Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM




VŨ THỊ PHƯƠNG THỦY


TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ





TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM



VŨ THỊ PHƯƠNG THỦY

TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM


Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN QUỐC KHANH






TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013


LỜI CAM ĐOAN

Nội dung và số liệu phân tích trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc
lập của học viên và chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Học viên



Vũ Thị Phương Thủy
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
DANH MỤC CÁC HÌNH
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LẠM
PHÁT 4
1.1. Chính sách tiền tệ: 4
1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ 4
1.1.2. Phân loại chính sách tiền tệ 5
1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ 5
1.1.4. Vai trò của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ 8
1.2. Lạm phát, nguyên nhân và tác động của lạm phát đến nền kinh tế 10
1.2.1. Khái niệm về lạm phát 10
1.2.2. Phân loại lạm phát 12
1.2.3. Nguyên nhân của lạm phát 13
1.2.4. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế 15
1.2.5. Các biện pháp kiểm soát lạm phát 17
1.3. Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và lạm phát trong một nền kinh tế 18
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 23
2.1. Tóm tắt thực trạng chính sách tiền tệ và lạm phát 23
2.1.1. Chính sách tiền tệ và lạm phát từ năm 1995 - 1999 23
2.1.2. Chính sách tiền tệ và lạm phát từ năm 2000 - 2005 23


2.1.3. Chính sách tiền tệ và lạm phát từ năm 2006 - 2012 24
2.2. Tổng quan về các nghiên cứu tác động điển hình về chính sách tiền tệ và lạm
phát ở các nước 29
2.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới 29
2.2.2. Các nghiên cứu trong nước 31

2.3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu 32
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu 32
2.3.2. Mô tả dữ liệu 33
2.3.3. Cung tiền (M2) 33
2.3.4. Lãi suất (DR) 34
2.3.5. Tỷ giá danh nghĩa (ER) 35
2.3.6. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 35
2.4. Nội dung các kiểm định 36
2.4.1. Kiểm định tính dừng 36
2.4.2. Xác định độ trễ 39
2.4.3. Phân tích đồng liên kết Johansen 41
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 –
2013 44
3.1. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu lạm phát và chính sách tiền tệ 44
3.2. Xác định độ trễ tối ưu của chuỗi dữ liệu lạm phát và chính sách tiền tệ 45
3.3. Phân tích đồng liên kết Johansen 47
3.4. Phân tích VAR chuỗi số liệu lạm phát và và chính sách tiền tệ 52
3.4.1. Xem xét phản ứng của CPI đối với M2, DR, ER 52
3.4.2. Xem xét phản ứng CPI đối với M2, ER 54
3.4.3. Xem xét phản ứng CPI đối với M2, DR 55
3.4.4. Xem xét phản ứng CPI đối với DR, ER 57
3.4.5. Phản ứng của CPI đối với các công cụ riêng lẻ của chính sách tiền
tệ 58
CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015 63
4.1. Một số định hướng 63
4.2. Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi 64
4.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện và nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Nhà nước 65

4.4. Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ 66
4.4.1. Đối với công cụ hạn mức tín dụng 66
4.4.2. Đối với công cụ lãi suất 67
4.4.3. Đối với công cụ dự trữ bắt buộc 68
4.4.4. Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu 69
4.4.5. Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở 70
4.4.6. Đối với công cụ tỷ giá 71
KẾT LUẬN 73
TÀI LIỆU THAM KH

O
PHỤ LỤC 1: MÔ TẢ DỮ LIỆU
PHỤ LỤC 2: KIỂM ĐỊNH NGHIỆM CPI
PHỤ LỤC 3: KIỂM ĐỊNH NGHIỆM DR
PHỤ LỤC 4: KIỂM ĐỊNH NGHIỆM ER
PHỤ LỤC 5: KIỂM ĐỊNH NGHIỆM M2
PHỤ LỤC 6: XÁC ĐỊNH TRỄ TỐI ƯU
PHỤ LỤC 7: KIỂM ĐỊNH ĐỒNG LIÊN KẾT JOHANSEN
PHỤ LỤC 8: VAR CPI M2 ER DR
PHỤ LỤC 10: VAR CPI M2 DR
PHỤ LỤC 11: VAR CPI ER DR
PHỤ LỤC 12: VAR CPI M2
PHỤ LỤC 13: VAR CPI DR
PHỤ LỤC 14: VAR CPI ER


