Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.72 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC
o0o













Môn học: Tài Chính Tiền Tệ
Tiểu luận: Lý thuyết thông tin bất cân xứng,
vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam














GVHD : Th.S Trương Minh Tuấn
Nhóm thực hiện: Nhóm 02








Tp. HCM, tháng 02 / 2014
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 1

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
DANH SÁCH THÀNH VIÊN VÀ PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT

HỌ VÀ TÊN

SỐ
Phân công Đánh giá
1 Nguyễn Đình Phúc 73 Phần 2, Phần 3.II Tốt
2 Lê Kim Tuyến 113 Phần 2, Phần 3.II Tốt
3 Phạm Xuân Tùng – Nhóm trưởng 114 Tổng hợp và Hoàn thiện

Tốt

4 Bùi Minh Phong 67 Phần 2, Phần 3.II Tốt


5 Phạm Văn Triệu 107 Phần 3.I Tốt

6 Bùi Thị Kim Thoa 97 Phần 3.I Tốt

7 Nguyễn Thị Ngọc Trâm 105 Phần 3.I Tốt

8 Ngô Thị Hồng Ngọc 63 Phần 2 Tốt

9 Trần Khánh Hoàng 37 Phần 2, Phần 3.II Xuất sắc

10 Huỳnh Long Sơn 83 Phần 3.II Tốt

11 Phù Như Thùy 98 Phần 3.I Tốt

12 Phan Văn Ngọc 64 Phần 3.I Tốt


Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 2

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẤN























Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 3

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN VÀ PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC 1

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẤN 2

MỤC LỤC 3

PHẦN 1:

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 4

PHẦN 2:


LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÝ THUYẾT TTBCX VÀ THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH 5

2.1.

Lý thuyết TTBCX 5

2.1.1.

Lịch sử thuyết TTBCX 5

2.1.2.

Hệ quả của TTBCX 5

2.2.

Thị trường tài chính 7

2.2.1.

Khái quát chung về Thị trường tài chính 7

2.2.2.

Thị trường tiền tệ 7

2.2.3.

Thị trường vốn 9


PHẦN 3: VẬN DỤNG LÝ THUYẾT TTBCX TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH 10

3.1.

Lý thuyết TTBCX trên thị trường tiền tệ 10

3.1.1.

Tác động của TTBCX đối với các chủ thể trên thị trường tiền tệ 10

3.1.2.

Thực trạng hoạt động của thị trường tiền tệ dưới tác động của TTBCX 11

3.2.

Giải pháp khắc phục 12

3.2.1.

Về phía chính phủ: 12

3.2.2.

Về phía Ngân hàng: 13

3.2.3.


Về phía khách hàng 15

3.3.

Lý thuyết TTBCX trên thị trường vốn 16

3.3.1.

Tác động của TTBCX đối với các chủ thể trên thị trường vốn 16

3.3.2.

Thực trạng hoạt động của thị trường vốn dưới tác động của TTBCX 17

3.3.3.

Giải pháp khắc phục 18

PHẦN 4:

KẾT LUẬN 20

TÀI LIỆU THAM KHẢO 21

Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 4

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
PHẦN 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Trong những năm vừa qua, Thị trường tài chính Việt Nam gặp rất nhiều khó
khăn sóng gió. Thị trường chứng khoán liên tục đi xuống và ở trạng thái đáy trong một

thời gian dài. Thị trường tín dụng lao đao trước hàng loạt vụ vỡ nợ, doanh nghiệp phá
sản và tình trạng nợ xấu ngày càng gia tăng.
Đâu là nguyên nhân dẫn tới tình trạng này? Đây là một câu hỏi hết sức hóc búa
đối với các nhà kinh tế học. Đã có rất nhiều câu trả lời được đưa ra, rất nhiều kiến nghị
được đề xuất để khắc phục thực trạng này, trong đó thông tin bất cân xứng (TTBCX)
là một trong số những nguyên nhân gây nên sự khủng hoảng trên thị trường tài chính
Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Với đề tài nghiên cứu “Lý thuyết TTBCX, vận dụng trên thị trường tài chính
Việt Nam” chúng tôi, trong khuôn khổ thời gian nghiên cứu hạn hẹp, xin đưa ra cái
nhìn khái quát nhất, chung nhất về Lý thuyết TTBCX và những tác động của TTBCX
đối với thị trường tài chính, mà cụ thể là thị trường tín dụng và thị trường chứng khoán
Việt nam hiện tại.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 5

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
PHẦN 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÝ THUYẾT TTBCX VÀ THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH
2.1. Lý thuyết TTBCX
2.1.1. Lịch sử thuyết TTBCX
Lý thuyết thông tin bất cân xứng (TTBCX) (Asymmetric Information) được xây
dựng đầu tiên bởi George Arthur Akerlof (sinh 17/6/1940) là nhà kinh tế
học người Mỹ. Trong bài viết "Thị trường ô tô cũ: Bất định về chất lượng và cơ chế thị
trường" (tiếng Anh: The Market for Lemons: Quality Uncertainty and the Market
Mechanism"), xuất bản trên tạp chí Quarterly Journal of Economics năm 1970, ông
xác định các vấn đề lớn ảnh hưởng tới thị trường, đó là sự bất cân xứng về thông tin.
Sau đó, lý thuyết TTBCX được George Arthur Akerlof cùng hai nhà kinh tế
học người Mỹ là Michael Spence (7/11/1943)và Joseph Stiglitz (9/2/1943) tiếp tục xây
dựng và phát triển. Với giải thưởng Nobel kinh tế năm 2011 cho “nghiên cứu về ảnh
hưởng của việc kiểm soát thông tin đến thị trường”, lý thuyết TTBCX của ba ông đã
khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại.

