Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

SKKN giáo dục đạo đức cho học sinh THCS thông qua giảng dạy các bộ môn văn hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.14 KB, 16 trang )







SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


ĐỀ TÀI:
"GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THCS THÔNG QUA
GIẢNG DẠY CÁC BỘ MÔN VĂN HOÁ"


I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1.1. Về mặt lý luận
Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục đạo
đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục 2005 đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục
phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân… ( Điều 23-Luật giáo dục).
1.2. Về mặt thực tiễn
Hội nhập kinh tế ngoài mặt tích cực nó còn làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta
cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc tế đưa vào nước
ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự do tư sản, làm xói mòn
những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay một số bộ phận thanh
thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch
lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát
triển, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu.


Đối với Việt Nam, trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, các giá trị đạo đức
trong truyền thống và hiện đại vẫn giữ một vai trò quan trọng. Công nghiệp hóa là một
quá trình tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội của đất
nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan
hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học - công
nghệ ngày càng hiện đại.
Trong quá trình đổi mới KT-XH của đất nước đã có nhiều thành công về mọi mặt,
đáng kể hơn hết là đời sống kinh tế và cơ sở hạ tầng của XH đã phát triển rõ nét. Những
thành công của giáo dục trong công cuộc đổi mới đã làm động lực quan trọng để thúc đẩy
sự phát triển bộ mặt của nền kinh tế - xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên, trong sự thành công của nền giáo dục Việt Nam hiện nay, vẫn còn một
bộ phận học sinh có hành vi lệch chuẩn về đạo đức như: Vi phạm luật giao thông, gây gỗ
đánh nhau, thiếu tôn sư trọng đạo, chây lười trong học tập, bỏ học, bỏ tiết, đi học trễ, nói
tục, vi phạm nội quy nhà trường, vi phạm tác phong nề nếp…Bên canh đó một số học
sinh lại có tư tưởng đạo đức lệch chuẩn như: Thích sống hưởng thụ, thích ăn chơi hoang
phí, coi nặng giá trị vật chất, lười lao động và học tập, thiếu ý thức rèn luyện, không dám
đấu tranh với cái sai…


Đối với đội ngũ giáo viên: Với tâm huyết và lòng nhiệt tình nhiều cán bộ - nhân
viên đã có những cố gắng để cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, là tấm gương sáng cho
học sinh về đạo đức. Tuy nhiên vẫn còn một số ít CB- GV chưa quan tâm đầy đủ đến
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, chưa có giải pháp thích hợp trong giáo dục đạo
đức và chưa thật sự là tấm gương sáng về đạo đức cho học sinh noi theo.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, để góp phần vào công tác giáo dục đạo đức
cho học sinh trong giai đoạn hiện nay, và qua thực tiễn công tác quản lý và giảng dạy học
sinh ở trường THCS, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra biện pháp về công tác
giáo giáo dục đạo đức cho học sinh THCS thông qua giảng dạy các bộ môn văn hoá là
một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người cán bộ quản lí giáo dục. Đó là lý do tại sao
tôi chọn đề tài này.

I. 2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng về việc giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường từ đó đề
xuất một số giải pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh tại
trường THCS Thị Trấn Đông Triều giúp công tác quản lí trường học hoạt động đúng mục
đích và có hiệu quả thúc đẩy và duy trì nề nếp của nhà trường THCS, giỳp cho cỏc em
trở thành những người tốt trong xó hội. .
I.3. Thời gian và địa điểm
áp dụng sáng kiến kinh nghiệm chỉ đạo công tác lồng ghép việc giáo dục đạo đức
học sinh trong quá trình giảng dạy các bộ môn văn hoá trong nhà trường THCS Thị Trấn
Đông Triều năm học 2009 -2010.
I.4. Đóng góp về mặt lí luận và thực tiễn
Trong nhà trường công tác giáo dục đạo đức cho học sinh là một công viêc cực kỳ
quan trọng. Bác Hồ của chúng ta đã nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó, có tài mà không có đức thì vô dụng”
Trong những bức thư, lời phát biểu của người khi đến thăm các trường cũng như
những lần làm việc với lãnh đạo Bộ giáo dục, với các cấp uỷ Đảng chính quyền về công
tác diệt dốt và nâng cao dân trí, Hồ chí Minh luôn kiên trì quan điểm: với người còn mù
chữ thì dạy cho biết chữ, đối với người đã biết chữ rồi thì phải dạy cho họ thường thức
khoa học, đạo đức công dân…nâng cao lòng yêu nước, trở thành người công dân hiểu
biết đúng đắn, quyền lợi bổn phận và trách nhiệm của mình. Nhiều lần người đề cập tới
việc dạy “đạo đức công dân”, một nội dung học không phải là xa lạ, cao siêu khó thực
hiện, mà nó nằm ngay bên trong và là nền tảng của đời sống hàng ngày


Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội, đạo đức một
mặt quy định bởi cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội ; mặt khác nó cũng tác động tích cực
trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội đó. Vì vậy, đạo đức có chức năng to lớn , tác
động theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển xã hội. Đạo đức có những chức năng
sau:
- Chức năng giáo dục.

- Chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, của cộng đồng và là công cụ tự điều
chỉnh mối quan hệ giữa người và người trong xã hội.
- Chức năng phản ánh.
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm
giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có những hành
vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao
động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân với chính mình.
Trong tất cả các mặt giáo dục đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì Hồ Chủ
Tịch đã nêu: “Dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức Cách
mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức Cách mạng thì có tài cũng vô
dụng ”
Giáo dục đạo đức còn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và trong mọi
tình huống chứ không phải chỉ được thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những
đòi hỏi cấp bách.
Trong nhà trường THCS, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc biệt coi
trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ được nâng lên
vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.
II. NỘI DUNG
II.1. TỔNG QUAN
Giáo dục đạo đức đòi hỏi không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ khái niệm tri thức đạo
đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình cảm, niềm tin,
hành động thực tế của học sinh.
Quá trình dạy học chủ yếu được tiến hành bằng các giờ học trên lớp; còn quá trình
giáo dục đạo đức không chỉ bó hẹp trong giờ lên lớp mà nó được thể hiện thông qua tất cả
các hoạt động có thể có trong nhà trường .


i vi hc sinh THCS, kt qu ca cụng tỏc giỏo dc o c vn cũn ph thuc rt
ln vo nhõn cỏch ngi thy, gng o c ca ngi thy s tỏc ng quan trng vo
vic hc tp, rốn luyn ca cỏc em .

giỏo dc o c cho hc sinh cú hiu qu, yu t tp th gi vai trũ ht sc quan
trng. Cụng tỏc giỏo dc o c cho hc sinh ch t kt qu tt khi nú cú s tỏc ng
ng thi ca cỏc lc lng giỏo dc: nh trng, gia ỡnh v xó hi.
Vic giỏo dc o c cho hc sinh ũi hi ngi thy phi nm vng cỏc c im
Tõm-Sinh-Lý la tui ca hc sinh, nm vng cỏ tớnh, hon cnh sng c th ca tng
em nh ra s tỏc ng thớch hp.
Giỏo dc o c l mt quỏ trỡnh lõu di, phc tp, ũi hi phi cú cụng phu, kiờn
trỡ, liờn tc v lp i lp li nhiu ln.
II.2. CHNG 2 : NI DUNG CA VN NGHIấN CU
2.1. Nghiên cứu lí luận chung của vấn đề nghiên cứu
o c l mt hỡnh thỏi ý thc xó hi bao gm nhng nguyờn tc v chun mc xó
hi, nh ú con ngi t giỏc iu chnh hnh vi cho phự hp vi li ớch, hnh phỳc ca
mỡnh v s tin b ca xó hi trong mi quan h ngi v ngi v con ngi vi t
nhiờn.
hỡnh thnh phm cht o c cho hc sinh, cụng tỏc giỏo dc o c núi chung
v ging dy cỏc mụn giỏo dc núi riờng trong nh trng phi thc hin cỏc nhim v
sau:
Hỡnh thnh cho hc sinh ý thc cỏc hnh vi ng x ca bn thõn phi phự hp vi li
ớch xó hi; giỳp hc sinh lnh hi c mt cỏch ỳng mc cỏc chun mc o c c
quy nh.
Bin kin thc o c thnh nim tin, nhu cu ca mi cỏ nhõn m bo cỏc
hnh vi cỏ nhõn c thc hin.
Bi dng tỡnh cm o c, tớnh tớch cc v bn vng, v cỏc phm cht ý chớ
m bo cho hnh vi luụn theo ỳng cỏc yờu cu o c.
Rốn luyn thúi quen hnh vi o c tr thnh bn tớnh t nhiờn ca mi cỏ nhõn
v duy trỡ lõu bn thúi quen ny.
Việc giáo dục đạo đức học sinh thông qua giảng dạy các bộ môn văn hoá to iu
kin cho hc sinh t nhn thc khoa hc, nh hng giỏ tr vt cht v tinh thn, tỏc
ng sõu rng n vic hỡnh thnh nhõn cỏch hc sinh, giỏo dc vn húa ng x ỳng
mc.



2.2. Thực trạng
* Thuận lợi
Tình hình giáo dục của địa phương những năm qua có nhiều chuyển biến tốt, phô
huynh học sinh quan tâm đến giáo dục.
Trường THCS Thị Trấn Đông Triều trong năm học 2009 -2010 trường có 12 lớp
với tổng số học sinh là 420 em. Tổng số giáo viên của trường là 26 đ/c đáp ứng đủ cho
việc phân công giảng dạy.
Đội ngũ cán bộ và giáo viên của trường đều đạt chuẩn đến trên chuẩn về chuyên
môn nghiệp vụ.
Chương trình Sách giáo khoa có nhiều đổi mới về mục tiêu, cấu trúc và nội dung, sự
đổi mới này rất thích hợp cho việc lồng ghép kiến thức giáo dục đạo đức cho học sinh
trong quá trình giảng dạy.
Được sự đồng tình của xã hội, nhất là các bậc Cha mẹ học sinh tích cực phối hợp
cùng với nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
*Khó khăn – tồn tại
Là địa bàn trung tâm của Huyện rất phức tạp về tệ nạn xã hội, tình hình thanh thiếu
niên lêu lỏng bên ngoài lôi kéo học sinh tham gia những trò chơi vô bổ, gây gổ đánh nhau
…. đã ảnh hưởng không ít đến đạo đức học sinh.
2.3. Một số giải pháp
2.3.1. Xây dựng trong nhà trường một môi trường thật tốt để giáo dục đạo đức cho học
sinh
Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho
học sinh là: cảnh quan sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự là “nhà trường”, tự đúng
nghĩa của nó là mang yếu tố giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định
hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của học sinh, khai thác có
chọn lọc những tác động tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã
hội.
2.3.2. Công tác chỉ đạo