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
Diễn

giả
i
Gốc Tiếng Anh (nếu có)
CSTT
Chính sách tiền tệ
N/A
CSLP
Chỉ số lạm phát
N/A
CPI
Chỉ số giá tiêu dùng
Consumer price index
DTBB

Dự trữ bắt buộc
N/A
DR
Lãi suất
Deposit
ER
Tỷ giá danh nghĩa
Nominal exchange rate
NHNN
Ngân hàng nhà nước
N/A
NHTW
Ngân hàng Trung Ương.
N/A
NHTM
Ngân hàng thương mại

N/A
M2
Cung tiền
Money supply
VAR
Tự hồi quy vectơ
Vector Autoregressive
N/A: không áp dụng từ Tiếng Anh

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Kết quả kiểm định tính dừng bằng ADF không trend
Bảng 3.2 Kết quả kiểm định tính dừng bằng ADF có trend
Bảng 3.3: Xác định trễ tối ưu theo các tiêu chuẩn kiểm định
Bảng 3.4: Kiểm định Portmanteau và LM
Bảng 3.5: Bảng tóm lược mối quan hệ dài hạn giữa lạm phát và chính sách tiền tệ





DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

Đồ thị 1: Tình hình cung tiền M2 qua các năm
Đồ thị 2: Tình hình lãi suất qua các năm
Đồ thị 3: Tình hình tỷ giá qua các năm
Đồ thị 4: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam qua các năm
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1: Đồ thị phản ứng của lạm phát với chính sách tiền tệ

Hình 3.2: Đồ thị phản ứng của lạm phát với ER, M2
Hình 3.3: Đồ thị phản ứng của lạm phát với DR, M2
Hình 3.4: Đồ thị phản ứng của lạm phát với DR, ER
Hình 3.5: Đồ thị phản ứng của lạm phát với M2
Hình 3.6: Đồ thị phản ứng của lạm phát với DR
Hình 3.7: Đồ thị phản ứng của lạm phát với ER

1


LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Bàn về chính sách tiền tệ và các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế trong đó có
lạm phát luôn là vấn đề thường trực trong thực tiễn của kinh tế học cũng như trong
việc điều hành chính sách nhà nước. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ là một công cụ
cực kì quan trọng của nhà nước trong điều hành nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh
hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm
phát. Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ
của nó có vai trò cơ bản, quyết định. Tuy nhiên, tác động của chính sách tiền tệ lên
các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế trong đó có lạm phát ở từng thời điểm, từng
hoàn cảnh có những sắc thái riêng khác nhau.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các
công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với
nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ
nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề
thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong
bối cảnh hội nhập của nước ta hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ
thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực

tiễn cao. Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài: “Tác động chính sách tiền tệ đến lạm
phát tại Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản, cốt lõi và bản chất của lý thuyết
chính sách tiền tệ tác động đến lạm phát.
- Sử dụng mô hình để đo lường kiểm định lý thuyết chính sách tiền tệ tác
động đến lạm phát Việt Nam trong giai đoạn từ quý 1 năm 1995 đến quý 1 năm
2013.
2

