cơ quan đánh giá thiệt hại
54
Bảng 4.7 Nhu cầu của hộ về hình thức chi trả BH
55
Bảng 4.8 Nhu cầu của hộ về thời hạn giải quyết bồi thường
56

Bảng 4.9 Nhu cầu của hộ về hình thức mua bảo hiểm
57
Bảng 4.10 Nhu cầu bảo hiểm và mức sẵn lòng chi trả của hộ theo quy mô 58
Bảng 4.11 Nhu cầu bảo hiểm và mức sẵn lòng chi trả của hộ theo phương thức
chăn nuôi 61
Bảng 4.12 Nhu cầu tham gia BHNN và mức sẵn lòng chi trả của các hộ theo thu
nhập 63
Bảng 4.13 Nhu cầu bảo hiểm và mức sẵn lòng chi trả theo độ tuổi 65
Bảng 4.14 Nhu cầu tham gia BHNN và mức sẵn lòng chi trả theo giới tính 67
Bảng 4.15 Nhu cầu tham gia BHNN và mức sẵn lòng chi trả theo trình độ
chuyên môn của chủ hộ
68
Bảng 4.16 Tổng quỹ BH chăn nuôi bò thịt của các hộ huyện Sông Lô 70
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ


STT Tên sơ đồ, đồ thị Trang

Sơ đồ 3.1 Khung phân tích nhu cầu BH cho chăn nuôi bò thịtError! Bookmark
not defined.
Đồ thị 4.1 Nhu cầu của các hộ về mua BHNN cho chăn nuôi bò thịt 52
Đồ thị 4.2 Nhu cầu BH cho bò thịt theo quy mô chăn nuôi 58
Đồ thị 4.3 Mức sẵn lòng chi trả BH theo quy mô chăn nuôi 59
Đồ thị 4.4 Nhu cầu BH cho bò thịt theo phương thức chăn nuôi 61
Đồ thị 4.5 Mức sẵn lòng chi trả BH theo phương thức chăn nuôi 62
Đồ thị 4.6 Nhu cầu BH cho bò thịt theo thu nhập/đầu con 63
Đồ thị 4.7 Mức sẵn lòng chi trả BH theo thu nhập/đầu con 64

Đồ thị 4.8 Nhu cầu BH cho bò thịt theo trình độ chuyên môn 68
Đồ thị 4.9 Mức sẵn lòng chi trả BH theo trình độ chuyên môn 69
















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BH :

Bảo hiểm
BHNN :

Bảo hiểm nông nghiệp

BQ :

Bình quân
CC :

Cơ cấu
ĐVT :

Đơn vị tính
NN-PTNT :

Nông nghiệp - Phát triển nông thôn
QML :

Quy mô lớn
QMN :

Quy mô nhỏ
QMV :

Quy mô vừa
SL :

Số lượng
UBND :

Ủy ban nhân dân
WTP :

Mức sẵn lòng chi trả














Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

PHẦN I. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với
nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, do sản xuất nông nghiệp mang tính đặc thù nên
đây lại là ngành gặp rất nhiều rủi ro. Theo thống kê của Liên hợp quốc, Việt Nam
đứng thứ 6 trong các quốc gia chịu thiệt hại nặng nề do thiên tai, dịch bệnh, với
mức độ thiệt hại lên tới 1,8 tỷ USD mỗi năm (Đỗ Minh, 2013). Những hoạt động
hỗ trợ của nhà nước tuy đã phần nào giúp người dân giảm thiểu những mất mát
khi thiên tai, dịch bệnh xảy ra nhưng nhìn chung chỉ đáp ứng được một phần rất
nhỏ và mang tính khẩn cấp, chưa có tính hiệu quả và bền vững.
Khác với các hình thức cứu trợ sau thiên tai, dịch bệnh, bảo hiểm nông
nghiệp là hình thức cộng đồng chia sẻ rủi ro, mỗi người tham gia sẽ là người lập
dự phòng tài chính (bằng phí bảo hiểm) hàng năm theo kế hoạch cùng Nhà nước