Để giải quyết vấn đề đặt ra đó là : Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức cho học sinh thông qua giảng dạy các bộ môn văn hoá. Năm học 2009-2010 trường
chúng tôi đã thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây :


a. Ban giám hiệu nhà trường cần quán triệt tốt nội dung, ý nghĩa của việc giáo dục đạo
đức học sinh thông qua giảng dạy các môn học cho toàn thể cán bộ giáo viên trong nhà
trường .
Đạo đức, lối sống của học sinh được hình thành từ môi trường gia đình, nhà trường
và xã hội, trong đó môi trường giáo dục của nhà trường đóng vai trò quan trọng góp phần
to lớn đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Bản thân mỗi môn học đều chứa đựng các
yếu tố giáo dục đạo đức cho học sinh. Những bài học từ “ Năm điều Bác Hồ dạy” là hành
trang chuẩn mực về quá trình rèn luyện đạo đức cho học sinh cho đến khi các em bước
chân vào trường THCS . Chương trình của bộ môn giáo dục công dân từ lớp 6 đến lớp 9
đã đáp ứng yêu cầu về định hướng giáo dục cho học sinh trong độ tuổi vị thành niên. Các
môn khoa học xã hội như: Văn, sử, địa…đều chứa đựng các nội dung giáo dục đạo đức,
bên cạnh đó các môn khoa học tự nhiên cũng mang tính giáo dục. Giáo sư Chu Phạm
Ngọc Sơn từng nói “ Dạy hoá học là dạy lòng yêu nước”. Giáo dục đạo đức không chỉ là
những lời nói xuông theo kiểu “ đao to búa lớn” mà nó thấm vào từng trang sách bài học
qua những việc làm cụ thể và những hành động thiết thực: Thầy cô mẫu mực trước học
trò, người lớn tạo niềm tin cho lớp trẻ… đó chính là những tấm gương cho thế hệ học trò.
Giáo dục đạo đức thông qua các bộ môn văn hoá là vấn đề hết sức quan trọng bởi vì
nếu chỉ giáo viên chủ nhiệm coi trọng công tác giáo dục đạo đức học sinh thôi chưa đủ
mà mọi giáo viên bộ môn cũng phải tập trung gánh vác nhiệm vụ này. Trong các năm
học, Ban giám hiệu nên triển khai chuyên đề giáo dục đạo đức học sinh thông qua các
môn học để quán triệt đến toàn thể cán bộ giáo viên. Với chuyên đề này, trong quá trình
giảng dạy các giáo viên phải gắn việc dạy kiến thức trên lớp với việc giáo dục đạo đức
học sinh thông qua bộ môn. Mặt khác mỗi tiết học, các giáo viên cũng phải coi trọng xây
dựng nền nếp học cho bộ môn mình như thế nào đối với trên lớp? đối với ở nhà? Hiện
nay tình trạng giáo viên ít coi trọng việc xây dựng nền nếp học bộ môn còn khá phổ biến.

Muốn làm tốt công tác giáo dục đạo đức học sinh thông qua bộ môn thì người giáo viên
bộ môn phải tự học hỏi và có nhiều kiến thức tích hợp tuỳ từng bài mà gắn việc giáo dục
sao cho phù hợp và có hiệu quả cao nhất.
b. Chỉ đạo viẹc giảng dạy các bộ môn văn hoá phải chú ý đến phương pháp học tập và
phong cách học tập.
Nội dung này là rất quan trọng vì cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói:
“ Trong công tác giáo dục , điều quan trọng nhất là phải xây dựng được phương pháp
học tập và phong cách học tập cho học sinh “.
Mỗi tiết học giáo viên cần coi trọng xây dựng nề nếp học tập bộ môn mình như thế
nào ở trên lớp? để đạt hiệu quả cao nhất. Nề nếp học tập trên lớp chính là nền tảng góp


phần giáo dục đạo đức học sinh hàng ngày. Những tiết học không có nề nếp sẽ tạo điều
kiện cho học sinh vi phạm đạo đức và khó có thể là những tiết học khá - tốt được . Mỗi
môn học lại có cách học khác nhau và có phương pháp đặc trưng riêng. Chính vì vậy,
phương pháp giảng dạy của giáo viên phải luôn đổi mới thì mới nhằm cuốn hút được
học sinh.
Học sinh học toán, lí không phải chỉ để giải được những bài tập toán, lí mà để học
được cách tư duy vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Học văn không phải để viết được một
văn bản trơn tru, mạch lạc mà qua đó để biết cảm nhận cái đẹp, hướng đến những điều
lành mạnh trong cuộc sống, qua mỗi bài học người giáo viên phải gián tiếp giáo dục học
sinh biết làm theo lẽ phải, thay đổi bản thân theo hướng tích cực, muốn làm được những
điều này người giáo viên cần phải :
+ Thực hiện tốt quy chế chuyên môn, quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp, chủ
động nắm bắt từng đối tượng học sinh.
+ Quá trình giảng dạy cần chú ý đến sự tự nghiên cứu chiếm lĩnh kiến thức có phương
pháp tự học của học sinh, từ đó hình thành cho học sinh nhân cách tự chủ về trí tuệ, đạo
đức.
+ Quá trình giảng dạy của giáo viên cần giảm bớt các kiến thức hàn lâm tăng cường các
kiến thức vận dụng thực tiễn, liên hệ thực tế.