TTBCX (TTBCX) là trạng thái bất cân bằng trong cơ cấu thông tin giữa các chủ
thể trong giao dịch, nghĩa là các chủ thể có mức độ nắm giữ thông tin không ngang
nhau, một người sẽ có thông tin nhiều hơn so với người khác về đối tượng được giao
dịch.
Nguyên nhân của tình trạng TTBCX, theo Joseph Stiglitz, gồm có hai nguyên
nhân:
- Trước tiên là do những chủ thể kinh tế khác nhau quan tâm tới những đối tượng
khác nhau và thông tin của họ khi về cùng một đối tượng sẽ khác nhau. Thường
thì các chủ thể kinh tế hiểu mình rõ hơn là hiểu người khác. Mức độ chênh lệch
về thông tin tùy thuộc vào cơ cấu, đặc trưng của thị trường.
- TTBCX còn có nguyên nhân nhân tạo. Chủ thể kinh tế tham gia giao dịch có
thể cố tính che giấu thông tin để đạt được lợi thế trong đàm phán giao dịch.
2.1.2. Hệ quả của TTBCX
TTBCX là hiện tượng phổ biến trên tất cả mọi lĩnh vực. Trên góc độ kinh tế học,
đây chính là một nhân tố gây ra sự không hoàn hảo của thị trường.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 6

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
Do giữa các bên tham gia giao dịch có chênh lệch về mức độ nắm giữ thông tin,
sự chênh lệch này có thể xảy ra từ trước khi giao dịch được bắt đầu, hoặc cũng có thể
khi giao dịch bắt đầu diễn ra thì mới xảy ra. Hệ quả của TTBCX gây nên gồm:
- Lựa chọn bất lợi.
- Tâm lý ỷ lại.
- Rủi ro đạo đức.
Trong trường hợp chênh lệch thông tin ngay khi bắt đầu giao dịch được gọi là
thông tin bị che đậy, các bên cố tình che đậy những thông tin bất lợi cho mình và chỉ
cung cấp những thông tin có lợi cho việc tham gia giao dịch. Điều đó dẫn tới hệ quả là
người mua không có thông tin xác thực, đầy đủ và kịp thời nên trả giá thấp hơn giá trị
đích thực của hàng hóa. Hậu quả là người bán cũng không còn động lực để sản xuất
hàng có giá trị và có xu hướng cung cấp những sản phẩm có chất lượng thấp hơn chất

lượng trung bình trên thị trường. Rốt cuộc trên thị trường chỉ còn lại những sản phẩm
chất lượng xấu- những “hàng hóa” bỏ đi, hàng tốt bị loại bỏ, dẫn đến lựa chọn bất lợi
(adverse selection) cho cả hai bên. Hiện tượng này được gọi là “lựa chọn bất lợi” hay
còn gọi là “lựa chọn trái ý” của phía giao dịch có ít thông tin hơn và cũng chính hiện
tượng này đã cản trở việc giao dịch trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Còn trong trường hợp chênh lệch thông tin sau khi diễn ra giao dịch, được gọi là
hành động của một phía giao dịch bị che đậy. Hậu quả của sự bất cân xứng thông tin
theo trường hợp thứ hai dẫn tới cái gọi là rủi ro đạo đức ở phía giao dịch nhiều thông
tin hơn và che đậy hành vi của mình.
Ba hệ quả của TTBCX chính là các thất bại thị trường. Để đối phó với tình trạng
TTBCX, các nhà kinh tế học đã phát triển hai loại biện pháp, một là báo tin, hai là dò
tin. Biện pháp báo tin được thực hiện bởi bên có ưu thế thông tin. Còn biện pháp dò tin
được thực hiện bởi bên kém ưu thế thông tin.
 Để cho đơn giản và dễ hiểu, chúng ta lấy ví dụ về mua bán xe ô tô cũ:
Bên mua không thể có đủ thông tin chi tiết về chất lượng chiếc xe dự định mua,
trong khi đó bên bán lại có rất đầy đủ thông tin về chất lượng chiếc xe.
Do không biết rõ chất lượng xe nên bên mua có thể sẽ ra quyết định rơi vào một
trong hai trường hợp sau:
- Người mua trả giá thấp hơn giá trị thực của chiếc xe. Khi đó giao dịch không
thành công
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 7

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
- Người mua trả giá cao hơn giá trị thực của chiếc xe, khi đó giao dịch thành
công vì bản thân người bán lúc nào cũng muốn bán có lời nên thường họ không
bao giờ họ bán với giá bằng giá trị thực của chiếc xe.
Như vậy, ngay trước thời điểm ký hợp đồng mua bán chiếc xe, lượng thông tin
của hai bên về chiếc xe - đối tượng của giao dịch - là không tương xứng, điều đó đã
dẫn tới bất lợi về giá và cả chất lượng cho người mua - phía có ít thông tin hơn. Đây
chính là hệ quả “lựa chọn bất lợi” của TTBCX.