- Từ kết quả kiểm định, tác giả đưa ra những gợi ý về điều hành chính
sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiêm cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề về lý luận liên quan đến chính sách tiền tệ và
lạm phát; những tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát theo phương diện lý
thuyết cũng như thực tiễn của Việt Nam.
- Chính sách tiền tệ có rất nhiều công cụ tác động đến lạm phát với đề tài
này tác giả lựa chọn có ba công cụ trong chính sách tiền tệ để khảo sát và chạy mô
hình. Ba công cụ đó là cung tiền M2, lãi suất tiền gửi và tỷ giá hối đoái.
- Đánh giá thực trạng tác động chính sách tiền tệ đến lạm phát Việt Nam
giai đoạn quý 1 năm 1995 đến quý 1 năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Trong phân tích định
lượng, luận văn sử dụng mô hình VAR (công cụ tin học Eviews), mô hình VAR
được xem là linh hoạt vì nó có thể chứa nhiều mối quan hệ qua lại giữa các biến số
kinh tế vĩ mô, dựa trên lý thuyết kinh tế và lần lượt cho phép ta xác định được
những cú sốc tiền tệ trực giao. Trong mô hình này, tác giả thiết lập mối quan hệ
giữa chính sách tiền tệ và lạm phát, sau đó đánh giá tác động của chính sách tiền tệ
đến lạm phát và sử dụng một số mô hình kinh tế lượng khác với các cơ sở dữ liệu
quý. Nguồn số liệu lấy từ Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng nhà nước.

5. Những điểm mới và hạn chế của luận văn:
Điểm mới của đề tài này là xem xét diễn biến khi kết hợp đồng thời ba công
cụ hay kết hợp 1 - 2 công cụ chính sách tiền tệ hoặc xem xét riêng lẻ từng công cụ
là cung tiền M2, lãi suất tiền gửi và tỷ giá hối đoái tác động đến lạm phát. Ngoài ra,
tác giả dùng phương pháp đồng liên kết Johansen xem xét sự điều chỉnh của ba
công cụ chính sách tiền tệ trong cân bằng dài hạn. Bên cạnh đó, tác giả dùng hàm
phản ứng đẩy của mô hình vector tự quy (VAR) để xem ngay khi có tác động lạm
phát trong ngắn hạn thì ba công cụ của chính sách tiền tệ có tính động tăng hay
giảm. Bộ dữ liệu nghiên cứu là từ quý 1 năm 1995 đến quý 1 năm 2013.
3


Việc xem xét ba công cụ của chính sách tiền tệ là tỷ giá hối đoái, lãi suất tiền
gửi, cung tiền M2 tác động đến lạm phát cũng là một hạn chế vì trên thực tế còn
nhiều các công cụ tiền tệ khác có tác động tới lạm phát như nghiệp vụ thị trường
mở, lãi suất chiết khấu, hạn mức tín dụng.
6. Kết cấu của đề tài: Đề tài có 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ và lạm phát.
Trong chương này, tác giả viết về các luận điểm lý thuyết về chính sách tiền
tệ như khái niệm, phân loại chính sách tiền tệ, các công cụ và vai trò của chích sách
tiền tệ. Về lạm phát, tác giả viết về khái niệm, phân loại, nguyên nhân và tác động
của lạm phát đến nền kinh tế cũng như mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và lạm
phát.
Chương 2: Phân tích tác động của chính sách tiền tện đến lạm phát tại Việt
Nam
Đối với chương này, tác giả trình bày thực trạng chính sách tiền tệ giai đoạn
1995 – 2012, mô tả các biến được dùng trong nghiên cứu và nội dung các kiểm định
mà tác giả sử dụng trong đề tài này.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu tác động chính sách tiền tệ đến lạm phát Việt
Nam giai đoạn 1995 - 2013.

Trong chương này, tác giả trình bày kết quả chạy mô hình VAR mà tác giả
đã khảo sát trong giai đoạn nghiên cứu.
Chương 4: Giải pháp kiểm soát tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát
tại Việt Nam đến năm 2015.
Đối với chương này, tác giả nêu lên một số giải pháp kiểm soát tác động của
các công cụ chính sách tiền tệ đến lạm phát như là tạo điều kiện, môi trường thuận
lợi và nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hành nhà nước để
việc điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả.