+ Điểm đặc biệt trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh là: Mỗi thày cô giáo phải là
một tấm gương thông qua các tác phong, hành vi, nề nếp… mẫu mực trong giao tiếp, ứng
xử, trong sinh hoạt lao động…
Để giúp các em học sinh xây dựng được cho mình phương pháp học tập và phong
cách học tập đúng đắn thì mỗi giáo viên trong trường nên đồng loạt hướng dẫn cho các
em phương pháp học bộ môn, phương pháp tự học, phương pháp học trên lớp, phương
pháp học ở nhà như thế nào cho dễ nhớ , dễ thuộc. Trong năm học này, trường chúng tôi
đã mở được 2 buổi hội thảo về xây dựng phương pháp học tập cho học sinh thông qua
các báo cáo, các tiểu phẩm do chính các em biên soạn đã tạo nên không khí phấn khởi và
góp phần không nhỏ trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
c. Cần giảm bớt áp lực thi cử, áp lực về thành tích và không nên phân biệt các bộ môn chính,
phụ.
Hiện nay áp lực thi cử, áp lực về thành tích khiến nhiều nhà trường, nhiều thầy cô
chỉ quan tâm tới việc cung cấp kiến thức khoa học thuần tuý, chú trọng vào các bộ môn
Toán, Văn, Lý, Hóa, Anh.


Với các môn học chứa đựng nhiều nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh như
môn: Giáo dục công dân thì phần lớn giáo viên - học sinh còn coi đây là môn học phụ.
Môn GDCD hiện nay về bản chất cũng là môn khoa học thiên về lý thuyết và hoàn
toàn bình đẳng với các môn khoa học khác. Chương trình tuy mang tên là GDCD nhưng
nội dung liên quan đến giáo dục đạo đức không phải là chủ đạo mà môn học còn phải
ghép thêm các nhiệm vụ khác như: Giáo dục pháp luật, quyền trẻ em…mà số tiết cho bộ
môn này không nhiều chỉ có 1tiết/ tuần.
Đã từ lâu môn GDCD bị xem là “môn phụ” đây là một tâm lý phổ bién trong đội
ngũ giáo viên, trong phụ huynh và học sinh bởi lẽ: Không ai đánh giá giáo viên dạy môn
GDCD là “giỏi” hay “không giỏi”, môn này không tổ chức thi học sinh giỏi và chưa bao
giờ môn GDCD được chọn thi tốt nghiệp ở cấp III, phần lớn nhiều trường không có giáo
viên đào tạo chính quy môn này vì vậy phải bố trí giáo viên chéo ban đào tạo dạy GDCD.
Phần lớn học sinh học bộ môn này với tinh thần uể oải, đối phó không lắng nghe

bài học, ít phát biểu. Giáo viên thì không có hứng thú say mê, không học hỏi trau dồi
chuyên môn nên hiện nay trong các nhà trường môn học GDCD không có những tác
động tích cực mạnh mẽ đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Vì vậy, theo tôi cần phải thay đổi cách nhìn nhận đối với các môn học. Nhà trường
phải tuyên truyền sâu rộng trong giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh và quán triệt tốt
việc dạy học bộ môn GDCD và một số bộ môn khác sao cho có hiệu quả hơn.
d. Cần xây dựng tốt mối quan hệ thầy trò trong một tiết học.
Trong mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh đây là mối quan hệ tương tác, thúc
đẩy nhau cùng đi đến cái đích của tri thức. Do vậy trong vấn đề giáo dục đào tạo: yêu cầu
giáo viên cần nắm chắc được các điểm mạnh của từng học sinh trong lớp và từng điểm
yếu của các học sinh đó, từ đó tác động tích cực bằng các biện pháp hỗ trợ, kích thích
thúc đẩy những mặt mạnh và loại bỏ, triệt tiêu những mặt yếu để học sinh tự tin hơn và
có hứng thú trong học tập.
Để chấm dứt được yếu tố tự ti, ngại va chạm với các câu hỏi, để học sinh có đủ tự
tin và kỹ năng sẵn sàng tiếp nhận các câu hỏi mà giáo viên đặt ra cần làm tốt hai vấn đề
sau trong việc tiếp cận giáo dục tạo mối quan hệ hai chiều giữa thày và trò là:
Thứ nhất: Phải thực hiện tốt biện pháp cá thể hoá dạy học đối với người giảng dạy.
Đó là cách thức tổ chức theo hướng lựa chọn nội dung, phương pháp yêu cầu tiến
độ sao cho phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý, trình độ nhận thức năng lực tiếp thu
của học sinh, khó có thể thực hiện triệt để vấn đề cá thể hoá dạy học đến từng học sinh
mà chỉ có thể chỉ hướng tới từng nhóm học sinh: “Yếu kém”, “Trung bình” và “Khá,