hình thành Quỹ bảo hiểm tập trung để giải quyết bồi thường các thảm họa thiên
tai, dịch bệnh. Nguồn quỹ bảo hiểm được tạo thành bởi cộng đồng những người
sản xuất nông nghiệp và nhà nước mang tính xã hội hóa cao, giảm gánh nặng cho
ngân sách nhà nước trong việc cứu trợ khẩn cấp người dân không may bị tổn thất
tài chính do hậu quả của thiên tai, dịch bệnh. Ngoài ra, bảo hiểm giúp việc khắc
phục hậu quả tài chính cho những người không may bị tổn thất mang tính khách
quan, công bằng hơn các hình thức cứu trợ. Qua đó, góp phần ổn định chính trị,
an sinh xã hội. Không những thế, bảo hiểm giúp nông dân yên tâm sản xuất do
được bù đắp chi phí sản xuất, thúc đẩy người sản xuất nông nghiệp nâng cao ý
thức chủ động phòng ngừa rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất trong sản xuất
nông nghiệp. Do đó, đưa bảo hiểm nông nghiệp vào hoạt động sản xuất nông
nghiệp là một điều hết sức cần thiết (Bộ Tài Chính, 2013).
Bảo hiểm nông nghiệp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta
nhằm hỗ trợ cho người sản xuất nông nghiệp chủ động khắc phục và bù đắp thiệt
hại do hậu quả của thiên tai, dịch bệnh gây ra. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 1/3/2011 về việc thực hiện thí điểm bảo hiểm
nông nghiệp giai đoạn 2011 – 2013 áp dụng ở 20 tỉnh, thành trong cả nước. Theo
đó, một số cây trồng, vật nuôi được thí điểm bảo hiểm bao gồm: lúa, trâu, bò, lợn,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

gia cầm, cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm chân trắng. Việc ban hành quyết định này là
một bước đi quan trọng, tạo điều kiện cho người nông dân tham gia thị trường
BHNN, giúp họ yên tâm sản xuất. Sơ bộ đánh giá thí điểm BHNN của Bộ NN-
PTNT cho thấy, BHNN có kết quả tốt, giúp người nông dân bớt thiệt thòi trong
quá trình sản xuất nông nghiệp và đặc biệt, trong mấy năm vừa qua, giá trị hàng
hóa nông sản được bảo hiểm trên 200.000 tỉ đồng, chứng tỏ hàng hóa nông sản
được bảo hiểm rủi ro không hề nhỏ và người nông dân mua bảo hiểm đã được các
công ty bảo hiểm hỗ trợ, bồi thường kịp thời khi có rủi ro xảy ra. Hầu hết các bộ
ngành, địa phương đều kiến nghị Chính phủ cần tiếp tục nhân rộng BHNN đối với

các loại cây trồng, chăn nuôi, thủy sản. Tuy nhiên BHNN vẫn là chính sách rất mới
và cũng khó cả với nông dân chưa quen tiếp cận loại hình này trong sản xuất và
đối với tổ chức bảo hiểm cũng là mới. Đối với cơ quan quản lý nhà nước cũng vậy,
nên không tránh được những khó khăn, vướng mắc và bất cập (Hồng Ngọc, 2013).
Sông Lô là một huyện miền núi, tỷ trọng nông nghiệp rất lớn, sản xuất
nông nghiệp chiếm 41,8% tổng giá trị sản xuất của huyện, đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong phát triển kinh tế chung trên địa bàn (Chi cục Thống kê huyện
Sông Lô, 2013). Trong đó, chăn nuôi được xác định là thế mạnh của huyện, đặc
biệt là chăn nuôi bò thịt và là ngành đang được chú trọng phát triển. Tuy nhiên,
có rất nhiều rủi ro trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi bò thịt nói riêng mà
người dân phải gánh chịu như sự diễn biến hết sức phức tạp của thời tiết, dịch
bệnh hoành hành, thị trường bấp bênh. Chỉ tính cuối năm 2010, đầu năm 2011
chăn nuôi của toàn huyện đã chịu thiệt thại rất lớn do dịch bệnh và rét đậm, rét
hại kéo dài. Có tới 889 con trâu, bò; 8.080 con lợn và 23.183 con gà bị chết. Ước
thiệt hại lên đến 34.925 triệu đồng (Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Sông Lô,
2011).
Do
đó nhu cầu bảo hiểm nông nghiệp ngày càng trở nên thiết thực hơn với
người dân chăn nuôi
trên địa bàn huyện.

Từ những thực tế nêu trên, câu hỏi đặt ra là: thực trạng bảo hiểm trong
chăn nuôi bò thịt của các hộ như thế nào? Nhu cầu tham gia bảo hiểm nông
nghiệp trong chăn nuôi bò thịt của các hộ ra sao? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến
nhu cầu tham gia bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi bò thịt của các hộ? Giải
pháp nào để làm tăng tỷ lệ các hộ tham gia BHNN trong chăn nuôi bò thịt?
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu nhu cầu

