Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Những hạn chế và kiến nghị liên quan đến việc ban hành các văn bản pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.78 KB, 11 trang )

Lời nói đầu
Trong quá trình đổi mới đất nớc, theo Hiến pháp 1992 thể chế hành chính
của các cơ quan Nhà nớc đã đợc thay đổi khá nhiều phù hợp với việc quản lý xã
hội, đáp ứng đợc công cuộc xây dựng đất nớc XHCN. Cơ cấu quản lý hành
chính đã đợc điều chỉnh, giảm bớt sự cồng kềnh giảm thiểu sự quan liêu để tiến
tới sự một xã hội công bằng văn minh và phát triển. Việc xây dựng cơ cấu của
các cơ quan hành chính mới không làm thay đổi hoặc suy giảm quyền lực và
nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nớc. Mặt khác địa vị pháp lý của cơ quan
đợc đề cao và tăng cờng kiểm tra giám sát đối với từng bộ phận, hiểu đợc đờng
lối chỉ đạo hợp lý của Nhà nớc và vai trò tích cực của các cơ quan quản lý Nhà
nớc. Chính vì vậy, quyền và nghĩa vụ đây chính là địa vị pháp lý của cơ quan
quản lý Nhà nớc. Mặt khác, địa vị pháp lý của các cơ quan đợc đề cao và tăng
cờng kiểm tra giám sát đối với từng bộ phận, từng lĩnh vực xã hội phát triển
không thể thiếu đợc đờng lối chỉ đạo hợp lý của Nhà nớc và vai trò tích cực của
các cơ quan trong Bộ máy hành chính Nhà nớc và điạ vị đó đợc thể hiện trong
việc ban hành văn bản vi phạm pháp luật.
Mong thày cô, bạn bè đóng góp ý kiến để tiểu luận đợc đầy đủ và hoàn
thiện hơn.
I. Khái niệm và đặc điểm địa vị pháp lý của các cơ
quan trong bộ máy hành chính nhà nớc.
1. Khái niệm:
Bộ máy quản lý Nhà nớc theo hiến pháp 1980 cũng nh hiến pháp 1992 là
một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nớc. Nh vậy, đứng về mặt hệ thống, các cơ
quan trong bộ máy nhà nớc ta gồm:
- Cơ quan quyền lực
- Cơ quan quản lý
- Cơ quan kiểm sát
- Cơ quan xét xử
Trong đó, các cơ quan quản lý Nhà nớc là cơ quan chấp hành của cơ quan
quyền lực, đợc tổ chức thành một hệ thống chặt chẽ từ Trung ơng đến địa phơng
và cơ sở đẻ trực tiếp quản lý, điều hành các mặt hoạt động của đời sống xã hội.


