Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

bài tập tình huống vụ án dân sự về TRANH CHẤP QUYỀN GIÁM hộ tại xã LIÊN NINH, HUYỆN THANH TRÌ, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.07 KB, 17 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC

TIỂU LUẬN
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG:
VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ TRANH CHẤP QUYỀN GIÁM HỘ TẠI
XÃ LIÊN NINH, HUYỆN THANH TRÌ, HÀ NỘI

Học viên: LÊ DUY
Đơn vị công tác: Trung Tâm Phát Triển Quỹ Đất
huyện Thanh Trì
Lớp: Chuyên Viên
Khóa: 22
Hà Nội, tháng 12-2014
A - ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, các vụ án liên quan đến quyền giám hộ, nhất
là tranh chấp về quyền giám hộ đã có chiều hướng tăng nhanh cả về số lượng và
phức tạp về tính chất… Nguyên nhân của tình trạng trên là do trình độ hiểu
biết, sự thiếu trách nhiệm, việc tuân thủ các quy định của pháp luật trong một
bộ phận nhân dân, cán bộ còn hạn chế; cán bộ tư pháp không vững về chuyên
môn, nghiệp vụ và kiến thức quản lý còn lúng túng trong việc xác định thẩm
quyền giải quyết trong quá trình giải quyết những vi phạm trong công tác quản
lý nhà nước về lĩnh vực hộ tịch với việc giám hộ; đồng thời một số quy định của
pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn. Qua vụ việc tranh chấp quyền giám hộ
tại xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Nội, người viết xin chỉ ra một số
tồn tại, hạn chế liên quan đến công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực hộ tịch với
quyền giám hộ hiện này. Các giải pháp nêu ra trong chuyên đề sau để vận dụng
có hiệu quả hơn trong việc giải quyết các tình huống tương tự có thể xảy ra
trong thời gian tới, góp phần vào việc xử lý hiệu quả các vi phạm xảy ra trong
công tác quản lý nhà nước về các lĩnh vực chuyên môn nói chung và về lĩnh vực
hộ tịch nói riêng ./.


2
B – GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
Phần 1: Nội dung tình huống
Anh Phạm Văn Khá quê xã Liên Ninh và chị Đào Thị Gấm quê xã Đông
Mỹ kết hôn với nhau vào đầu năm 2006, đăng ký thường trú tại xã Liên Ninh,
huyện Thanh Trì và có một số tài sản: Nhà đất và 150 cây vàng. Đầu năm 2007,
chị Đào Thị Gấm sinh cháu trai tên là Phạm Văn Tiến. Tháng 01/2009 anh Phạm
Văn Khá và chị Đào Thị Gấm chết trong một vụ tai nạn giao thông.
Tháng 02/2009, ông bà nội của cháu Phạm Văn Tiến đến UBND xã Liên
Ninh đăng ký làm giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến. UBND xã Liên Ninh ra
quyết định công nhận việc ông bà nội của cháu Phạm Văn Tiến giám hộ và quản
lý khối tài sản cho cháu Phạm Văn Tiến.
Tháng 3/2009, ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến đón cháu về bên
ngoại chơi và đến Uỷ ban nhân dân xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì đăng ký làm
giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến. UBND xã Đông Mỹ ra quyết định công nhận
việc giám hộ của ông bà ngoại đối với cháu Phạm Văn Tiến.
Tháng 4/2009, chị Nguyễn Thị Tâm ở xã Hoằng Đạo, huyện Thanh Trì
muốn nhận cháu Phạm Văn Tiến làm con nuôi nên ông bà nội của cháu Phạm
Văn Tiến đã đến Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh làm thủ tục đăng ký việc cho,
nhận con nuôi. Biết việc Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh đã công nhận việc ông
bà nội giám hộ và quản lý tài sản cho cháu Phạm Văn Tiến, đồng thời đang xem
xét để công nhận việc cho, nhận con nuôi đối với cháu Phạm Văn Tiến nên ông
bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến đã làm đơn khiếu nại quyết định của Uỷ ban
nhân dân xã Liên Ninh về công nhận việc ông bà nội giám hộ và quản lý tài sản
cho cháu Phạm Văn Tiến. Uỷ ban nhân dân xã Hoằng Qúy đã có văn bản trả lời
không thụ lý vì cho rằng đây là tranh chấp quyền giám hộ nên thẩm quyền giải
quyết là của Toà án.
Tháng 5/2009, ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến làm đơn phản ảnh
toàn bộ sự việc gửi đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện. Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân huyện giao cho phòng Tư pháp huyện kiểm tra xác minh và tham mưu