bảo hiểm nông nghiệp cho chăn nuôi bò thịt của các hộ nông dân huyện Sông
Lô, tỉnh Vĩnh Phúc” để nghiên cứu.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở xác định nhu cầu tham gia bảo hiểm nông nghiệp cho chăn nuôi
bò thịt của các hộ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham gia bảo
hiểm của các hộ chăn nuôi bò thịt tại huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về nhu cầu bảo hiểm cho
chăn nuôi bò thịt;
- Xác định nhu cầu bảo hiểm cho chăn nuôi bò thịt của các hộ;
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu bảo hiểm cho chăn nuôi bò
thịt của các hộ;
- Đề xuất những giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham gia bảo hiểm của các
hộ chăn nuôi bò thịt huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nhu cầu bảo hiểm nông nghiệp cho chăn nuôi bò thịt của các hộ nông dân;
- Những hộ chăn nuôi bò thịt.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các vấn đề liên quan tới nhu cầu bảo hiểm
nông nghiệp cho chăn nuôi bò thịt của các hộ nông dân huyện Sông Lô.
- Phạm vị về không gian: Đề tài nghiên cứu tại huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi về thời gian:
+ Thời gian nghiên cứu đề tài: Đề tài lấy số liệu từ 2011-2013.
+ Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 5/2013 đến tháng 10/2014.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU


2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Cầu, nhu cầu
a. Nhu cầu
Có rất nhiều khái niệm về nhu cầu, một số khái niệm cơ bản về nhu cầu
như sau:
* Theo Lê Thị Kim Chi (2005): “Nhu cầu là những trạng thái thiếu hụt và
những đòi hỏi cần được đáp ứng của chủ thể (con người và xã hội) để tồn tại và
phát triển”.
* Theo Nguyễn Quang Uẩn và tập thể tác giả (1999): “Nhu cầu bao giờ
cũng có đối tượng cụ thể và nội dung của nó do những điều kiện và phương thức
thỏa mãn quy định. Khi nào đối tượng của nhu cầu có khả năng đáp ứng thì nhu
cầu đó trở thành động lực thúc đẩy sự hoạt động của các cá nhân hay nhóm xã
hội”.
Nhu cầu của con người rất đa dạng, thường được chia thành 2 dạng chính
là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
* Nhu cầu theo Kinh tế học: Được hiểu là nhu cầu tiêu dùng, là sự cần
thiết của một cá thể về một hàng hoá hay dịch vụ nào đó. Khi nhu cầu của toàn
thể các cá thể đối với một mặt hàng trong một nền kinh tế gộp lại, ta có nhu cầu
thị trường. Khi nhu cầu của tất cả các cá thể đối với tất cả các mặt hàng gộp lại ta
có tổng cầu.
Đặc trưng của nhu cầu
:

- Không ổn định, biến đổi
- Năng động
- Biến đổi theo quy luật
- Không bao giờ thỏa mãn cùng một lúc mọi nhu cầu
- Ham muốn không có giới hạn.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

b. Cầu
* Khái niệm cầu (Demand): Cầu là lượng hàng hoá, dịch vụ mà người
mua sẵn
sàng
(Willing) và có khả năng mua (Able to buy) tại các mức giá
khác nhau trong một khoảng thời
gian
nhất ñịnh với giả thiết các yếu tố khác
không đổi (Ceteris
Paribus)
(Nguyễn Thị Hồng Việt, 2006).
Thực chất, cầu chính là những nhu cầu có khả năng thanh toán cho nhu
cầu đó.
Cầu trong nông nghiệp: Theo Đỗ Kim Chung và tập thể tác giả (2009):
“Cầu trong nông nghiệp bao gồm cầu về sản phẩm nông nghiệp và cầu về các
yếu
tố

đầu
vào, dịch vụ dùng trong nông nghiệp. Cầu về sản phẩm có những nét
khác với cầu về đầu vào

dịch
vụ”.

* Các yếu tố ảnh hưởng tới cầu:

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cầu: Giá cả chính hàng hoá dịch vụ đó,
thu nhập của người tiêu dùng, giá cả của hàng hoá có liên quan, thị hiếu, sở thích
người tiêu dùng, kỳ vọng của người tiêu dùng, quy mô và cơ cấu dân số. Ngoài
ra: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như chính sách trợ cấp, thuế thu nhập;
điều kiện tự nhiên… cũng ảnh hưởng đến lượng cầu hàng hoá dịch vụ.
2.1.1.2 Rủi ro
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về rủi ro được đưa ra, những trường phái
khác nhau, tác giả khác nhau thì đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau.
Những định nghĩa rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên có thể chia làm hai
trường phái: Trường phái truyền thống (hay còn gọi là trường phái tiêu cực);
Trường phái trung hòa.
* Theo trường phái truyền thống: “Rủi ro là những thiệt hại, mất mát,
nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự khó khăn hay những vấn
đề không chắc chắn có thể xảy ra cho con người”. Theo trường phái này có nhiều
định nghĩa như:
- “Rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến” (Hoàng Văn
Hành, 1995).
- “Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may (Nguyễn Lân, 1998) .
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

- Theo từ điểm Oxford thì: “Rủi ro là gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn,
thiệt hại”
- Một số từ điển khác đưa ra khái niệm tương tự như: “Rủi ro là sự bất trắc
gây ra mất mát, hư hại” hay “rủi ro là yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự khó
khăn hoặc điều không chắc chắn”.
- Trong lĩnh vực kinh doanh, Hồ Diệu (2001) định nghĩa: “Rủi ro là sự tổn
thất về tài sản hoặc là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến”.
- Hoặc “Rủi ro là sự bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp”.