Nh vậy, trong mối quan hệ và mối phân định với hoạt động của cơ quan quyền
lực, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử thì khái niệm quản lý Nhà nớc (hoạt động
chấp hành và điều hành, hoạt động hành pháp). Vì vậy, chúng là chủ thể cơ bản
của luật hành chính.
2. Đặc điểm địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nớc.
Các cơ quan hành chính Nhà nớc là các cơ quan chủ thể chủ yếu của quan
hệ pháp luật hành chính. Là một bộ phận hợp thành của bộ máy Nhà nớc, cơ
quan quản lý Nhà nớc có những đặc điểm chung của cơ Nhà nớc đó là:
a. Là một tổ chức (tập hợp những con ngời)
b. Có tính độc lập tơng đối về tổ chức - cơ cấu:
Có cơ cấu bộ máy và quan hệ công tác bên trong của cơ quan đợc quy
định trớc hết bằng nhiệm vụ, chức năng thể hiện vai trò độc lập của nó, nhng
đồng thời nó có những quan hệ đa dạng về tổ chức và hoạt động với cơ quan
khác trong hệ thống bộ máy quản lý và bộ máy Nhà nớc nói chung mà quan hệ
đó đợc quy định chính bởi vị trí của từng cơ quan trong hệ thống chung đó.
c. Có thẩm quyền do pháp luật quy định, đó là tổng thể những quyền,
nhiệm vụ chung và những quyền hạn cụ thể mang tính quyền lực pháp lý mà
Nhà nớc trao cho để thực hiện nhiệm vụ chức năng Nhà nớc. Các quyền hạn đó
- yếu tố quan trọng nhất của thẩm quyền, có hiệu lực "ra bên ngoài" nghĩa là có
hiệu lực bắt buộc đối với các đối tợng ngoài phạm vi cơ quan. Sở dĩ nh vậy vì cơ
quan nhà nớc nhân dân Nhà nớc thực hiện quyền lực nhân dân vì lợi ích của
Nhà nớc. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt cơ quan Nhà nớc với các cơ
quan, tổ chức không phải của Nhà nớc, vì những cơ quan tổ chức đó không có
thẩm quyền (ví dụ: cơ quan tổ chức xã hội, tổ chức t nhân)
Thẩm quyền của các cơ quan Nhà nớc có những giới hạn về không gian
(lãnh thổ) về thời gian có hiệu lực, về đối tợng chịu sự tác động của nó. Đó là
những giới hạn phap lý vì đợc quy định trong luật pháp.
Trong các yếu tố của thẩm quyền cơ quan Nhà nớc thì quyền quan trọng
nhất là quyền ban hành quyết định pháp luật. Mỗi cơ quan có hình thức và ph-
ơng pháp hoạt động riêng do pháp luật quy định, kể cả việc áp dụng các biện

pháp hoạt động riêng do pháp luật quy định, kể cả việc áp dụng các biện pháp
cỡng chế Nhà nớc. Quyền thực hiện các hình thức và phơng pháp hoạt động đó
cũng là yếu tố quan trọng của thẩm quyền cơ quan Nhà nơc.
Các cơ quan Nhà nớc chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình
và trong phạm vi đó nó hoạt động độc lập, chủ động và sáng tạo, thẩm quyền
của cơ quan Nhà nớc là nghĩa vụ không phụ thuộc vào ý muốn, sự xét đoán
riêng của bản thân cơ quan cũng nh của bất cứ ngời lãnh đạo nào.
Ngoài các đặc điểm chung của cơ quan Nhà nớc, cơ quan quản lý Nhà n-
ớc có đặc điểm riêng, quyết định bởi chính bản chất của hoạt động chấp hành và
điều hành. Thông qua các đặc điểm riêng này mà chúng ta phân biệt rõ cơ quan
quản lý Nhà nớc với các cơ quan Nhà nớc khác (cơ quan quyền lực, viện kiểm
sát, toà án).
Các đặc điểm riêng cơ bản của địa vị pháp lý của cơ quan quản lý Nhà n-
ớc là:
1. Nhìn tổng thể, bộ máy hành chính Nhà nớc là bộ máy chấp hành của
các cơ quan quyền lực Nhà nớc. Các cơ quan đầu não của bộ máy hành chính
do các cơ quan quyền lực Nhà nớc thành lập (Chính phủ, Bộ và các cơ quan, cơ
quan ngang Bộ và các cơ quan khác thuộc Chính phủ, UBND các cấp). Do đó,
chúng trực thuộc, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền
lực Nhà nớc tơng ứng và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trớc cơ quan đó. Có
những cơ quan quản lý Nhà nớc không do các cơ quan quyền lực Nhà nớc trực
tiếp lập ra mà do các cơ quan quản lý cấp trên thành lập, nhng về nguyên tắc
cũng chịu sự giám sát, lãnh đạo của các cơ quan quyền lực tơng ứng.
2. Các cơ quan quản lý Nhà nớc chuyên thực hiện hoạt động chấp hành và
điều hành tức là hoạt động mang tính dới luật - hoạt động tiến hành trên cơ sở
và để thi hành luật. Đó là hình thức chủ yếu để đa các đạo luật và các văn bản
pháp luật khác của các cơ quan quyền lực Nhà nớc vào thực tiễn cuộc sống.
3. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý Nhà nớc chỉ giới hạn trong phạm
vi hoạt động chấp hành và điều hành, chủ yếu đợc quy định trong các văn bản
pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nớc hoặc các điều lệ, quy chế.