giỏi”, lấy nhóm trung bình để thực hiện các yêu cầu và tiến độ của chương trình bắt buộc,
còn các nhóm khác có thể có thêm các hình thức bổ sung bằng các giờ phụ đạo, ôn
tập…Tuy nhiên quá trình dạy học cần đa dạng hoá các loại bài tập có tính chất phân hoá,
bài tập liên hệ thực tế có tính giáo dục phù hợp với nhiều nhóm học sinh, giúp học sinh
vừa hoà thành yêu cầu nội dung tối thiểu của chương trình vừa có thể phát huy hết năng
lực sở trường và lồng ghép được nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh.
Thứ hai: Thực hiện tốt việc cá nhân hoá giáo dục.

Tư tưởng chủ đạo của cá nhân hoá giáo dục là sự phát triển đa dạng về nhân cách
của từng học sinh dựa trên năng lực, năng khiếu và nhu cầu và hứng thú cá nhân của học
sinh. Quá trình dạy học người thầy phải tôn trọng nhân cách cá tính của từng học sinh,
đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa tập thể với từng cá nhân, nâng cao chất lượng về cách
tiếp cận giáo dục đạo đức.
e. Quá trình giảng dạy các bộ môn văn hoá cần coi trọng giáo dục đạo đức thông qua giáo
dục các kỹ năng cho học sinh.
Thứ nhất: Rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh, kỹ năng nói đọc, viết.
Khi dạy học người giáo viên cần chú ý nói rõ ràng, phát âm chuẩn, cần biết chỗ
nào trọng tâm để nhấn mạnh, nói chậm, chỗ nào không cần thiết phải lướt nhanh để kịp
thời gian.
Khi dạy học cần theo dõi xem học sinh có chú ý lắng nghe, có hiểu vấn đề mình
nói không, giọng mình nói học sinh có nghe rõ không, mặt khác giáo viên cần lắng nghe
học sinh nói để ứng xử kịp thời những tình huống thường xảy ra ngoài dự kiến, kế hoạch
của bài giảng.
Khi nói phải biết kết hợp điệu bộ và nét mặt một cách hài hoà để tạo ra một không
khí hấp dẫn lôi cuốn sự chú ý của học sinh.
Cần tập luyện cho học sinh nói rõ ràng, đúng từ, đúng câu, phát âm chuẩn: Giáo
viên cần quan tâm mỗi học sinh phát biểu và lắng nghe học sinh phát biểu, chú ý về cách
phát âm, cách sử dụng câu từ trong khi trả lời.
Cách trình bày một nội dung dù nói hay viết của học sinh trong mỗi tiết dạy phải
được giáo viên bộ môn thực sự chú ý. Mỗi môn thường có cách học và trình bày riêng
theo đặc trưng của từng bộ môn. Trong mỗi tiết học, giáo viên phải chú ý đến rèn các đức
tính như : Tính cẩn thận, tính chính xác, tính khoa học, tính cần cù, tính sáng tạo, tính
kiên trì v.v cho học sinh vì những đức tính quý báu này chính là nền tảng đạo đức của
con người mới XHCN.


Thứ 2: Rèn cho học sinh kỹ năng ứng xử tình huống trong mỗi tiết học và trong
cuộc sống.

Để nâng cao chất lượng giao tiếp nói chung và giao tiếp trong hoạt động dạy và học
nói riêng thì mỗi giáo viên phải coi trọng việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng xử lý tình
huống. Kỹ năng xử lý tình huống là vấn đề rất quan trọng đối với cả thầy và trò và nó là
nhân tố tạo nên nhân cách đẹp trong mỗi con người.
Người giáo viên phải bình tĩnh xử lý các tình huống sư phạm xảy ra trên lớp không
nên quá nóng vội, bực tức trước những tình huống xảy ra trong giờ học để nêu gương.
Bởi lẽ, những kinh nghiệm trong giao tiếp và cách ứng xử, tình huống của thầy cô sẽ là
những bài học về đạo đức vô cùng quý giá đối với học trò, đồng thời cũng phải nhắc học
sinh chú ý cách xử lý khi gặp tình huống đó là :
+ Cần bình tĩnh tìm hiểu tình huống
+ Nghiên cứu tìm phương án giải quyết tình huống hợp lý
+ Có quyết định giải quyết tình huống
+ Rút kinh nghiệm sau khi giải quyết tình huống
Thứ 3 : Giáo dục cho học sinh những kỹ năng sống.
Trong các giờ học người giáo viên cần quan tâm rèn luyện cho học sinh kỹ năng
ứng xử thân thiện trong mọi tình huống, các thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm,
giáo dục cho các em về trách nhiệm công dân đối với gia đình và xã hội, biết yêu thương,
tinh thần tương thân tương ái và tạo cho học sinh ý thức rèn luyện sức khoẻ, kỹ năng
phòng chống các tai nạn, tệ nạn muốn làm được điều này người giáo viên phải mẫu
mực, là tấm gương sáng về đạo đức và tự học. Không có giáo viên xúc phạm và đối xử
thô bạo với học sinh, cần phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường để
phát động các phong trào thi đua: Dạy tốt, học tốt và nâng cao nhận thức của cán bộ giáo
viên, công nhân viên để họ có hành động thiết thực cùng chung sức hoàn thành nhiệm vụ
của nhà trường. Xây dựng tốt mối quan hệ giữa thủ trưởng với nhân viên, giữa thầy giáo
với thầy giáo, giữa thầy giáo với học sinh trong mọi tiết học, giữa thầy giáo với phụ
huynh học sinh, tạo một môi trường sư phạm lành mạnh, một tập thể đoàn kết gắn bó.
Tích cực hưởng ứng phong trào: ‘‘Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực’’.
Đây là một hoạt động lớn có tác động lớn trong việc giáo dục đạo đức góp phần bồi
dưỡng tư tưởng, lối sống lành mạnh, biết tránh cái ác, cái xấu vươn tới cái đẹp, giúp học
sinh ngày càng hoàn thiện về nhân cách đạo đức.