phương án giải quyết.
Phần 2- Phân tích tình huông
2.1. Xác định thẩm quyền giải quyết:
3
Phòng Tư pháp huyện đã tiến hành kiểm tra xác minh theo nội dung đơn
thư của ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến gửi Uỷ ban nhân dân huyện.
Trước hết về việc ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến gửi đơn khiếu nại
quyết định của Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh về việc công nhận ông bà nội
giám hộ và quản lý tài sản cho cháu Phạm Văn Tiến nhưng đã không được thụ
lý giải quyết vì Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh cho rằng đây là tranh chấp quyền
giám hộ nên thầm quyền thụ lý giải quyết tranh chấp này là của Toà án. Qua trao
đổi ý kiến với những người công tác lâu năm trong ngành về vấn đề này, có các
quan điểm sau:
- Quan điểm thứ nhất, đây là vấn đề đơn giản xảy ra trong sinh hoạt đời
sống cộng đồng nên để thẩm quyền giải quyết cho Uỷ ban nhân dân cấp xã. Uỷ
ban nhân dân cấp xã tiến hành hoà giải để ông bà nội và ông bà ngoại của cháu
Phạm Văn Tiến thống nhất và đưa ra quyết định công nhận.
Thông thường các mối quan hệ hôn nhân là trong phạm vi đơn vị hành chính thì
có thể tiến hành hoà giải và ra quyết định công nhận. Nhưng nếu quan hệ hôn
nhân ở hai địa phương khác nhau thì vấn đề giải quyết vượt khả năng giải quyết
của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Quan điểm này mới nghe qua có khả năng chấp
được. Vì, Uỷ ban nhân dân xã giải quyết theo thủ tục hành chính thông thường
thì đơn giản, nhanh gọn, bảo đảm được quyền lợi cho người giám hộ. Yêu cầu
sang Toà án phải theo một thủ tục tố tụng không đảm bảo quyền lợi của ông bà
nội, ông bà ngoại và ảnh hưởng đến việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cháu Phạm Văn Tiến. Nếu thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quan
điểm này thì nó mâu thuẫn với chức năng của hai hệ thống cơ quan đó là Uỷ ban
nhân dân thuộc hệ thống cơ quan hành chính, không có chức năng xét xử. Toà
án thuộc hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét xử.
- Quan điểm thứ hai, đã là tranh chấp thì phải có phán quyết của Toà án.

Không thể đi theo con đường hành chính thông thường, Uỷ ban nhân dân chỉ
thực hiện chức năng hành chính. Chỉ có Toà án mới quyết định được vấn đề
tranh chấp đó.
Xuất phát từ vị trí và chức năng của hai hệ thống cơ quan khác nhau, đã là
tranh chấp thì đưa ra Toà là đúng thẩm quyền. Từ bản chất của vấn đề là tranh
chấp quyền giám hộ của ông bà nội, ông bà ngoại đối với cháu Phạm Văn Tiến
thì phải là cơ quan có chức năng xét xử. Như đã nói ở trên, Uỷ ban nhân dân
không thể phán quyết ông bà nội hoặc ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến có
quyền giám hộ mà chỉ ra quyết định công nhận giám hộ trên cơ sở có giấy cử
người giám hộ (theo quy định tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP).
4
- Quan điểm thứ 3, tuỳ vào tính chất phức tạp của vấn đề tranh chấp, ông
bà nội và ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến có sống cùng địa phương hay
không mà có thể quy định sự thoả thuận của các bên trong việc lựa chọn hệ
thống cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Như nếu ông bà nội và ông bà ngoại
của cháu Phạm Văn Tiến sống trong cùng một địa phương thì có thể lựa chọn
Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân để giải quyết. Nhưng trong tình huống trên ông bà
nội và ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến khác địa phương thì thẩm quyền
giải quyết của Toà án
Có thể phân định giải quyết vấn đề tranh chấp này theo con đường lựa
chọn của ông bà nội và ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến trong việc yêu
cầu hệ thống cơ quan nào giải quyết để đảm bảo quyền lợi cho cháu Phạm Văn
Tiến. Có thể quy định dưới dạng hình thức như sau: Nếu ông bà nội và ông bà
ngoại của cháu Phạm Văn Tiến trong phạm vi địa phương thì hai bên có thể
chọn giải pháp hành chính để giải quyết tranh chấp theo con đường thảo thuận
của hai bên, có thể đưa ra Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân. Nhưng ông bà nội và
ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến khác địa bàn sinh sống thì buộc phải theo
con đường tố tụng dân sự. Quan điểm này có vấn đề đặt ra đó là xác định tính
chất phức tạp của sự việc không dễ, khi phân định theo hướng này thì có vấn đề
là phải quy định địa giới hành chính trong việc phân định thẩm quyền. Đối với