Sau khi giao dịch thành công, những thông tin về lỗi hư hỏng của chiếc xe sẽ
không được người bán cung cấp đầy đủ. Do đó, trong quá trình sử dụng người mua -
người sử dụng có tâm lý tin tưởng sản phẩm của mình không bị lỗi hoặc chỉ bị những
lỗi mà mình đã được thông báo, không chủ động kiểm tra khắc phục những lỗi thực có
của chiếc xe (đây chính là tâm lý ỷ lại) nên thường khi xảy ra hư hỏng chi phí bỏ ra để
sửa chữa, khắc phục thường cao hơn so với chủ động sửa chữa. Đây chính là hệ quả
“rủi ro đạo đức” của TTBCX.
2.2. Thị trường tài chính
2.2.1. Khái quát chung về Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là tổng hòa các mối quan hệ cung cầu về vốn, diễn ra dưới
hình thức vay mượn, mua bán về vốn, tiền tệ và các chứng từ có giá nhằm chuyển dịch
từ nơi cung cấp đến nơi có nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh tế.
 Có nhiều căn cứ để phân loại Thị trường tài chính:
- Nếu căn cứ vào thời gian vận động vốn, Thị trường tài chính gồm Thị trường
tiền tệ, thị trường vốn
- Nếu căn cứ vào cách thức huy động vốn, Thị trường tài chính gồm: Thị trường
công cụ nợ, thị trường công cụ vốn
- Còn nếu căn cứ vào cơ cấu tổ chức, Thị trường tài chính gồm Thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp.
Trong phạm vi đề tài, chúng ta sử dụng cách phân loại thứ nhất.
2.2.2. Thị trường tiền tệ
2.2.2.a. Khái niệm:
Thị trường tiền tệ là nơi mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có kỳ hạn dưới
1 năm, là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 8

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
2.2.2.b. Chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ gồm:
- Chủ thể cho vay đại điện cho nguồn cung về vốn: Ngân hàng Trung ương, Ngân
hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác

- Chủ thể đi vay đại diện cho nguồn cầu về vốn như: Ngân hàng thương mại, các
doanh nghiệp, cá nhân
- Chủ thể trung gian môi giới, đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho
vay như Ngân hàng thương mại, công ty môi giới chuyên nghiệp.
2.2.2.c. Các công cụ của thị trường tiền tệ gồm:
- Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (Negotiable certificates of deposit):
Phát hành có mệnh giá lớn; người gửi tiền có thể thương lượng lãi suất ngân
hàng.
- Tín phiếu kho bạc (T –bills): Do kho bạc phát hành nhằm mục đích cân đối tiền
mặt của Ngân sách nhà nước.
- Thương phiếu (Commercial paper -CP): Do các công ty lớn có uy tín phát hành
trong quá trình mua bán chịu hàng hóa. Thời gian ngắn ( tối đa 1 năm).
- Chấp nhận thanh toán của ngân hàng (banker’s acceptances –BAs): Do các
doanh nghiệp phát hành được bảo lãnh của ngân hàng.
- Hợp đồng mua bán lại (Repurchase agreement: Repo): là một thỏa thuận mua
bán theo đó người bán đồng ý mua lại chứng khoán theo giá thỏa thuận với thời
gian được án định.
2.2.2.d. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ:
- Nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn.
- Nghiệp vụ này diễn ra chủ yếu giữa ngân hàng thương mại với các chủ thể khác
thông qua những hình thức: Cho vay bằng tiền và Cho vay dưới hình thức cầm
cố hoặc chiết khấu các chứng từ có giá.
- Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn.
Công cụ lưu thông chủ yếu là các trái phiếu ngắn hạn được phát hành từ thị
trường tiền tệ sơ cấp và sẽ được tổ chức mua bán tại thị trường tiền tệ thứ cấp.
Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn gắn với hoạt động mang tính thương
mại trên thị trường tiền tệ phát sinh trong trường hợp một số chủ thể kinh tế cần bổ
sung vốn bằng tiền của mình nên phát hành một lượng lớn trái phiếu ngắn hạn ra thị
trường, trong khi một số chủ thể kinh tế khác đang muốn sinh lợi cho khoản vốn nhàn
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 9


GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
rỗi của mình bằng con đường kinh doanh trên thị trường tiền tệ, họ sẽ mua các trái
phiếu ngắn hạn.
Ngoài ra còn có các loại giấy tờ có giá khác như kỳ phiếu thương mại, khế ước
nợ, kỳ phiếu ngân hàng, cá thoại thư tín dụng, chứng khoán ngắn hạn của nhà nước
2.2.3. Thị trường vốn
2.2.3.a. Khái niệm:
Thị trường vốn là nơi giao dịch các công cụ tài chính có kỳ hạn trên 1 năm, là nơi
cung ứng vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Thị trường vốn bao gồm:
- Thị trường vay nợ dài hạn, biểu hiện qua hoạt động của hai dạng thị trường phổ
biến là thị trường tín dụng thuê mua và thị trường vay thế chấp.
- Thị trường chứng khoán.
2.2.3.b. Các công cụ trên thị trường vốn:
Các công cụ trên thị trường vốn bao gồm hai loại chủ yếu: những công cụ vốn và
công cụ nợ có thời gian đáo hạn 1 năm. Công cụ vốn được biểu hiện dưới hình thức cổ
phiếu và công cụ nợ biểu hiện dưới hình thức trái phiếu .
2.2.3.c. Cổ phiếu:
Cổ phiếu là 1 loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu vốn góp vào công ty cổ
phần và quyền được hưởng cổ tức theo định kỳ.
Phân loại cổ phiếu:
- Căn cứ vào hình thức: cổ phiếu vô danh và cổ phiếu ký danh
- Căn cứ vào phương thức góp vốn: cổ phiếu hiện kim và cổ phiếu hiện vật
- Căn cứ vào quyền lợi được hưởng: cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường
2.2.3.d. Trái phiếu:
Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận 1 khoản vốn cho vay và quyền được
hưởng mức thu nhập theo định kỳ. Người mua trái phiếu là chủ nợ của đơn vị phát
hành và sẽ được hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.
Căn cứ vào chủ thể phát hành có: trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu nhà nước,
trái phiếu do chính quyền địa phương và trái phiếu do công ty đầu tư.