g. Kết hợp tốt việc giáo dục đạo đức qua các môn văn hoá với giáo dục pháp luật và giáo
dục truyền thống.


Chúng ta đã biết, giáo dục đạo đức cho học sinh qua các môn văn hoá là việc làm
thường xuyên của mỗi giáo viên thông qua chương trình dạy học. Giáo dục pháp luật và
giáo dục truyền thống có nhiều nội dung đã được lồng ghép vào các môn GDCD, sử, địa
vv song cũng có nhiều nội dung được thực hiện theo chủ điểm hàng tháng, qua các
chuyên đề, qua hoạt động ngoại khoá Nếu nhà trường, các ban ngành đoàn thể trong
và ngoài nhà trường có kế hoạch chỉ đạo kết hợp tốt giữa giáo dục các môn văn hoá với
giáo dục pháp luật và giáo dục truyền thống llòng ghép qua ccá môn : Văn, Sử, địa,
GDCD, Sinh học thì sẽ có tác dụng và đem lại hiệu quả cao hơn trong việc giáo dục
đạo đức cho học sinh.
2.3.3. Chỉ đạo các nội dung giáo dục đạo đức học sinh được lồng ghép vào quá trình
giảng dạy các môn học.

a. Gi¸o dục đạo đức gia đ×nh.
Gia đình là tế bào của xã hội là nơi con người sinh ra và lớn lên, là môi trường có
tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển của con người về mọi mặt, vật chất,
tinh thần và đặc biệt là đạo đức, gia đình là tổ chức lao động để nuôi dưỡng chăm sóc sức
khỏe các thành viên, đồng thời giáo dục xã hội gắn con người hòa nhập vào cuộc sống
cộng đồng, dân tộc, gia đình cũng là tổ ấm đem lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân. Từ khi lọt
lòng cho đến suốt cuộc đời mỗi cá nhân đều tìm thấy ở gia đình sự đùm bọc về vật chất
và tình thần có mang tâm lí đặc thù mà ở đó quan hệ máu mủ, quan hệ ruột thịt và quan
hệ tình cảm, trách nhiệm để gắn bó các thành viên bằng những sợi dây liên kết thường
xuyên lâu dài, suốt đời, dù có sự chia cách cũng không phá nổi những quan hệ đó.
Đạo đức, tình cảm gia đình biểu hiện chủ yếu trong mối quan hệ gia đình, ông, bà, vợ
chồng, con cái, anh chị em ruột thịt . Kiến thức này được lồng ghép chủ yếu qua việc
giảng dạy các bộ môn: Văn, GDCD, Sinh học.
Môn văn: Bài : Mẹ tôi, Những câu hát về tình cảm gia đình ( ca dao), Trong lòng mẹ,

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ….
Môn GDCD: Bài : Đoàn kết tương trợ, Xây dựng gia đình văn hoá…
Môn Sinh: Bài: Đông máu và nguyên tắc truyền máu, Cơ chế xác định giới tính…
b.Giáo dục tình bạn
Tình bạn trên cơ sở tự nguyện với nhau trên cơ sở hợp nhau về tính tình, giống nhau
về sở thích, xu hướng, nhân cách. Tình bạn là một nhu cầu của con người trong giao tiếp
xã hội, từ thuở ấu thơ mới bước chân ra khỏi gia đình cho đến suốt cả cuộc đời.