Những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự mà cơ quan quản lý
Nhà nớc có thể tham gia tơng tự nh tất cả các chủ thể khác của pháp luật dân sự
không phải là yếu tố của thẩm quyền của các cơ quan Nhà nớc. Trong phạm vi
thẩm quyền của mình, của các cơ quan quản lý Nhà nớc có trách nhiệm hoạt
động thờng xuyên hàng ngày một cách chủ động và sáng tạo để đáp ứng nhu
cầu diễn biến nhanh chóng, phức tạp và đa dạng của hoạt động quản lý.
4. Tất cả các cơ quan quản lý Nhà nớc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
(quan hệ trực thuộc trên - dới, trực thuộc ngang, quan hệ chéo) tạo thành một hệ
thống thống nhất có trung tâm chỉ đạo là Chính phủ đảm bảo thực hiện nhiệm
vụ chấp hành và điều hành một cách mau lẹ, nhất quán và hiệu quả.
Nhng hệ thống quản lý bộ máy rất phức tạp, nhiều về số lợng cơ quan ở
tất cả các cấp từ trung ơng đến cơ sở cũng nh sô nhiều về số biên chế. Số lợng
cơ quan và biên chế này bằng gấp nhiều lần số lợng cơ quan và biên chế của tất
cả các cơ quan Nhà nớc khác cộng lại. Hạt nhân của các cơ quan quản lý Nhà
nớc là công chức.
5. Hoạt động chấp hành và điều hành của bộ máy quản lý hoàn toàn khác
với hoạt động kiểm sát và hoạt động xét xử của toà án. Tuy nhiên, chúng có
quan hệ chặt chẽ với nhau.
Bộ máy quản lý, toà án viện kiểm sát là những hệ thống độc lập với nhau,
không có quan hệ trực thuộc. Nhng hoạt động của các cơ quan quản lý chịu sự
giám sát của viện kiểm sát (trừ hoạt động của Chính phủ) và toà án. Các cơ
quan quản lý Nhà nớc có trách nhiệm xem xét và trả lời các yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị của viện kiểm sát và toà án trong thời hạn do luật định.
Ngợc lại, các văn bản pháp luật của các cơ quan Nhà nớc là một trong
những căn cứ để toà án và viện kiểm sát thực hiện hoạt động kiểm sát và xét xử.
Một số vấn đề tổ chức nội bộ của Toá án và Viện kiểm sát so văieọt nam bản
pháp luật của các cơ quan quản lý điều chỉnh (ví dụ: về chính sách cán bộ, về
quản lý cán bộ của toà án)
Bộ máy quản lý đợc giao nhiệm vụ quản lý các ngành và lĩnh vực quản lý
hành chính - chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội chủ yếu bao gồm rất nhiều các

cơ quan, các tổ chức, xí nghiệp trực thuộc và chịu sự lãnh đạo của nó. Toá án và
viện kiểm sát nhân dân không có các đối tợng quản lý này.
II. Địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý với việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Nh phần trên đã trình bày trong các yếu tố của thẩm quyền cơ quan Nhà
nớc thì quan trọng nhất là quyền ban hành quyết định pháp luật. Đối với các cơ
quan quản lý Nhà nớc thì việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực
hiện hoạt động chấp hành và điều hành. Những văn bản này đều có những đặc
điểm của văn bản Nhà nớc nói chung, đặc biệt là tính chất pháp lý của nó tuy
nhiên là những văn bản hành chính Nhà nớc bao giờ cũng là những văn bản dới
luật đợc ban hành trên cơ sở để chấp hành Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các
Nghị quyết của các cơ quan quyền lực.

×