2.2.3.e. Các chủ thể hoạt động trên thị trường vốn:
Các chủ thể hoạt động trên thị trường vốn bao gồm: chủ thể phát hành chứng
khoán, người đầu tư, người môi giới chứng khoán, người kinh doanh chứng khoán,
người tổ chức thị trường, người điều hòa thị trường.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 10

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
PHẦN 3: VẬN DỤNG LÝ THUYẾT TTBCX TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH
3.1. Lý thuyết TTBCX trên thị trường tiền tệ
3.1.1. Tác động của TTBCX đối với các chủ thể trên thị trường tiền tệ
Như đã phân tích ở phần trên, thị trường tiền tệ là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn
hạn cho nền kinh tế, bao gồm hai hoạt động vay, cho vay vốn ngắn hạn và hoạt động
mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, trong đó hoạt động vay, cho vay vốn ngắn hạn là
hoạt động chủ yếu. Dưới đây ta sẽ đi sâu phân tích tác động của TTBCX đối với hoạt
động này.
TTBCX tác động tới các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng (kể cả ngắn hạn,
trung và dài hạn) trong cả 2 giai đoạn trước và trong quá trình thực hiện giao dịch dưới
hai dạng tác động cơ bản là lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức.
3.1.1.a. Sự lựa chọn bất lợi:
Tác động này xảy ra trước khi thực hiện giao dịch, ngân hàng bị khách hàng che
dấu một số thông tin dẫn đến việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng
không hiệu quả.
Khách hàng với dự án rủi ro càng cao sẽ thu được càng nhiều lợi nhuận nếu dự
án đó thành công , do đó họ là những người hăm hở nhất để được vay tiền. Họ sẵn
sàng chấp nhận mọi điều kiện của khoản vay nên thường là những người được lựa
chọn để cho vay.
Hậu quả của sự lựa chọn đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng cho khách
hàng có rủi ro cao. Rõ ràng họ là những người ít được mong đợi cho vay nhất bởi vì
khả năng không hoàn trả được nợ vay là rất lớn. Trong trường hợp này, các ngân hàng

sẽ có thể cắt giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù trên thị trường vẫn có
nhiều khách hàng tốt.
3.1.1.b. Rủi ro đạo đức:
Tác động này xảy ra sau cho vay, khi khách hàng có động cơ đầu tư vào những
dự án có độ rủi ro cao. Nếu dự án đó thành công khách hàng sẽ thu được lợi rất lớn,
ngược lại nếu dự án thất bại thì ngân hàng (người cho vay) sẽ phải gánh chịu hậu quả
do khách hàng thua lỗ.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 11

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
Rủi ro đạo đức cũng có thể xảy ra khi khách hành sử dụng vốn vay không đúng
mục đích, đầu tư vào dự án kém hiệu quả, lừa đảo ngân hàng…Nghĩa là có phát sinh
những động cơ dính líu vào các hoạt đọng không được người cho vay mong muốn.
Xung đột về lợi ích giữa người vay và ngân hàng là vấn đề rủi ro đạo đức dẫn đến tình
trạng một số ngân hàng quyết định giảm cho vay, ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.
Có thể thấy rằng, vấn đề TTBCX xảy ra khi các khách hàng không có đầy đủ
thông tin từ phía khách hàng của mình mặc dù đã có nhiều nổ lực trong công tác thẩm
định. Nói một cách đơn giản, do cơ chế sàng lọc chưa đủ hiệu lực nên các ngân hàng
đã để “lọt” những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin của khâu trong
giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao.
Như vậy, chuẩn đoán không tốt vấn đề TTBCX có thể là nguyên nhân của “nợ
xấu” từ đó gây ra những trục trặc trong hoạt động tín dụng hệ thống ngân hàng Việt
Nam.
Rõ ràng, vấn đề TTBCX trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương
mại gây ra hậu quả không chỉ với hoạt động của ngân hàng thương mại mà còn tác
động đến nền kinh tế. Trong hoạt động tín dụng, các Ngân hàng luôn là người có rất ít
thông tin về dự án, về mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hơn khách hàng, do
đó để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình, bản thân các tổ chức tin dụng phải
xử lý TTBCX để hạn chế lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại nhằm cho vay đúng người
đúng đối tượng và giám sát chặt chẽ để khách hàng vay vốn có hành vi đúng đắn

nhằm đảm bảo việc thu cả vốn và lãi khoản tín dụng được cấp ra.
3.1.2. Thực trạng hoạt động của thị trường tiền tệ dưới tác động của TTBCX
Theo báo cáo thường niên của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, đến cuối tháng
9.2013, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống chiếm 4,62% trên tổng dư nợ, giảm so với mức
8% của cuối năm 2012. Hiện tại, công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt
Nam (VAMC) đã tích cực mua nợ xấu, tính đến ngày 20.11 VAMC đã mua 17.700 tỉ
đồng nợ xấu của các ngân hàng. Vì vậy, có thể kỳ vọng nợ xấu các ngân hàng sẽ giảm
xuống trong quý 4/2013.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào hoạt động ngân hàng sẽ thấy nợ xấu vẫn là vấn đề gai
góc khi tình trạng “doanh nghiệp không lừa đảo nhưng kinh tế khó khăn, không bán
được hàng nên không trả được nợ” đang xảy ra thường xuyên.
Nguyên nhân thực tế của nợ xấu hiện nay gồm:
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 12