quan điểm này có hạn chế là một vụ việc có cùng tính chất, nhưng lại có hai hệ
thống cơ quan giải quyết khác nhau và xác định phạm vi sống cùng địa phương
dễ tạo ra sự nhầm lẫn trong quá trình giải quyết.
- Quan điểm thứ tư, đưa vấn đề tranh chấp quyền giám hộ của ông bà nội
và ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến về thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Đối chiếu với chức năng, vị trí của các cơ quan trong việc phân định thẩm
quyền, thì vấn đề tranh chấp này thuộc phạm vi giải quyết của Toà án là đúng
với chức năng, thẩm quyền xét xử của Toà án như vậy hợp lý hơn về mặt lý
thuyết.
- Quan điểm của bản thân, Tranh chấp trong tình huống trên nếu có,
trước hết phải là tranh chấp quyền cử giám hộ (Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia
đình) nhưng thực tế cả hai bên ông bà nội và ông bà ngoại của cháu Phạm Văn
Tiến không thực hiện quyền của người cử giám hộ trước khi một trong hai bên
đến Uỷ ban nhân dân địa phương đăng ký giám hộ, nên xác định về mặt chủ
quan không có tranh chấp quyền cử giám hộ. Vì hai bên ông bà nội, ông bà
ngoại của cháu Phạm Văn Tiến đã chủ động đến Uỷ ban nhân dân địa phương
nơi mình cư trú để đăng ký việc giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến nên xét về
mặt chủ quan, hai bên cho rằng có quyền đi đăng ký giám hộ cho cháu Phạm
5
Văn Tiến nên xác định không có tranh chấp quyền giám hộ. Theo đó, thẩm
quyền thụ lý giải quyết của Toà án không đặt ra. Như vậy thẩm quyền thụ lý giải
quyết thuộc Uỷ ban nhân dân.
2.2. Xác định những vi phạm:
2.2.1. Đối với công dân:
Ông bà nội, ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến đã vi phạm khoản 1
Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình vì trước khi đi đăng ký giám hộ cho
cháu Phạm Văn Tiến, ông bà nội và ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến chưa
thoả thuận cử hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại làm giám hộ cho cháu Phạm
Văn Tiến. Theo đó còn vi phạm khoản 1 điều 30 Nghị định 158/2005/NĐ-CP
quy định về thủ tục đăng ký giám hộ vì khi đi đăng ký giám hộ ông bà nội hoặc

ông bà ngoại không có giấy cử giám hộ.
2.2.2.Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
- Thực tế việc giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến được đăng ký ở hai địa
phương khác nhau là vi phạm điều 4 Nghị định 158/2005/NĐ-CP.
- Ủy ban nhân dân xã Liên Ninh và Uỷ ban nhân dân xã Đông Mỹ đã vi phạm
khoản 2 điều 30 Nghị định 158/2005/NĐ-CP quy định về trình tự và thời gian
đăng ký giám hộ vì khi thụ lý hồ sơ đăng ký việc giám hộ đã không kiểm tra các
giấy tờ có trong hồ sơ để xác định sự phù hợp với quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình.
- Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh đã có sai sót khi không thụ lý giải quyết
đơn khiếu nại quyết định của Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh về việc công nhận
ông bà nội của cháu Phạm Văn Tiến giám hộ và quản lý tài sản cho cháu Phạm
Văn Tiến.
2.3. Xác định nguyên nhân và hậu quả của vi phạm:
2.3.1. Nguyên nhân:
- Đối với công dân: Do không biết và không tìm hiểu rõ những quy định
của pháp luật về chế định giám hộ nên đã vô ý vi phạm.
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Uỷ ban nhân dân cấp xã hiểu những
quy định của pháp luật về chế định giám hộ chưa đầy đủ nên đã có những vi
phạm trong quá trình giải quyết thủ tục đăng ký giám hộ và sai sót trong công
tác quản lý nhà nước theo thẩm quyền. Đồng thời, thiếu linh hoạt trong việc
triển khai thực hiện nhiệm vụ thuộc thẩm quyền nên đã có những sai sót trong
việc tiếp nhận và giải quyết những việc khi công dân yêu cầu.
6
2.3.2. Hậu quả:
- Phát sinh những mẫu thuẫn không đáng có giữa công dân với nhau và có
thể trở thành những vụ việc tranh chấp về quyền, lợi ích.
- Công tác thống kê sự kiện hộ tịch cơ bản nói chung và thống kê sự kiện
hộ tịch phát sinh nói riêng không chính xác.
- Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực hộ tịch trên địa bàn không hiệu