4

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT
1.1. Chính sách tiền tệ:
1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Trong kinh tế học vĩ mô, chính sách tiền tệ được coi là một công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô do ngân hàng trung ương (NHTW) thực hiện. Chính sách tiền tệ
(CSTT) là tổng thể các biện pháp, các công cụ của NHTW sử dụng để điều tiết khối
lượng tiền, tín dụng nhằm ổn định tiền tệ, thực hiện các mục tiêu của chính sách
tiền tệ. Thực chất CSTT là chính sách cung tiền của NHTW. NHTW căn cứ vào
thực trạng của nền kinh tế, thực trạng điều chỉnh lượng tiền cung ứng bằng cách
tăng hay giảm khối lượng cung tiền cho phù hợp với tổng cầu, nhằm duy trì sự cân
bằng giữa cung và cầu tiền.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường.
Theo nghĩa rộng thì CSTT là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong
nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ
sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền,
ổn định giá cả. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền
cung ứng trong thời kỳ tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh
tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định
giá cả hàng hóa.

Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung
vào thành phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khóa của nhà nước, thì CSTT quốc
gia tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao
gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều hành hệ thống tiền
tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy
hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm
soát hệ thống các ngân hàng thương mại, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp
lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế ngoại thương nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn
định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa. Chính vì vậy
chính sách tiến tệ tác động nhạy bén tới lạm phát.
5


1.1.2. Phân loại chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ thường là chính sách mở rộng, hoặc là chính sách thắt
chặt, một chính sách mở rộng làm gia tăng tổng cung tiền trong nền kinh tế hoặc
làm giảm lãi suất, và một chính sách thắt chặt làm giảm quy mô cung tiền hoặc gia
tăng lãi suất. Theo truyền thống chính sách mở rộng được dùng để chống nạn thất
nghiệp trong tình trạng suy thoái bằng cách hạ thấp lãi suất, trong khi chính sách
thắt chặt nhằm mục tiêu tăng lãi suất để chống lạm phát (hoặc làm nguội nền kinh tế
quá nóng).
Chính sách tiền tệ mở rộng: khi nền kinh tế thiếu tiền thì NHNN sẽ bơm một
lượng tiền vào nền kinh tế qua các ngân hàng thương mại bằng các công cụ điều tiết
vĩ mô như: lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thụ trường mở, lãi
suất cơ bản.
Chính sách tiền tệ thu hẹp: khi nền kinh tế thừa tiền thì NHNN sẽ rút bớt một
lượng tiền ra khỏi nến kinh tế cũng qua các ngân hàng thương mại và bằng các công
cụ điều tiết.
Chính sách tiền tệ trong tương lai được coi là thích hợp nếu chuyên gia tiền
tệ ở Trung ương quy định lãi suất dự định dùng nó để khuyến khích phát triển kinh

tế, trung lập nếu dự định không dùng nó để khuyến khích phát triển kinh tế hay
chống lạm phát, hoặc là chặt nếu dự định dùng nó để giảm lạm phát.
1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ có 6 công cụ sau:
Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối
với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương
mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho
Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu
hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay)
của các Ngân hàng thương mại.
6

Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua
bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có
giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác
động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm
tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện
chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm
bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó
là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ
trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi
suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành
chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của
các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung
ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh
tế.
Tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và

đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ
cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại
tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập
khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn
đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính
sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở
nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công
cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên, có một cách phân loại khác là căn cứ vào mức độ và phương pháp
tác động, các công cụ chính sách tiền tệ thông thường được chia thành 2 loại: công
cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp. Hệ thống các công cụ trực tiếp thường được áp
7