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
Nguyên nhân khách quan:
- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên, thiên tai, hạn hán, bão lụt…
- Do biến động của môi trường kinh tế thế giới như khủng hoảng…
Nguyên nhân chủ quan:
- Tác động của các chính sách vĩ mô như: môi trường pháp lý chưa thuận lợi
và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển
khai.
- Công tác thống kê, dự báo còn hạn chế dẫn đến những điều chỉnh torng
chính sách tiền tệ của NHNN chưa theo kịp diễn biến của nền kinh tế
- Sự thanh tra, kiểm tra giám sát chưa hiệu quả.
- Hệ thống thông tin còn yếu kém, bất cập
- NHTM lạm dụng tài sản thế chấp
- Thiếu kiểm soát vốn vay
- Sự lỏng lẻo trong kiểm soát nội bộ ngân hàng
- Năng lực, đạo đức của đội ngũ cán bộ tín dụng còn hạn chế

- Sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh.
- Sự hợp tác giữa các NHTM lỏng lẻo.
Nguyên nhân từ phía khách hàng.
- Năng lực quản lý vốn, năng lực tài chính của khách hàng yếu kém.
- Năng lực quản trị kinh doanh yếu kém.
- Khách hàng cố ý không trả nợ
- Khách hàng cung cấp thông tin không trung thực khi làm hồ sơ vay
3.2. Giải pháp khắc phục
3.2.1. Về phía chính phủ:
Xây dựng cơ sở pháp lý hoàn thiện:
- Quy định về điều kiện cấp tín dụng.
- Quy định về điều kiện đảm bảo tiền vay.
- Quy định về việc thẩm định, xét duyệt cho vay và thẩm định thu hồi vốn
vay.
Với các quy định pháp lý nêu trên, tổ chức tín dụng được tự chủ và phải chịu
trách nhiệm về hoạt động tín dụng của mình, đồng thời đảm bảo điều kiện để ngân
hàng có thể tìm đúng khách hàng, đúng dự án để cấp tín dụng và giám sát để khách
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 13

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
hàng thực hiện những hành vi đúng sau khi đươc cấp tín dụng để hoàn trả cho ngân
hàng khoản tín dụng được cấp.
Hoàn thiện Hệ thống thông tin tín dụng:
Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam (CIC) là tổ chức duy
nhất thực hiện công tác thu thập thông tin của các khách hàng có quan hệ tín dụng với
tất cả các tổ chức tín dụng. Cơ chế thu thập thông tin của CIC theo quy chế hoạt động
thông tin tín dụng do Nhà nước Việt Nam ban hành. Trong đó quy định các tổ chức tín
dụng theo định kỳ có trách nhiệm báo cáo các thông tin liên quan đến khách hàng cho
CIC và các tổ chức tín dụng được quyền khai thác thông tin của CIC.
Cần cập nhật thường xuyên, liên tục và đầy đủ hơn thông tin khách hàng để cung

cấp cho Ngân hàng thương mại lấy làm căn cứ, tham khảo khi xét duyệt hồ sơ vay.
3.2.2. Về phía Ngân hàng:
Hoàn thiện quy trình tín dụng:
Để đảm bảo thực hiện đúng các quy định liên quan của Nhà nước đến các công
tác tín dụng ĐTPT đòi hỏi NHTM phải thường xuyên cập nhật, hệ thống hóa và hoàn
thiện các quy trình thẩm định cho phù hợp.
Hoàn thiện bộ máy quản lý rủi ro:
NHTM phải xây dựng và hoàn thiện bộ máy Quản Lý Rủi Ro (QLRR) phù hợp
với thông lệ quốc tế, trong đó quan trọng nhất là hình thành bộ phận QLRR ở Hội sở
chính và ở các Chi nhánh. Trong đó, bộ phận QLRR phải hoạt động theo nguyên tắc
không tham gia vào quá trình tạo ra rủi ro.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định năng lực chủ đầu tư, thẩm định dự
án vay vốn:
Công tác thẩm định cần được thay đổi căn bản trên cơ sở việc quản lý tiến dụng
theo khách hàng chứ không phải quản lý theo dự án. Để nâng cao chất lượng thẩm
định, cần bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm trong công tác thẩm
định, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khóa học về thẩm định dự án để cập
hật thông tin, cách thức thẩm định. Đồng thời, khi thẩm định cần chú trọng công tác
thu thập, xử lý thông tin về dự án, khoản vay; áp dụng các chỉ tiêu thẩm định như:
NPV, IRR, phân tích độ nhạy…Và đặc biệt chú ý việc thẩm định năng lực, uy tín, khả
năng tài chính của khách hàng.
Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ gồm:
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 14

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
Các cơ sở pháp lý liên quan đến thành lập và ngành nghề kinh doanh của khách
hàng
Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính, tài
sản, khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết
Uy tín với các TCTD đã giao dịch trước đây