* Theo trường phái trung hòa: Theo trường phái này có một số định nghĩa
như sau:
- “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được” ( Frank Knight).
- “Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến sự xuất hiện những biến đổi
không mong đợi” (Allan Willett).
- “Rủi ro là một tổng hợp ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất”
(Irving Preffer).
* Rủi ro trong nông nghiệp:
Môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội mà nông dân sản xuất có biết bao
điều không chắc chắn xảy ra bất lợi đối với nông dân như thiên tai, giảm giá
nông sản, tăng giá đầu vào, bệnh tật… Các sự kiện đó xảy ra với những xác suất
mà không thể biết trước được. Trong các tình trạng không chắc chắn đó, các biến
cố có thể xảy ra với một xác suất ước đoán chủ quan được gọi là sự rủi ro. Trong
nông nghiệp, nông dân phải đương đầu với hàng loạt rủi ro như: mất mùa, giá
nông sản hạ, giá đầu ra tăng vọt, ốm đau, bệnh tật, thay đổi bất lợi về tổ chức
(thay đổi về tổ chức hay luật lệ và chính sách của Chính phủ); rủi ro về tài chính
(sự thay đổi bất lợi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, mức nợ); sự thay đổi về chính trị
xã hội, thay đổi bất lợi về thương mại quốc tế; thiên tai và các quyết định của
Chính phủ (như quyết định về chiến tranh). Các dạng rủi ro trên có những tác
động rất khác nhau đến kết quả và hiệu quả sản xuất nông nghiệp (Đỗ Kim
Chung và tập thể tác giả, 2009).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

* Ứng xử của nông dân đối với rủi ro
Nông dân có cách ứng xử rất khác nhau với rủi ro. Nếu có rủi ro xảy ra, họ
thường thu hẹp quy mô sản xuất để tối thiểu hóa thiệt hại. Theo Đỗ Kim Chung
và tập thể tác giả (2009), có thể chia nông dân ra thành 3 nhóm:
- Thứ nhất, có người tiếp thu ngay kỹ thuật mới thực hiện đầu tư như yêu
cầu kỹ thuật. Những người này thường đạt kết quả cao nếu không có rủi ro xảy

ra, nhưng cũng bị lỗ lớn nếu có điều kiện bất thuận xảy ra. Đây là những người
chiij rủi ro và thường chiếm khoảng 5 – 7 % trong tổng số nông dân.
- Thứ hai, có người thực hiện đầu tư tối thiểu để chắc chắn hơn. Nếu được
mùa, họ cũng thu được (đương nhiên là thấp hơn so với những người chịu rủi ro).
Nếu mất mùa, họ cũng bị thiệt hại song mức thiệt hại là không lớn. Những người
đầu tư theo kiểu này được gọi là những người tránh rủi ro. Phần lớn nông dân (65
- 80%) thuộc nhóm này.
- Thứ ba, những người đầu tư ở mức trung bình (không đầu tư đúng quy
trình kỹ thuật như nhóm thứ nhất, cũng không đầu tư tối thiểu như nhóm thứ hai).
Những người này đạt mức lãi không cao hơn và nếu rủi ro xả ra mức thiệt hại
cũng thấp hơn so với những người chịu rủi ro. Những người này gọi là nông dân
trung lập. Có khoảng 13 – 15 % nông dân thuộc nhóm người này.
2.1.1.3 Bảo hiểm, bảo hiểm nông nghiệp
* Khái niệm bảo hiểm: “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo
hiểm cam kết bồi thường (theo quy định thống kê) cho người tham gia bảo
hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều
kiện người tham gia phải nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người
thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người
bảo hiểm bằng cách nộp các khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người
tham gia bảo hiểm gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người tham gia bảo hiểm sẽ lấy
quỹ dự trữ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người
tham gia (Nguyễn Văn Định, 2010).
* Khái niệm bảo hiểm nông nghiệp: Bảo hiểm nông nghiệp là một
nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ có đối tượng bảo hiểm là các rủi ro phát sinh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn, bao gồm những
rủi ro gắn liền với: cây trồng, vật nuôi, vật tư, hàng hóa, nguyên liệu, nhà
xưởng (Nguyễn Văn Định, 2010).