Trong giáo dục đạo đức tình bạn được hướng xây dựng những tình bạn chân thành,
tốt đẹp, không đối lập với lợi ích tập thể, đoàn kết gắn bó và phong phú hơn. Khi kết bạn
còn phải tìm hiểu, lựa chọn, cân nhắc trên những nguyên tắc đạo đức nhất định, có người
bạn chân chính giúp mình ngày càng nâng cao được phẩm chất, nhân cách, nội dung GD
này có thể lồng ghép qua việc giảng dạy ở nhiều môn học
VD: Môn Văn: Cuộc chia tay của những con búp bê, Bạn đến chơi nhà
Môn GDCD: Bài :Xây dựng tình bạn trong sáng lành mạnh, Đoàn kết tương trợ
c.Giáo dục tình yêu
Tình yêu ở lứa tuổi phổ thông, cần tập trung vào học tập, tự rèn luyện, tự bồi dưỡng
đạo đức để chuẩn bị bước vào đời, là thời kì các em được mở rộng giao tiếp. Học sinh ở
lứa tuổi này cần có sự kinh nghiệm thông qua giáo dục gia đình và xã hội về nhiều mặt
để tránh những sai phạm nông cạn, cẩu thả, diễu cợt trong quan hệ. Đạo đức tình cảm
chín chắn, được giáo dục chu đáo thì tình yêu của họ càng đẹp đẽ và cao thượng.
Tình yêu ở tuổi học sinh phổ thông thì không chỉ có chú ý đến cảm tính tâm lý của
lứa tuổi mà còn chú ý nhiều trên tình yêu gắn liền với trách nhiệm yêu thương anh, chị,
em, ba, mẹ, ông bà, dòng họ, thầy cô giáo, yêu đồng loại quê hương và lòng yêu nước,
yêu đồng bào.
VD: Môn Văn: Giáo dục tình yêu quê hương qua bài: Quê hương của Tế Hanh, Lặng
lẽ sa pa, Tiếng gà trưa….
Môn GDCD: Bảo vệ di sản văn hoá, yêu thiên nhiên, sống hoà hợp với thiên
nhiên….

Môn Văn: Giáo dục tình yêu đôi lứa qua bài: Truyện kiều, Lục Văn Tiên…
d.Giáo dục truyền thống đạo đức tốt đẹp của xã hội
- Tôn trọng lao động
Lao động chân tay và trí óc ở những người khác nhau đều là phương thức để đạt
kết quả và đều được đánh giá cao qua lao động giáo dục học sinh tính cần cù, chịu khó,
sáng tạo đã được coi trọng đó chính là yếu tố quan trọng của đạo đức, nhân cách và nó đã
trở thành truyền thống tốt đẹp không thể thiếu.
VD: Môn công nghệ, Sinh học, Hoá học, Vật lí….
- Yêu nước
Có thể nói rằng cội nguồn của lòng yêu nước là sự gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn
của mình, nơi ghi nhận những dấu ấn vui buồn, tươi mát của tuổi thơ đó là quê hương.


Mỗi con người Việt Nam đều tự hào về quê hương của mình: cây đa, bến nước, mái đình,
mưa dầm dãi nắng là sâu kín tận đáy tâm hồn, là ngôi nhà của thời thơ ấu.
Lòng yêu nước bao gồm cả tình yêu gia đình, tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em, con
cái, lòng yêu nước còn thể hịên những yêu mến, tự hào, cứu dân, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng đất nước lợi ích của dân tộc và nhân loại thế giới.
Kính trọng thầy cô giáo đã và đang dạy mình hiện tại, yêu thương và trọng danh dự
uy tín ngôi trường, trân trọng cơ sở văn hóa, nghĩa trang, di tích lịch sử Nội dung được
giáo dục chủ yếu qua việc giảng dạy các môn Văn , Sử, GDCD, Địa lí, Hoá học, Sinh
học, Toán, Lí…
II.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
II.3.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.1.Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Trên cơ sở những kiến thức về tâm lý, giáo dục học và những quan điểm đường lối
của Đảng, các văn bản của Bộ giáo dục và Đào tạo về đánh giá xếp loại, khen thưởng và
kỷ luật học sinh.
3.1.2.Phương pháp quan sát
Nhìn nhận lại thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh của trường THCS

Thị trấn Đông Triều trong năm học.
Đưa ra một số biện pháp về việc thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
trong quá trình giảng dạy các bộ môn văn hoá của trường trong giai đoạn hiện nay
3.1.3.Phương phỏp vấn đáp
Trao đổi kinh nghiệm với các trường bạn về cách thức quản lí chỉ đạo lồng ghép
giáo dục đạo đức học sinh thông qua giảng dạy các bộ môn văn hoá.
3.1.4. Phương pháp thực nghiệm
áp dụng thực nghiệm tại trường THCS Thị Trấn Đông Triều.
II.3.2. Kết quả nghiên cứu
Với quá trình chỉ đạo của BGH nhà trường cùng với sự cố gắng nỗ lực của các
thầy cô giáo trong nhà trường, chất lượng giáo dục đạo đức học sinh đã từng bước được
nâng lên đáng kể.
Về học lực: Học sinh đạt học sinh khỏ, giỏi tăng hơn so với kỳ năm học truớc là
3%. Học sinh yếu thấp hơn 2 % và khụng cú học sinh xếp loại kộm.


Về hạnh kiểm: ( Tốt: 344 em =82% , Khá : 65 em = 15,5% , TB : 9 = 2,1% , yếu:
02 = 0.4%, Kém : 0 ). Số học sinh có hạnh kiểm tốt tăng lên, số học sinh có hạnh kiểm TB
và Yếu giảm so với năm học trước.
Toàn trường không có học sinh vi phạm lớn về đạo đức và không mắc tệ nạn xã
hội.
III. Phần kết luận - kiến nghị
III.1. Kết luận
Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, nó cao quý vì trước
hết người thày qua từng tiết dạy học, đều cố gắng cung cấp cho học sinh vốn tri thức cần
thiết cho cuộc sống. Nếu các thày cô giáo chúng ta cung cấp cho thế hệ trẻ một trình độ
học vấn phổ thông vững chắc thì chắc chắn trình độ học vấn đó sẽ giúp ích cho sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó không ngừng trau dồi nâng cao năng lực chuyên
môn là nhiệm vụ mà mỗi giáo viên cần phấn đấu suốt đời.
Lao động của nhà giáo, là một loại lao động khoa học, phức tạp và tinh tế, đầy