quả.
Phần 3: Mục tiêu xử lý tình huống:
3.1. Đối công dân:
Làm cho mọi người hiểu rõ hơn quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch và người
có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đăng ký hộ tịch phải nâng cao ý thức tự giác
đăng ký các sự kiện hộ tịch theo quy định của pháp luật.
3.2. Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
- Phòng Tư pháp phải hiểu rõ và đầy đủ vai trò tham mưu, giúp Uỷ ban
nhân dân huyện thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo đối với Uỷ
ban nhân dân các cấp xã trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch; trường hợp
phát hiện thấy sai phạm phải chấn chỉnh, xử lý kịp thời.
- Uỷ ban nhân dân cấp xã phải thấy rõ trách nhiệm niêm yết công khai,
chính xác các giấy tờ mà người yêu cầu đăng ký hộ tịch phải xuất trình hoặc
phải nộp khi đăng ký hộ tịch, quy trình và thời hạn giải quyết đăng ký hộ tịch.
Đồng thời, phải nhận rõ trách nhiệm trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật nói chung và pháp luật liên quan đến hộ tịch nói riêng đến toàn thể cán bộ,
nhân dân địa phương.
- Cơ quan quản lý nhà nước về hộ tích từ huyện đến cơ sở phải chú trọng
hơn đến công tác quản lý nhà nước theo thẩm quyền của mình.
Phần 4. Xây dựng phương án giải quyết:
4.1. Chọn phương án:
Sau khi kiểm tra xác minh và ghi nhận những vi phạm trong việc đăng ký
và quản lý giám hộ tại xã Liên Ninh và xã Đông Mỹ. Phòng Tư pháp huyện xây
dựng 3 phương án giải quyết như sau:
- Phương án 1:
Áp dụng điểm k khoản 1 điều 78 Nghị định 158/2005/NĐ-CP, Uỷ ban
nhân dân huyện ra quyết định việc thu hồi, huỷ bỏ quyết định của Uỷ ban nhân
7
xã Liên Ninh và xã Đông Mỹ vì đã cấp trái quy định của Nghị định
158/2005/NĐ-CP: quyết định của Uỷ ban nhân dân xã Đông Mỹ về công nhận

việc giám hộ của ông bà ngoại cho cháu Phạm Văn Tiến và quyết định của Uỷ
ban nhân dân xã Liên Ninh về công nhận việc giám hộ của ông bà nội cho cháu
Phạm Văn Tiến.
Áp dụng điều 61 Bộ luật Dân sự năm 2005, điều 84 luật Hôn nhân và Gia
đình, điều 30 Nghị định 158/2005/NĐ-CP, ông bà ngoại và ông bà nội tiến hành
thoả thuận và lập văn bản cử một bên làm giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến.
Áp dụng điều 29 và điều 30 Nghị định 158/2005/NĐ-CP, Uỷ ban nhân
dân nơi cư trú của bên được cử làm giám hộ tiếp nhận và xem xét hồ sơ đăng ký
giám hộ để ra quyết định công nhận giám hộ đảm bảo đúng các quy định của
pháp luật.
+ Ưu điểm: Tạo sự đồng thuận giữa ông bà nội và ông bà ngoại trong
việc cử người chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cháu Phạm Văn
Tiến. Giải quyết dứt điểm những sai sót trong quá trình đăng ký giám hộ.
+ Hạn chế: Thời gian hoàn thành phương án phụ thuộc vào yếu tố chủ
quan của ông bà nội và ông bà ngoại trong việc cử giám hộ cho cháu Phạm Văn
Tiến nên việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cháu Phạm Văn
Tiến xét về mặt pháp lý là không liên tục.
- Phương án 2:
Áp dụng điểm k khoản 1 điều 78 Nghị định 158/2005/NĐ-CP, Uỷ ban
nhân dân huyện ra quyết định việc thu hồi, huỷ bỏ quyết định của Uỷ ban nhân
dân xã Huyện Đông Mỹ về công nhận việc giám hộ của ông bà ngoại cho cháu
Phạm Văn Tiến vì đã cấp trái với quy định tại Nghị định 158/2005/ NĐ - CP.
Áp dụng điều 70 Bộ luật Dân sự năm 2005; Áp dụng khoản 4 điều 31
Nghị định 158/2005/NĐ-CP, ông bà nội đề nghị thay đổi giám hộ và ông bà
ngoại nhận làm giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến.
Áp dụng điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 1, 2, 3 điều 31 Nghị
định 158/2005/NĐ-CP, ông bà ngoại làm thủ tục chấm dứt giám hộ trên cơ sở sự
kiện đăng ký cho, nhận cháu Phạm Văn Tiến làm con nuôi chị Nguyên Thị Tâm
ở xã Hoằng Đạo được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
+ Ưu điểm: Tạo sự đồng thuận giữa ông bà nội và ông bà ngoại trong

việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cháu Phạm Văn Tiến. Triệt
tiêu được nguy cơ phát sinh tranh chấp quyền giám hộ.
8
+ Hạn chế: Thời gian hoàn thành phương án phụ thuộc vào yếu tố chủ
quan của ông bà nội và ông bà ngoại trong việc thay đổi giám hộ, thực tế việc
thay đổi này là không cần thiết.
- Phương án 3:
Áp dụng điểm k khoản 1 điều 78 Nghị định 158/2005/NĐ-CP, Uỷ ban
nhân dân huyện ra quyết định việc thu hồi, huỷ bỏ quyết định của Uỷ ban nhân
dân xã Đông Mỹ về công nhận việc giám hộ của ông bà ngoại cho cháu Phạm
Văn Tiến vì đã cấp trái với quy định tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP.
Áp dụng điều 72 Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 1, 2, 3 điều 31 Nghị
định 158/2005/NĐ-CP, Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh xem xét hồ sơ xin được
chấm dứt giám hộ của ông bà nội đối với cháu Phạm Văn Tiến trên cơ sở sự
kiện đăng ký cho, nhận cháu Phạm Văn Tiến làm con nuôi chị Nguyên Thị Tâm
ở xã Đông Mỹ đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
+ Ưu điểm: Việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu
Phạm Văn Tiến được đảm bảo liên tục về mặt pháp lý bởi ông bà nội vẫn là
người giám hộ và quản lý tài sản theo quyết định công nhận của Uỷ ban nhân
dân xã Liên Ninh cho đến khi Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh hoàn thành thủ tục
đăng ký cho và nhận con nuôi giữa ông bà nội của cháu Phạm Văn Tiến và chị
Nguyễn Thị Tâm.
+ Hạn chế: Thời gian hoàn thành phương án phụ thuộc vào việc khắc
phục những sai sót trong quá trình đăng ký giám hộ trước đây tại Uỷ ban nhân
dân xã Liên Ninh đối với ông bà nội của cháu Phạm Văn Tiến.
Sau khi xây dựng ba phương án trên. Phòng tư pháp nhận thấy:
Một là, phải tiến hành ngay việc thu hồi, và huỷ bỏ quyết định của Uỷ ban
nhân dân xã Đông Mỹ về công nhận việc giám hộ của ông bà ngoại cho cháu
Phạm Văn Tiến vì đã cấp trái quy định tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP, đặc biệt
là vi phạm nguyên tắc về đăng ký hộ tịch (Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký

tại một nơi theo đúng thẩm quyền quy định của Nghị định này). Về việc này cả
phương án 1, 2, 3 đều thực hiện.
Hai là, không nhất thiết phải thu hồi và huỷ bỏ quyết định của Uỷ ban
nhân dân xã Liên Ninh về công nhận việc giám hộ của ông bà nội cho cháu
Phạm Văn Tiến, vì những sai sót trong quá trình đăng ký giám hộ trước đây tại
Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh có thể khắc phục được. Về việc này chỉ có
phương án 2 và phương án 3 thực hiện.
9
Ba là, nên tìm sự đồng thuận giữa ông bà nội, ông bà ngoại của cháu
Phạm Văn Tiến về việc khắc phục những sai sót trong quá trình đăng ký giám
hộ trước đây tại Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh. Về việc này cả phương án 1, 2,
3 đều thực hiện, tuy có khác nhau về phương thức nhưng phương án 3 thuận lợi
hơn vì chỉ phải tìm sự đồng thuận từ ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến.
Từ sự phân tích trên, Phòng Tư pháp chọn phương án 3 để xử lý tình
huống trên.
4.2. Trình bày phương án tối ưu
Các bước thực hiện phương án 3:
Bước 1:
- Uỷ ban nhân dân huyện ra văn bản thụ lý giải quyết đơn do ông bà ngoại
của cháu Phạm Văn Tiến gửi đến.
- Tiến hành đối thoại trực tiếp với ông bà nội, ông bà ngoại của cháu
Phạm Văn Tiến và chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh, nhằm giúp cho các
bên hiểu rõ về quyền, trách nhiệm của những người giám hộ đương nhiên, quy
trình và thủ tục đăng ký giám hộ. Đồng thời chỉ ra những sai sót của ông bà nội,
ông bà ngoại và của Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh trong quá trình thực hiện
việc đăng ký giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến và trong quá trình xác định thẩm
quyền giải quyết đơn khiếu nại do ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến gửi
đến.
Bước 2:
- Trên cơ sở ghi nhận của phòng Tư pháp về những vi phạm trong khi