* Bản chất của bảo hiểm
Mục đích của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia từ
đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. .
Thực chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong
nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh tai
nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra tổn thất với người tham gia bảo hiểm.
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Nguyên tắc
này được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như trong quá
trình phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.
Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn bó các thành viên trong xã hội cùng
vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước. “Số
đông bù số ít” cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc của
xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên (Nguyễn Văn Định, 2010). .
2.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi
*
Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
:

- Đối tượng bảo hiểm trong chăn nuôi: là các sản phẩm chăn nuôi và các
loại vật nuôi. Đối với vật nuôi là tài sản cố định thường bảo hiểm từng con, còn
đối với vật nuôi thường bảo hiểm cả đàn là vật nuôi lưu động nhưng được nuôi
dưỡng trong thời gian ngắn.
- Thời hạn bảo hiểm: thường là 1năm hoặc là toàn bộ chu kỳ sản xuất.
Nếu là toàn bộ chu kỳ sản xuất thì nó sẽ được bắt đầu từ khi vật nuôi được
chuyển thành tài sản cố định đến khi kết thúc chu kỳ sản xuất.
- Phạm vi bảo hiểm: Trong chăn nuôi thường gặp rất nhiều rủi ro, có cả rủi
ro khách quan có cả rủi ro chủ quan…Tuy nhiên chỉ có những rủi ro thông
thường sau đây mới được bảo hiểm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 9

+ Thiệt hại do thiên tai, lũ lụt gây ra
+ Bệnh dịch bao gồm cả những bệnh truyền nhiễm và những bệnh không
truyền nhiễm.
+ Buộc phải giết mổ để đề phòng lây lan. Hoặc là khi vật bị đau ốm không
thể tiếp tục nuôi dưỡng và sử dụng được.
+ Và một số rủi ro khác như: các động vật ăn thịt đánh cắn lẫn nhau, hoặc
bị tai nạn giao thông, hoả hoạn.
* Giá trị bảo hiểm và chế độ bảo hiểm (Nguyễn Văn Định, 2010):
- Đối với súc vật vỗ béo và lấy thịt, giá trị bảo hiểm thường là giá trị xuất
chuồng bình quân một số năm trước đó nhằm loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên
ảnh hưởng.
- Trồng trọt và chăn nuôi đều áp dụng các chế độ bảo hiểm khác nhau
nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm, làm giảm phí
và phù hợp với tình hình tổ chức và quản lý của công ty bảo hiểm.
* Phương pháp xác định phí bảo hiểm chăn nuôi(Nguyễn Văn Định, 2010):
- Khi tiến hành bảo hiểm các sản phẩm chăn nuôi, thì công tác tính phí
giống như xác định phí bảo hiểm cho cây trồng hàng năm. Tuy nhiên ở đây, chỉ
giới hạn trong phạm vi xác định phí bảo hiểm theo đầu con gia súc,gia cầm.
- Phí bảo hiểm theo đầu con đối với từng loại súc vật thường được tính
theo công thức sau:

4321
ffffp
+
+
+
=


1
f
: phí bồi thường thiệt hại
2
f
: phí đề phòng hạn chế tổn thất
3
f
: phí dự trữ dự phòng
:4
f
: phí quản lý và lãi dự kiến
Trong đó cách tính phí bồi thường thiệt hại được xác định như sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10


)(
1
1
1 tc
n
i
i
n
i
i
GG
Q
q

f −×=


=
=

i
Q
: số vật nuôi năm i
i
q
: số vật nuôi bị chết bị thải loại năm i
c
G
: giá trị bình quân 1 con vật nuôi bị thải loại, chết, thuộc phạm vi
bảo hiểm
t
G
: giá trị tận thu 1 con vật nuôi sau khi bị thải loại, chết thuộc phạm vi bảo
hiểm.



=
=
××
=
n
i
i

n
i
iii
c
q
ptq
G
1
1

t
: trọng lượng bình quân 1 con vật nuôi trước khi bị chết, bị thải loại, tai
nạn năm i thuộc phạm vi bảo hiểm.
i
p
: giá bình quân 1 đơn vị sản phẩm vật nuôi trước khi bị thải loại, tai nạn,
chết năm i.
2.1.3 Tác dụng của bảo hiểm nông nghiệp
Thứ nhất, khôi phục và duy trì năng lực tài chính ổn định, giảm bớt
nỗi lo âu về tinh thần của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm sau khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm, thông qua hoạt động chi trả bồi thường. Về khía cạnh này,
trước những tổn thất lớn, trên diện rộng và ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất
kinh doanh trong nông nghiệp của nhiều người dân thì hình thức bảo hiểm nông
nghiệp sẽ có ưu thế hơn so với các loại hình bảo hiểm khác vì rủi ro sẽ được san
xẻ giữa các hộ nông dân. Chỉ tính riêng trong năm 2008, số tiền mà các doanh
nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam bỏ ra để bồi thường và trả tiền bảo hiểm đã lên đến
gần 9.185 tỷ đồng, tăng 43,6 % so với năm 2007. Trong đó bồi thường bảo hiểm
nông nghiệp là 348 triệu đồng. Bảo hiểm đem lại sự ổn định tài chính và ổn định
xã hội, đồng thời góp phần giảm bớt sự lo âu về tinh thần cho các cá nhân và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 11