Các tiêu chí đanh giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống (đánh giá yếu tố
ngành nghề, địa phương) trên cơ sở đó xếp hạng cụ thể đối với khách hàng. Kết quả
xếp hạng tín dụng nội bộ là cơ sở để NHTMVN xác định giới hạn tín dụng; xác định
các điều kiện tín dụng thích hợp với khách hàng; tiến hành phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro theo quy định.
Tăng cường kiểm tra giám sát, quản lý nợ vay:
Việc tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý nợ vay là biện pháp quan trọng
nhằm hạn chế RRTD đối với Ngân hàng, nhất là rủi ro đạo đức khi khách hàng sử
dụng vốn vay sai mục đích. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi tiền vay phải được
chuyển trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng. Việc giải ngân phải được thực hiện qua hệ
thống thanh toán của NHTM; định kỳ (quí) phải phân tích, đánh giá tình hình tài chính
của doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tài sản; đảm bảo
tiền vay và tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng đặc biệt khách hàng có nợ
quá hạn, lãi treo.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra nội bộ:
Để hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ thì
công việc này cần phải tiến hành theo hướng tổ chức lại bộ máy và hoạt động của Ban
kiểm soát và Ban kiểm tra nội bộ (KTNB) tại hội sở chính.
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro
Để có thể triển khai có hiệu quả các biện pháp nhằm hạn chế RRTD thì NHTM
phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro thông
qua việc tăng cường thu thập thông tin về khách hàng, dự án, thông tin về kinh tế- Xã
hội; ngành hàng, thị trường…Thông qua các kênh thông tin khác nhau; đồng thời phải
sàng lọc, xử lý và lưu trữ thông tin cho khoa học, và phải tăng cường đầu tư nâng cấp
hệ thống công nghệ thông tin, các phần mềm nghiệp vụ và khẩn trương thực hiện tốt
các thanh toán cho khách hàng.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 15

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
Thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro như đối với các

ngân hàng thương mại, đẩy mạnh công tác xử lí rủi ro. Nâng cao trình độ cán bộ tín
dụng về năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của việc
thực hiện các biện pháp hạn chế RRTD. Để có thể tạo dựng nguồn nhân lực đủ mạnh,
đáp ứng được yêu cầu nhất là trong công tác quản lý RRTD, NHTM phải tập trung giải
quyết một số nhiệm vụ trọng tâm: Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ tín dụng; có chính sách
đào tạo và đãi ngộ hợp lý thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ đào tao, cơ
hội thăng tiến đối với những cán bộ làm công tác tín dụng, thẩm định, QLRR. Đồng
thời, NHTM cũng cần phải ban hành qui định liên quan đến vấn đề trách nhiệm cá
nhân (nhất là trách nhiệm vật chất) trong việc để xảy ra rủi ro gây tổn thất về tài sản
cho ngân hàng.
3.2.3. Về phía khách hàng
Người đi vay phải phát tín hiệu rằng mình là người có khả năng trả được nợ tốt.
Vấn dề phát tín hiệu trong trường hợp này là: Uy tín của công ty, qui mô và danh
tiếng công ty, năng lực tài chính, tài sản đảm bảo…
Sử dụng hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính:
Hệ thống thông tin kế toán và cáo cáo tài chính là một cơ sở cực kỳ quan trọng
giúp cho các bên có liên quan nắm bắt tình hình taì chính của doanh nghiệp. Nếu một
hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính không được tổ chức tốt, không minh
bạch và có độ tin cậy cao sẽ rất khó có thể căn cứ để xem xét “sức khỏe” của doanh
nghiệp.
Theo Nghị định về kiểm toán độc lập, trừ một một số loại hình doanh nghiệp
phải thực hiện việc kiểm toán như bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, số còn lại (chủ yếu các doanh nghiệp hoạt
động theo luật doanh nghiệp), nhà nước chỉ khuyến khích các doanh nghiệp chỉ thực
hiện các báo cáo tài chính. Mặt khác, tại các tổ chức tín dụng chưa yêu cầu khách hàng
đến xin cấp tín dụng phải có báo cáo tài chính được kiểm toán.
Việc sử dụng các báo cáo tài chính để làm căn cứ thẩm định dự án của các tổ
chức tín dụng chưa có đủ độ tin cậy như phát biểu của Phó tổng giám đốc Ngân hàng
Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam – Ông Lê Đào Nguyên “ Các DN vừa và nhỏ thường

xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế; báo cáo chính
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 16

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
thức (báo cáo được pháp luật công nhận) thường thấp hơn tình trạng thực tế, không
đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng”.
Những vấn đề nêu trên đã tạo ra kẽ hở để một doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ
sách báo cáo kế toán, thường là 3.
 Một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn thực tế).
 Một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo thường hơn thực tê).
 Một dùng cho nội bộ (số liệu thực).
Với tình trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó
nhận biết tình trạng thực để:
 Phát triển thương hiệu
 Tham gia hoạt động bình chon (hàng Việt Nam chất lượng cao, Sao Vàng
Đất Việt,…)
3.3. Lý thuyết TTBCX trên thị trường vốn
3.3.1. Tác động của TTBCX đối với các chủ thể trên thị trường vốn
Như đã phân tích ở trên, Thị trường vốn bao gồm thị trường tín dụng trung và dài
hạn và thị trường chứng khoán. Tác động của TTBCX đối với thị trường tín dụng
trung và dài hạn cũng tương tự như đối với tín dụng ngắn hạn đã phân tích. Trong
phạm vi thị trường vốn, chúng ta tập chung nghiên cứu tác động của TTBCX đối với
thị trường chứng khoán.
Trên thực tế, nhà đầu tư nào cũng mong muốn đạt được lợi nhuận kho tham gia
bất kỳ thị trường nào. Đối với thị trường chứng khoán, nhà đầu tư thu được lợi nhuận
từ việc mua đúng vào cổ phiếu giá thấp và có thể bán được cổ phiếu đó với giá cao.
Thực tế, chỉ có công ty niêm yết mới biết được giá trị thực của các cổ phiếu.Nhà đầu
tư chỉ có thể phán đoán dựa trên thông tin sẵn có trên thị trường hoặc các thông tin
ngoài lề không xác định được độ tin cậy.
TTBCX gây ra sự lựa chọn bất lợi đối với các nhà đầu tư. Các doanh nghiệp có