thực hiện đăng ký giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến, Uỷ ban nhân dân huyện ra
quyết định thu hồi và huỷ bỏ quyết định của Uỷ ban nhân dân xã Đông Mỹ về
công nhận việc giám hộ của ông bà ngoại cho cháu Phạm Văn Tiến.
- Ông bà nội, ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến hoàn thiện văn bản
thoả thuận cử ông bà nội làm giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến, đồng thời lập
danh sách tài sản của cháu Phạm Văn Tiến và có chữ ký của ông bà ngoại và
ông bà nội để bổ sung hồ sơ đăng ký giám hộ trước đây.
Bước 3:
- Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh tiếp nhận và xem xét hồ sơ, hoàn thiện
thủ tục đăng ký cho, nhận con nuôi giữa ông bà nội của cháu Phạm Văn Tiến và
chị Nguyễn Thị Tâm theo đúng quy định của pháp luật.
10
- Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh tiếp nhận và xét hồ sơ, hoàn thiện thủ tục
chấm dứt việc giám hộ của ông bà nội với cháu Phạm Văn Tiến.
Bước 4:
- Uỷ ban nhân dân huyện họp kiểm điểm chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Q
và xã B vì thiếu tình thần trách nhiệm nên để xảy ra sai sót trong quá trình đăng
ký và quản lý hộ tịch gây ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ, cơ quan quản lý nhà
nước trên lĩnh vực hộ tịch.
- Uỷ ban nhân dân huyện họp rút kinh nghiệm với phòng Tư pháp huyện
về việc tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân huyện quản lý nhà nước về lĩnh vực hộ
tịch trên địa bàn huyện. Đồng thời rút kinh nghiệm trong việc tham mưu, giúp
Uỷ ban nhân dân huyện giải quyết vi phạm trong đăng ký giám hộ tại Uỷ ban
nhân dân xã Liên Ninh và xã Đông Mỹ.
C - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
Tình huống vi phạm trong việc đăng ký và quản lý giám hộ xảy ra tại Ủy
ban nhân dân xã Liên Ninh và Uỷ ban nhân dân xã Đông Mỹ đã được giải quyết
đảm bảo chính xác, linh hoạt và đúng quy định của pháp luật. Các sai sót, vi
phạm trong quá trình đăng ký và quản lý giám hộ đã được khắc phục và xử lý,
đồng thời vẫn đảm bảo được việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của người được giám hộ trên cả hai phương diện: Pháp lý và tình cảm.
11
Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân xã Liên Ninh và Uỷ ban nhân dân xã Đông
Mỹ đã thừa nhận việc thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra những thiếu sót
trong việc thực hiện đăng ký và quản lý việc giám hộ cho cháu Phạm Văn Tiến
giám hộ. Cán bộ tư pháp hộ tịch xã Liên Ninh và xã Đông Mỹ đã thấy được
những sai sót trong quá trình tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân địa phương thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực hộ tịch với việc giám hộ. Ông bà
nội, ông bà ngoại của cháu Phạm Văn Tiến nhận thức đầy đủ hơn trách nhiệm
của những người đi đăng ký hộ tịch.
Từ việc thuật lại quá trình giải quyết những vi phạm trong công tác quản
lý nhà nước về lĩnh vực hộ tịch với việc giám hộ, chúng ta thấy việc lãnh đạo Uỷ
ban nhân dân nếu không vững về chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức quản lý sẽ
lúng túng trong việc xác định thẩm quyền giải quyết. Cán bộ tư pháp không giỏi
về chuyên môn sẽ bị động trong việc tham mưu, giúp lãnh đạo Uỷ ban nhân dân
trong việc quản lý nhà nước về lĩnh vực hộ tịch và thất bại trong việc tham mưu
phương án giải quyết các vi phạm xảy ra trong công tác quản lý. Bài học rút ra
là người lãnh đạo Uỷ ban nhân dân phải vững kiến thức về quản lý nhà nước, tin
tưởng giao nhiệm vụ cho cán bộ tư pháp hộ tịch vì đây không những là đội ngũ
cán bộ chuyên môn giúp việc mà còn là người của địa phương, sống gần với
dân, do đó hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân nên thuận lợi trong công
tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật và tham gia hoà giải các mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân theo quy định của pháp luật, góp phần lớn vào việc
xử lý hiệu quả các vi phạm xảy ra trong công tác quản lý nhà nước về các lĩnh
vực chuyên môn nói chung và về lĩnh vực hộ tịch nói riêng.
Các giải pháp trên đã được vận dụng để giải quyết thành công một tình
huống tương tự và để vận dụng có hiệu quả hơn trong việc giải quyết các tình
huống tương tự có thể xảy ra trong thời gian tới. Bản thân có một số kiến nghị
sau:
1) Nhà nước sớm ban hành luật hộ tịch để khắc phục những vướng mắc