daonh nghiệp tham gia bảo hiểm trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như
trong hoạt động sản xuất, dinh doanh nói chung và hoạt động sản xuất của nông
dân ở nông thôn nói riêng (Bộ Tài Chính, 2013).
Thứ hai, bổ sung cho các chương trình đảm bảo xã hội do Nhà nước
thực hiện, nhờ đó làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và nâng cao
hiệu quả của việc phân bổ các nguồn lực trong xã hội. Ví dụ: các hoạt động sản
xuất nông nghiệp hay đánh bắt cá xa bờ thường diễn ra trên diện rộng và phụ
thuộc rất nhiều vào các điều kiện tự nhiên do vậy khả năng xảy ra tổn thất là rất
cao, trong khi các hoạt động bảo hiểm thương mại thông thường rất khó đáp
ứng, đáp ứng không hiệu quả hoặc với mức phí bảo hiểm phải đóng cao gây bất
lợi cho người tham gia bảo hiểm. Trong nhiều trường hợp, với các tổn thất lớn,
diễn ra trên diện rộng thì các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không đủ khả năng
thanh toán và có thể bị phá sản. Do vậy, để bảo hiểm giảm bớt mức độ thiệt hại,
giảm bớt sự tài trợ của ngân sách nhà nước và tạo quyền chủ động trong việc đề
phòng, hạn chế tổn thất thì việc tham gia BHNN của người dân ở khu vực nông
thôn là rất cần thiết (Bộ Tài Chính, 2013).
Thứ ba, thúc đẩy các hoạt động thương mại, sản xuất kinh doanh.
Thực tế cho thấy nhiều hàng hóa dịch vụ chỉ có thể tiêu thụ được trên thị trường
nếu đi kèm với các hợp đồng bảo hiểm cho những trách nhiệm phát sinh liên
quan đến việc sử dụng các hàng hóa dịch vụ đó. Chẳng hạn, máy bay không thể
cất cánh, tàu thuyền không thể ra khơi và xe cộ không thể khởi hành nếu không
có bảo hiểm, các sản phẩm nông sản, thủy hải sản cần phải có bảo hiểm khi xuất
khẩu sang các hị trường các nước phát triển. Ngoài ra, bảo hiểm cũng hỗ trợ cho
các hoạt động kinh doanh bằng cách tăng cường lòng tin của khách hàng. Ví dụ,
một trong những điều kiện tiên quyết mà người đi vay cần thỏa mãn trước khi
được cho vay là phải mua bảo hiểm cho những tài sản được dùng để thế chấp,
hoặc phải bảo hiểm nhân thọ cho tính mạng của người chịu trách nhiệm chính
trong việc trả nợ. Chính vì lý do này mà người ta còn ví rằng ”bảo hiểm là chất

bôi trơn củ hoạt động thương mại”. Trong khi đó, với tầm lá chắn bảo hiểm, các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

hộ sản xuất kinh doanh đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thủy hải sản, sản xuất nông
nghiệp có thể yên tâm sản xuất, nhà đầu tư cũng yên tâm khi đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp vì đứng sau lưng họ có sự bảo vệ tài chính của các
công ty bảo hiểm thông qua việc tham gia BHNN (Bộ Tài Chính, 2013).
Thứ tư, tạo kênh huy động vốn tiết kiệm quan trọng cho đầu tư phát
triển, đồng thời thúc đẩy việc phân bổ một cách có hiệu quả hơn những nguồn
vốn, thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường vốn trong một quốc gia. Thông
qua các nguồn vốn huy động được (phí bảo hiểm), các công ty bảo hiểm tiến
hành đầu tư vào các công trình, dự án hay các công cụ tài chính dưới các dạng
đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm đạt 54.970 tỷ đồng, tăng 22,2 % so với
năm 2007(Bộ Tài Chính, 2013).
Thứ năm, là công cụ hữu hiệu để quản lý rủi ro có hiệu quả, thông qua
việc định giá, chuyển giao rủi ro, đóng góp quỹ để chi trả cho các tổn thất và
giảm bớt thiệt hại. Các công ty bảo hiểm thực hiện việc định giá sản phẩm thông
qua việc xét nhận bảo hiểm và đầu tư, theo nguyên tắc rủi ro tỷ lệ thuận với phí
bảo hiểm. Các chủ doanh nghiệp, các nhà quản lý, nhà đầu tư, chủ nợ và các cổ
đông có thể sử dụng những “tín hiệu” thu được từ việc định giá sản phẩm này để
đưa ra những quyết định dựa trên thông tin đầy đủ. Nhờ đó, hiệu quả kinh tế
cũng được nâng cao. Các công ty bảo hiểm cũng cho phép các doanh nghiệp và
cá nhân chuyển giao các tài sản, trách nhiệm, tổn thất thu nhập và các rủi ro
khác để đáp ứng nhu cầu của chính bản thân họ một cách tốt hơn. Ngoài ra, các
công ty bảo hiểm nhân thọ còn giúp các tổ chức và cá nhân chuyển giao các
khoản tiết kiệm của họ sang một hình thức mới với độ thanh khoản cao, an toàn
hơn và mức độ rủi ro thấp hơn. Mặt khác, theo quy luật số lớn, các công ty bảo
hiểm thu phí của số đông người tham gia bảo hiểm để bồi thường cho số ít
những thiệt hại, tổn thất xảy ra. Thông qua hoạt động đầu tư, các công ty bảo