thể chỉ cung cấp thông tin tốt về doanh nghiệp mình, các thông tin bất lợi hoàn toàn
giữ kín.Dẫn đến tình trạng nhà đầu tư không có đầy đủ thông tin, chỉ tập trung vào bề
nổi của doanh nghiệp.Nhà đầu tư lúc này hoàn toàn rơi vào sự lựa chọn bất lợi hơn so
với các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 17

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
Ngoài ra, có một số doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng
vào đầu tư sản xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc “làm giá” trên thị trường
chứng khoán gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, nhiều nhà đầu tư còn lợi dụng TTBCX để cung cầu ảo trên thị
trường dẫn đến phản ánh sai lệch giá trị của doanh nghiệp. Hoặc một số nhà đầu tư tạo
thông tin thất thiệt làm ảnh hưởng đến việc kêu gọi đầu tư của các doanh nghiệp khác.
Thị trường chứng khoán là thị trường rất nhạy cảm với thông tin. Chính vì thế
các thông tin không chính xác, sai lệch, các tin đồn thất thiệt do doanh nghiệp hay nhà
đầu tư gây ra đều có thể tạo ra các quyết định đầu tư sai lầm, gây ra hiện tượng cung
cầu ảo, thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ sụp đổ thị trường.
3.3.2. Thực trạng hoạt động của thị trường vốn dưới tác động của TTBCX
TTBCX khiến thị trường chứng khoán Việt Nam xảy ra ba hiện tượng phổ biến.
Đó là hiện tượng thiếu nguồn thông tin chính xác, hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc
không được phép công khai đặc biệt là trong công tác đấu giá cổ phiếu và hiện tượng
lừa đảo chứng khoán
3.3.2.a. Hiện tượng thiếu nguồn thông tin chính xác:
Các doanh nghiệp chỉ cung cấp các thông tin bắt buộc theo luật định phải công
bố cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, các nhà đầu tư không được cung cấp đầy đủ và kịp
thời các thông tin khác của doanh nghiệp mà mình đầu tư. Đặc biệt, đối với các công
ty có cổ phiếu giao dịch trên thị trường phi chính thức, các nhà đầu tư hầu như không
năm rõ tình hình làm ăn, hoạt động của công tin mình là chuyện thường xuyên xảy ra.
Tháng 3 năm 2013, trên thị trường chứng khoán Việt Nam có tin đồn ông Trần
Bắc Hà, Chủ tịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) bị bắt. Ngay khi

vừa xuất hiện tin đồn, hàng loạt cổ phiếu bị “bán tháo”, các chỉ số chứng khoán sụt
giảm mạnh như VN-Index giảm 18 điểm, tương đương 3,36%, còn HNX-Index giảm
3,35 điểm, tương đương -5,3%. Gần 430 mã chứng khoán giảm điểm, trong đó 148 mã
giảm sàn.Vốn hóa của thị trường chứng khoán đã mất 29.000 tỷ trong chỉ 1 phiên giao
dịch.
Một thực trạng nữa là đối với các công ty chào bán lần đầu ra công chúng thực
hiện đấu giá tại cơ sở, Ban giám đốc công ty có xu hướng che giấu các thông tin để
“dìm giá“ sao cho những người nội bộ công ty có thể mua được cổ phiếu với giá thấp.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 18

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
3.3.2.b. Hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai đặc biệt
là trong công tác đấu giá cổ phiếu:
Hiện nay, quy chế đấu giá do Ủy ban Chứng khoán ban hành chỉ yêu cầu các
Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố tổng số nhà đầu tư tham gia đấu giá và tổng
lượng cổ phiếu đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến việc đặt
giá như số lượng nhà đầu tư tổ chức/nhà đầu tư nước ngoài tham gia đấu giá; số lượng
cổ phiếu đặt mua của các đối tượng này, lại không được công bố cụ thể. Những thông
tin này không được bảo mật chặt chẽ mà được cung cấp một cách riêng lẻ cho những
đối tượng có nhu cầu.Những người nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của
thị trường, các cá nhân tổ chức nào tham gia đấu giá sẽ tính toán được hợp lý mức giá
mà mình bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với các nhà đầu tư khác không có thông tin.
Vào tháng 6 năm 2012, khi Ủy ban Chứng khoán Việt Nam thực hiện kiểm tra
tình hình chứ khoán 6 tháng đầu năm tại 12 công ty chứng khoán lien quan đến giao
dịch của các cổ phiếu đang niêm yết trên 2 sở giao dịch chứng khoán đã phái hiện
hàng loạt sai phạm. Chủ yếu là tình trạng các công ty chứng khoán cho nhà đầu tư bán
chứng khoán trước, cho nhà đầu tư vay tiền để mua chứng khoán.Các nhà đầu tư lại lợi
dụng tài khoản giao dịch ủy quyền để thao túng giá cổ phiếu, tạo ra những rủi ro về
tính thanh khoản, tính minh bạch và sự ổn định của thị trường.
3.3.2.c. Hiện tượng lừa đảo chứng khoán:

Đây không phải là hiện tượng phổ biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam
nhưng rất đáng cảnh báo các nhà đầu tư nghiệp dư, đặc biệt những người không có
kiến thức về chứng khoán và kinh tế lại có tham vọng làm giàu bằng kinh doanh chứng
khoán.
Tháng 11 năm 2013, trên thị trường chứng khoán đã xảy ra vụ án lừa đảo 380 tỷ
đồng tại Công ty chứng khoán SME. Bằng thủ đoạn gian dối, tạo dựng bên B, đưa các
mã chứng khoán khống vào hợp đồng hợp tác đầu tư chứng khoán niêm yết, hợp đồng
ủy thác, cầm cố với Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI), Công ty
cổ phần đầu tư tài chính Công đoàn dầu khí Việt Nam (PVFI) và ngân hàng
Habubank, Công ty chứng khoán SME đã lừa đảo thành công hơn 380 tỷ đồng.

3.3.3. Giải pháp khắc phục
Mặc dù có sự khác biệt rất lớn giữa hai thị trường tín dụng và thị trường chứng
khoán, nhưng với mục tiêu chung, hạn chế những hệ quả xấu do TTBCX gây ra ở cả
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 19

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
hai thị trường, yêu cầu bất thiết và hàng đầu của tất cả các cá nhân tham gia hai thị
trường này đó là minh bạch thông tin.
Các thông tin đưa ra cần phải được minh bạch và đạt được độ chính xác, tin cậy
cao.Với mỗi thị trường khác nhau, cần có hệ thống thông tin khác nhau, hoạt động độc
lập nhưng có thể hỗ trợ thông tin cho nhau trong trường hợp cần thiết. Thông tin phải
minh bạch, hạn chế tối đa lượng thông tin dư thừa của tất cả các bên đang tham gia
hoạt động trên thị trường. Để làm được điều đó, cần phải có sự hợp tác của tất cả các
thành phần đang đồng thời tồn tại và hoạt động trên thị trường.
Ngoài việc xây dựng thông tin minh bạch, mỗi thị trường cũng sẽ có các giải
pháp riêng biệt để đảm bảo lượng TTBCX được hạn chế tối đa.
Muốn có sự minh bạch thông tin trong thị trường chứng khoán thì phải cần có sự
phối hợp giữa nhà nước lẫn các doanh nghiệp và cá nhân tham gia thị trường này.
Về phía nhà nước, đặc biệt là Ủy ban Chứng khoán, hoàn thiện khung pháp lý về

công bố thông tin, tăng cường cơ chế giám sát và xử lý vi phạm công bố thông tin là
một trong những yêu cầu hàng đầu. Việc hoàn thiện khung pháp lý sẽ góp phần tạo ra
thị trường chứng khoán minh bạch hơn, hoàn thiện hơn và hạn chế được một phần khá
lớn tình trạng TTBCX.
Bản thân các doanh nghiệp có thể đặt ra các nguyên tắc về quản trị công ty, nhất
là những doanh nghiệp niêm yết để tăng cường minh bạch thông tin.Các doanh nghiệp
có thể bắt đầu từ việc thiết lập quy chế quản trị sao cho phù hợp, có hiệu quả và thuận
lợi cho việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Cần lưu ý, các quy định về Đại hội
Cổ Đông phải chặt chẽ và rõ ràng, tránh trường hợp Ban lãnh đạo thu lợi riêng mà đưa
ra thông tin sai lệch.
Ngoài các biện pháp trên, quan trọng nhất vẫn là nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và kiến thức của các nhà đầu tư. Để làm được điều này, các công ty có thể tận
dụng từ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và kinh nghiệm của các nước đã phát triển
để nâng tầm kiến thức chứng khoán của nguồn nhân lực nước ta lên tầm cao mới.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 20

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
PHẦN 4: KẾT LUẬN
Qua những phân tích, nhận định nêu trên, chúng ta đã nhận thấy tầm quan trọng
của Thông tin và mức độ ảnh hưởng của Thông tin tới hoạt động của thị trường tài
chính nói riêng và đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Để chuẩn bị tốt cho việc tham gia giao dịch đòi hỏi các chủ thể tham gia trước
tiên phải thu thập thông tin, kiểm tra, đánh giá thông tin một cách thận trọng, khoa học
để làm cơ sở ra các quyết định sau này trong quá trình thực hiện giao dịch và để hạn
chế hoặc giảm thiểu tổn thất, rủi ro có thể xảy ra.
Để làm được điều này đòi hỏi cả các bên tham gia giao dịch phải:
- Tuân thủ nguyên tắc trung thực khi cung cấp thông tin,
- Khách quan, thận trọng khi đánh giá thông tin và ra quyết định
- Đồng thời phải có sự minh bạch thông tin của Nhà nước với vai trò là
người điều tiết hoạt động của thị trường tài chính

- Phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh tình trạng
cung cấp thông tin sai lệch…
Có như vậy mới có thể có được một thị trường tài chính lành mạnh, bảo đảm
được lợi ích chung của các bên tham gia. Đó cũng chính là mục tiêu phấn đấu chung
của tất cả các thị trường và các quốc gia trên thế giới.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng, vận dụng trên thị trường tài chính Việt Nam Trang 21

GVHD: ThS. Trương Minh Tuấn Nhóm 02
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Nhập môn Tài chính - Tiền tệ - Trường ĐHKT TP.HCM
2. Wikipedia
3. Mof.gov.vn
4. Sbv.gov.vn
5. Saga.vn
Doko.vn

×