trong việc đăng ký và quản lý hộ tịch hiện nay.
2) Uỷ ban nhân dân huyện tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thường
xuyên, định kỳ việc thực hiện nhiệm vụ đăng ký và quản lý hộ tịch của Uỷ ban
nhân dân cấp xã để sớm phát hiện và xử lý kịp thời những sai sót, vi phạm.
3) Uỷ ban nhân dân cấp xã phải công khai tất cả các thủ tục hành chính,
điều kiện thực hiện thủ tục hành chính trên lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch.
4) Uỷ ban nhân nhân dân cấp xã phải chú trọng công tác đăng ký và quản
lý hộ tịch, nâng cao nhận thức cho người dân đối với công tác này bằng cách
12
tuyên truyền phổ biến pháp luật cho nhân dân nhiều hơn nữa để nhân dân nắm
rõ quyền và nghĩa vụ của mình để thực hiện tốt hơn.
5) Uỷ ban nhân nhân dân cấp xã cũng cần có biện pháp xử lý vi phạm
hành chính theo quy định đối với hành vi cố ý của người dân, của cán bộ tư pháp
hộ tịch làm sai sót, tiêu cực trong việc đăng ký hộ tịch.
PHỤ LỤC: NHỮNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LĨNH VỰC HỘ TỊCH ĐỐI VỚI VIỆC
GIÁM HỘ
1. Bộ luật Dân sự năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm
2005, gồm 36 chương với 777 điều.
Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng
xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về
nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động.
Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an
toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật
chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Điều 58 quy định về giám hộ: “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức được
pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự;
Người được giám hộ bao gồm: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ,
Một người có thể giám hộ cho nhiều người, nhưng một người chỉ có thể được
một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là cha, mẹ hoặc ông, bà theo
quy định tại khoản 2 Điều 61 hoặc khoản 3 Điều 62 của Bộ luật này.
Điều 61 quy định về người giám hộ đương nhiên của người chưa thành
niên: “Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả
cha và mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của
cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành
niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu, được xác định như sau: Trong trường hợp
anh ruột, chị ruột không có thoả thuận khác thì anh cả hoặc chị cả là người giám
hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm
người giám hộ thì anh, chị tiếp theo là người giám hộ; Trong trường hợp không
13
có anh ruột, chị ruột hoặc anh ruột, chị ruột không có đủ điều kiện làm người
giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ; ”
Điều 70 quy định việc thay đổi người giám hộ: “Người giám hộ được
thay đổi trong các trường hợp sau đây: Người giám hộ không còn đủ các điều
kiện quy định tại Điều 60 của Bộ luật này; Người giám hộ là cá nhân chết hoặc
bị Toà án tuyên bố mất tích, tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động; Người
giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ; Người giám hộ đề nghị được
thay đổi và có người khác nhận làm giám hộ.
Điều 72 quy định về chấm dứt việc giám hộ: “Người được giám hộ đã có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Người được giám hộ chết; Cha, mẹ của người
được giám hộ đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; Người
được giám hộ được nhận làm con nuôi.”
2. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
09 tháng 6 năm 2000, gồm 13 chương với 110 điều.

Luật hôn nhân và gia đình có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và
bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho
cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt
đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, bền vững.
Luật hôn nhân và gia đình quy định chế độ hôn nhân và gia đình, trách
nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ
hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Điều 79 quy định việc áp dụng pháp luật về giám hộ trong quan hệ gia
đình: “Khi trong gia đình có người cần được giám hộ thì việc giám hộ được
thực hiện theo các quy định về giám hộ của Bộ luật dân sự và Luật này.”
Khoản 1 Điều 84 quy định việc giám hộ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và
cháu: “Trong trường hợp cháu cần được giám hộ mà ông bà nội, ông bà ngoại
có đủ điều kiện làm người giám hộ thì những người này thỏa thuận cử một bên
làm người giám hộ”
3. Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý
hộ tịch, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2006, bao gồm 9 chương và 99
điều:
14
Điều 4 quy định nguyên tắc đăng ký và quản lý hộ tịch: “Mọi sự kiện hộ
tịch phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, chính xác theo quy định của Nghị định
này.Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một nơi theo đúng thẩm quyền quy
định của Nghị định này ”
Điều 29 quy định thẩm quyền đăng ký việc giám hộ: “Ủy ban nhân dân
cấp xã, nơi cư trú của người giám hộ hoặc nơi có trụ sở của cơ quan, tổ chức
đảm nhận giám hộ thực hiện đăng ký việc giám hộ.”
Điều 30 quy định thủ tục đăng ký việc giám hộ: “Người được cử làm giám
hộ phải nộp Giấy cử giám hộ. Giấy cử giám hộ do người cử giám hộ lập; nếu có
nhiều người cùng cử một người làm giám hộ, thì tất cả phải cùng ký vào Giấy cử