hiểm có thể phân tán rủi ro cho nhiều đối tượng tiếp nhận đầu tư khác nhau và
nhờ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư (Bộ Tài Chính, 2013).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu bảo hiểm nông nghiệp trong chăn
nuôi bò thịt
Nhu cầu tham gia bảo hiểm trong chăn nuôi bò thịt phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố. Một số yếu tố chủ yếu, đó là:
- Từ phía người chăn nuôi: Người chăn nuôi là người quyết định xem
mình có tham gia BHNN hay không. Khi họ đồng ý tham gia thì họ sẽ mong
muốn về sản phẩm này như thế nào. Những quyết định, mong muốn đó chịu ảnh
hưởng rất lớn bới các yếu tố như: độ tuổi, giới tính, trình độ chuyên môn của chủ
hộ, quy mô chăn nuôi, phương thức chăn nuôi, thu nhập bình quân/đầu con của
hộ. Mỗi sự khác nhau đó giữa các hộ thì sẽ có sự quyết định, nhu cầu khác nhau
nhất định.
- Từ phía doanh nghiệp bảo hiểm: Doanh nghiệp bảo hiểm là bên bán bảo
hiểm, do đó, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến
người mua, chính là các hộ chăn nuôi bò thịt. Nếu như doanh nghiệp có sản
phẩm tốt, tức là thủ tục mua bán hợp lý, mức phí bảo hiểm người dân có thể chấp
nhận được, đánh giá thiệt hại kịp thời, đảm bảo lợi ích cho người dân, bồi thường
đầy đủ, nhanh chóng cho người chăn nuôi khi gặp rủi ro thì sẽ tạo được niềm tin
ở người dân, từ đó sẽ giúp người dân yên tâm từ đó sẽ thúc đẩy họ tham gia bảo
hiểm cho vật nuôi của mình. Ngược lại sẽ khiến người dân không tin tưởng, nghi
ngờ về lợi ích của mình khi mua BHNN, điều này sẽ khiến họ e ngại và không
muốn mua BHNN.
- Từ phía Nhà nước: Vì đây là một lĩnh vực mới, phức tạp và rộng lớn nên
rất cần có sự chỉ đạo và hỗ trợ từ phía Nhà nước. Nếu như Nhà nước có cơ chế
chính sách rõ ràng, chỉ đạo quyết liệt các cơ quan chức năng vào cuộc trong quá
trình triển khai BHNN, có sự hỗ trợ cả người dân tham gia và doanh nghiệp bảo

hiểm sẽ khuyến khích được người dân tham gia.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Thực trạng bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
Ở Việt Nam, bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai lần đầu tiên vào
năm 1980. Cho đến nay có 2 doanh nghiệp chính cung cấp BHNN, chủ yếu vẫn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