trách nhiệm và vinh quang. Bởi vì cùng với việc dạy chữ nghề thày giáo còn góp phần
đào tạo nên những con người - vốn quý của dân tộc. Người thầy, người cô phải hết lòng
vì học sinh, muốn có hiệu quả giáo dục cao người giáo viên phải làm việc với tất cả tấm
lòng mình, vừa nguyên tắc nhưng cũng vừa có tình cảm.
Đồng chí Lê Duẩn có nói : ‘‘Trong công việc của các kỹ sư thì công việc của người
kỹ sư tâm hồn là khó nhất’’. Nó đòi hỏi người thầy giáo phải dành một quỹ thời gian
không nhỏ trong việc giáo dục học sinh và phải làm việc với tất cả lương tâm, trách
nhiệm của một nhà mô phạm.
Bởi vì đây là một nghề mà kết quả giáo dục không thấy ngay được, nhất là cái kết
quả giáo dục đạo đức. Về mặt kiến thức có thể sau một thời gian giảng dạy ta đo được
các kết quả học tập của học sinh, nhưng về mặt giáo dục đạo đức có khi phải qua một
thời gian dài - Có khi học sinh đã ra trường ta mới thấy rõ kết quả của việc giáo dục. Có
khi trước mặt học sinh ‘‘phản ứng’’ với giáo viên nhưng sau này phạm sai lầm suy nghĩ
lại mới thấm thía lời dạy của thầy cô. Vì vậy nghề giáo viên là nghề ‘‘vừa gần, vừa xa,
vừa cụ thể, vừa trừu tượng’’ nghĩa là các kết quả giáo dục thể hiện ở con người học sinh
có khi thấy ngay cụ thể, có khi không nhìn thấy ngay được, vì vậy đừng nên chán nản
trong công tác giáo dục học sinh.
Người thầy giáo dạy người chủ yếu bằng bản thân con người mình. Mỗi thầy cô
giáo là một tấm gương cho học sinh noi theo. Nhân cách của nhà giáo rất quan trọng, vì
nhà giáo dạy người chủ yếu bằng nhân cách của mình. Nhân cách ở đây không chỉ là


cách sống giản dị, mực thước mà nhân cách toàn diện của nhà giáo đòi hỏi người thầy
phải nắm vững các kiến thức khoa học về bộ môn, phải có phương pháp giảng dạy, giáo
dục tốt và đặc biệt là có cái phẩm chất đạo đức để làm gương cho học sinh.
Dạy người phải yêu người . Tôi nghĩ đã chọn cho mình nghề dạy học thì đòi hỏi
người giáo viên phải tâm huyết với nghề, phải khéo léo trong xử lý tình huống, kiên trì
trong giáo dục học sinh. Có như thế thì chúng ta mới có thể hoàn thành được công việc
của người ‘‘kỹ sư tâm hồn’’ - Đó là nghề : Trồng người.
Quá trình chỉ đạo công tác giảng dạy trong mỗi nhà trường, ban giám hiệu nhà

trường cần quan tâm chỉ đạo đội ngũ chú ý ‘‘dạy chữ’’ mà không lơ là việc ‘‘dạy người’’.
Việc dạy cho các em về đạo đức, lối sống, cách ứng xử, không chỉ bằng những bài học có
tính sách vở hàn lâm mà quan trọng hơn là qua hành vi, lời nói, cách ứng xử trong muôn
mặt đời thường.
Trước thực trạng đạo đức hiện nay của học sinh trường THCS có chiều hướng giảm
sút nghiêm trọng, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là đòi hỏi cấp bách của xã hội để
xây dựng hoàn thiện những giá trị cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế tri thức.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về giáo dục đạo đức cho học sinh đã giúp cho
đội ngũ giáo viên và CBQL xác định đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức
học sinh ở nhà trường để có kế hoạch hoàn chỉnh, có sự quan tâm đúng mực trong việc
giáo dục học sinh, từ đó giúp cho tập thể sư phạm của trường thấy được nhiệm vụ quan
trọng này để ngoài việc dạy chữ cho tốt còn phải lưu tâm, hết lòng giáo dục các em phát
triển toàn diện cả tài lẫn đức.
Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu chỉ là một trường
THCS vùng biên giới nên có nhiều vấn đề chưa được phân tích một cách đầy đủ, các biện
pháp đưa ra chưa có tính khả thi cao, nhưng ít nhiều nó cũng giúp cho chúng ta thấy được
thực trạng của đạo đức học sinh hiện nay, giúp cho chúng ta định hướng lại một số việc
cần phải làm trong thời gian sắp tới để góp phần thành công vào công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh./.
III.2. KIẾN NGHỊ :
Các trường cần chỉ đạo việc lồng ghép giáo dục đạo đức học sinh trong quá trình
giảng dạy các bộ môn văn hoá đưới hình thức tổ chức các chuyên đề theo trường, cụm
trường.

×