giám hộ; Khi đăng ký việc giám hộ, người cử giám hộ và người được cử làm
giám hộ phải có mặt Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người
giám hộ và người cử giám hộ mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc
giám hộ ; Trong trường hợp người được giám hộ có tài sản riêng, thì người cử
giám hộ phải lập danh mục tài sản và ghi rõ tình trạng của tài sản đó, có chữ ký
của người cử giám hộ và người được cử làm giám hộ. Danh mục tài sản được
lập thành 3 bản, một bản lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đăng ký việc giám
hộ, một bản giao cho người giám hộ, một bản giao cho người cử giám hộ.”
Điều 31 quy định về đăng ký chấm dứt, thay đổi việc giám hộ:“Ủy ban
nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký việc giám hộ thực hiện đăng ký chấm dứt việc
giám hộ; người yêu cầu chấm dứt việc giám hộ phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy
định), Quyết định công nhận việc giám hộ đã cấp trước đây và xuất trình các
giấy tờ cần thiết để chứng minh đủ điều kiện chấm dứt việc giám hộ theo quy
định của Bộ Luật Dân sự.Trong trường hợp người được giám hộ có tài sản riêng,
đã được lập thành danh mục khi đăng ký giám hộ, thì người yêu cầu chấm dứt
việc giám hộ phải nộp danh mục tài sản đó và danh mục tài sản hiện tại của
người được giám hộ; ; trong trường hợp người giám hộ đề nghị được thay đổi
giám hộ và có người khác có đủ điều kiện nhận làm giám hộ, thì các bên làm thủ
tục đăng ký chấm dứt việc giám hộ cũ và đăng ký việc giám hộ mới theo quy
định tại Mục này.
Điều 78 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp
huyện trong quản lý nhà nước về hộ tịch: “Ủy ban nhân dân cấp huyện thực
hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình, có nhiệm vụ, quyền
hạn sau đây: Chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức, thực hiện công tác đăng ký và quản
lý hộ tịch đối với Ủy ban nhân dân cấp xã; …; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý các vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền; Quyết định việc thu hồi, hủy bỏ
những giấy tờ hộ tịch do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trái với quy định tại Nghị
15
định này (trừ việc đăng ký kết hôn vi phạm về điều kiện kết hôn theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình).

Phòng Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch theo quy định tại khoản 1 Điều này
(riêng việc giải quyết tố cáo tại điểm i khoản 1 chỉ thực hiện khi được giao). Đối
với việc giải quyết khiếu nại quy định tại điểm i khoản 1 Điều này do Ủy ban
nhân dân cấp huyện thực hiện.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm về tình hình đăng
ký và quản lý hộ tịch của địa phương. Trong trường hợp do buông lỏng quản lý
mà dẫn đến những sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức trong đăng ký và
quản lý hộ tịch ở địa phương mình, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
phải chịu trách nhiệm.
Điều 79 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã
trong quản lý nhà nước về hộ tịch:“Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ
tịch, Ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Thực hiện đăng
ký các việc hộ tịch thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định
của Nghị định này; …; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ
tịch theo thẩm quyền.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm về tình hình đăng ký
và quản lý hộ tịch của địa phương. Trong trường hợp do buông lỏng quản lý mà
dẫn đến những sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức trong công tác đăng ký
và quản lý hộ tịch ở địa phương mình, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải
chịu trách nhiệm.”
Điều 84 quy định quyền khiếu nại của cá nhân, tổ chức liên quan đến
việc đăng ký và quản lý hộ tịch:
“Cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về những quyết định hành chính của cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch
hoặc hành vi hành chính trong đăng ký và quản lý hộ tịch của cán bộ, công chức
làm công tác hộ tịch khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”
Điều 85 Giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã:
“Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thụ lý và giải quyết khiếu nại đối với quyết

định hành chính, hành vi hành chính của mình hoặc hành vi hành chính của cán
bộ Tư pháp hộ tịch trong đăng ký và quản lý hộ tịch.
16
Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại phải thực hiện theo quy định của
pháp luật về khiếu nại, cụ thể như sau: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
phải thụ lý để giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết.
Trong trường hợp khiếu nại không được thụ lý thì phải thông báo bằng
văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 86 quy định về việc giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện:“ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thụ lý và giải quyết
khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình; hành vi
hành chính của cán bộ Phòng Tư pháp trong đăng ký và quản lý hộ tịch; giải
quyết khiếu nại về hộ tịch mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã giải quyết,
nhưng còn có khiếu nại.
Thời hạn, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu thực hiện tương tự
theo quy định tại Điều 85 của Nghị định này.
17

×