là bảo hiểm vật nuôi. Đó là Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (nay là tập đoàn
Bảo Việt) và Công ty TNHH Bảo hiểm tổng hợp Groupama Việt Nam.
Theo thống kê của Vụ Bảo hiểm Bộ tài chính, tỷ trọng tham gia BHNN ở
Việt Nam đứng ở mức rất thấp. Tính đến năm 2001, mới chỉ có 0,19% diện tích cây
trồng; 0,24% số trâu bò; 0,1% đàn lợn và 0,04% số gia cầm được bảo hiểm (Tân
Nguyên, 2012).
Việt Nam là nước nông nghiệp nhưng BHNN lại chiếm tỉ trọng rất nhỏ.
Mặc dù được khởi động từ rất sớm, cách đây gần 30 năm, song cho đến nay phí
BHNN của toàn thị trường mới chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong doanh thu phí bảo
hiểm phi nhân thọ (năm 2004 chiếm khoảng 0,069%; 2005 chiếm 0,008%; 2006
chiếm 0,012%; từ 2007 đến 2011 chiếm 0,01%/năm). Hiện trên thị trường có rất
ít doanh nghiệp tham gia BHNN. Hầu như các loại cây trồng, vật nuôi, thủy sản
đều không được bảo hiểm. Thực tế này khiến cho BHNN hiện chưa đóng góp
nhiều cho sản xuất nông nghiệp (Hoàng Xuân, 2013).
Trong suốt thời gian gần 16 năm, từ 1982 - 1998, BHNN không phát triển
mở rộng thị trường, chỉ đơn thuần triển khai thăm dò bởi một công ty bảo hiểm
duy nhất, đó là Bảo Việt. Sau giai đoạn này, mới bắt đầu có thêm doanh nghiệp
tham gia vào khai thác BHNN. Năm 2001, Groupama (công ty 100% vốn của
Pháp) triển khai vật nuôi và thủy sản. Năm 2010, có thêm Bảo Minh (bảo hiểm
cây cà phê) và ABIC (bảo hiểm bò sữa tại Nghệ An) (Hoàng Xuân, 2013).
Trong giai đoạn từ năm 1993 đến 1998, Bảo Việt tiếp tục triển khai thí
điểm bảo hiểm cây lúa tại 16 tỉnh trên phạm vi cả nước, trọng tâm là Hà tĩnh -

nơi thường xuyên chịu nhiều yếu tố rủi ro nhất. Diện tích bảo hiểm thời gian này
là 208.900 ha, với 315.200 hộ được bảo hiểm, phí bảo hiểm thu được đạt 13,05 tỷ
đồng, trong khi tiền bồi thường lên tới 14,40 tỷ đồng (Hoàng Xuân, 2013).
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhất là sau khi có quyết định số
315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm bảo hiểm nông
nghiệp thì bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Theo số liệu của Trung tâm khuyến nông quốc gia, tính đến thời điểm 30/4/2013 có
234.233 hộ dân đã tham gia ký hợp đồng bảo hiểm (trong đó có 80,8% là hộ nghèo),
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

với giá trị bảo hiểm cây trồng, vật nuôi và thủy sản là 5.437.574 triệu đồng, tổng
doanh thu phí bảo hiểm gốc là 303.295 triệu đồng (Nguyễn Ngọc Sơn, 2013).
Sau thời gian triển khai, cái được lớn nhất mà các tỉnh, thành được chọn
làm thí điểm đều khẳng định là việc BHNN là đúng đắn và rất cần thiết nhằm hỗ
trợ cho người sản xuất nông nghiệp, chủ động khắc phục và bù đắp những thiệt
hại tài chính do hậu quả của thiên tai dịch bệnh gây ra góp phần bảo đảm ổn định
an sinh xã hộ nông thôn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Với mục tiêu
đó nên các tỉnh, thành đã tập trung tổ chức chỉ đạo, huy động cả hệ thống chính
trị vào cuộc và làm tốt công tác tuyên truyền nên bước đầu đã thu được kết quả
đáng ghi nhận (Nguyễn Ngọc Sơn, 2013).
Những khó khăn trong quá trình triển khai thí điểm BHNN mà Việt Nam
gặp phải đó là BHNN là loại hình bảo hiểm mới rất phức tạp, lần đầu tiên làm thí
điểm nên chưa có kinh nghiệm. Phạm vi, đối tượng, địa bàn BHNN là khá rộng,
mặt khác do tính chất sản xuất nông nghiệp của Việt Nam nói chung còn nhỏ lẻ,
chưa tập trung. Diễn biến thời tiết khí hậu, thiên tai, dịch bệnh thời gian qua rất
phức tạp, tình hình giá cả thị trường, vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi nhiều
biến động làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai thí điểm BHNN. Nhiều
nơi người dân chưa mặn mà với việc việc tham gia bảo hiểm cây trồng vật nuôi
hoặc một số hộ dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp còn tham gia mang tính chất

thăm dò, thậm chí có trường hợp lựa chọn đối tượng được bảo hiểm có rủi ro cao
để tham gia.
2.2.2 Kinh nghiệm một số nước trên thế giới
2.2.2.1 Kinh nghiệm của Ấn Độ
Ấn Độ là một trong các quốc gia châu Á có diện tích lớn với dân số hơn 1
tỷ người, trong đó 60% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản phẩm
nông nghiệp của Ấn Độ chủ yếu các mặt hàng như gạo, lúa mì, hạt dầu, sợi đay,
trà, mía, khoai tây, gia súc, trâu cừu, dê, gia cầm và cá (Đào Hồng Thuận, 2013) .
Do Ấn Độ và Việt Nam có những điểm tương đồng về nền sản xuất
nông nghiệp nên kinh nghiệm thực tiễn trong các hoạt động phát triển BHNN

×