dụng phổ biến ở các quốc gia mà hoạt động tài chính tiền tệ chiụ sự kiểm soát chặt
chẽ đồng thời các yếu tố nền tảng của các công cụ chính sách tiền tệ và nền kinh tế
chưa phát triển hoàn thiện, đó là các công cụ như ấn định lãi suất tiền gửi và cho
vay, ấn định hạn mức tín dụng, phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư,
phát hành lượng trái phiếu nhà nước để làm giảm lượng tiền trong lưu thông…
mang nặng biện pháp hành chính. Trong khi đó, hệ thống các công cụ gián tiếp như
dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, ….
lại thường sử dụng ở các quốc gia phát triển.
Với đề tài nghiên cứu này, tác giả không khảo sát toàn bộ các công cụ của
chính sách tiền tệ mà chỉ lựa chọn có 3 công cụ của chính sách tiền tệ để nghiên
cứu. Vì theo tác giả, ba công cụ này là 3 công cụ thường được ngân hàng nhà nước
(NHNN) Việt Nam sử dụng đó là cung tiền, lãi suất cơ bản và tỷ giá hối đoái.
Cung tiền là một khái niệm dùng để chỉ lượng cung cấp tiền tệ trong nền kinh
tế nhằm đáp ứng nhu cầu mua hàng hóa, dịch vụ, tài sản, …của các cá nhân (hộ gia
đình) và doanh nghiệp (không kể các tổ chức tín dụng). Để điều tiết lượng cung tiền

của ngân hàng trung ương có thể thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng
thương mại, qua đó thay đổi lượng tiền dự trữ R, và tổng lượng cung tiền M.
Công thức tính lượng cung tiền:
m = M / H = (C+D) / (C+R)
Trong đó:
m là số nhân tiền tệ
M là tổng lượng cung tiền
H là lượng cung tiền có mãnh lực
C là lượng tiền mặt
D là lượng tiền gửi
R là lượng tiền mà các ngân hàng thương mại phải dự trữ và để trong tài
khoản của họ tại ngân hàng trung ương
Ngoài ra, ngân hàng trung ương còn có thể điều chỉnh, bán các giấy tờ có giá
của mình đối với các tổ chức tín dụng, từ đó tác động tới lượng vốn khả dụng của
8

các tổ chức này. Khi đó lượng cung tiền cũng sẽ được điều tiết thông qua công cụ
nghiệp vụ thị trường mở.
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN
trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho
VND, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định
lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường
liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu
vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung cầu vốn. Theo Luật Dân sự,
các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản.
Như vậy lãi suất cơ bản là công cụ rất mạnh tác động trực tiếp đến lãi suất huy động
và cho vay của các NHTM.
Tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trong trong việc điều tiết thương mại quốc
tế và góp phần làm ổn định nền kinh tế. Sự thay đổi vể tỷ giá hối đoái sẽ kéo theo
sự thay đổi giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu. Đối với các quốc gia nhập siêu như

Việt Nam, việc tăng hay giảm tỷ giá hối đoái đều có tác động mạnh mẽ đến giá cả
hàng hóa trong nước.
1.1.4. Vai trò của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ
Vai trò của các công cụ thực thi CSTT chủ yếu để điều tiết kinh tế vĩ mô,
thông thường khi nói đến mục tiêu kinh tế vĩ mô thường tập trung vào bốn mục tiêu
chính sau:
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh qua tốc độ tăng trưởng GDP hay GNP
so với chỉ tiêu GDP/người vào những mốc thời gian nhất định. Đây là mục tiêu bao
trùm nhất của kinh tế vĩ mô phản ánh chung nhất về thành tựu phát triển của một
nền kinh tế. Tuy chỉ số báo này chưa phản ánh đầy đủ chất lượng của một nền kinh
tế, nhưng luôn luôn là chỉ số báo quan trọng nhất để đánh giá sự thành công hay thất
bại của một nền kinh tế.
* Kiểm soát giá cả thông qua chỉ số báo CPI hay thường nói là kiểm soát lạm
phát là chỉ số báo quan trọng nhất phản ảnh tính ổn định của kinh tế vĩ mô. Chỉ số
9


báo còn được sử dụng như một công cụ giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu tăng
trưởng kinh tế và an ninh xã hội.
* Tạo việc làm mới cho xã hội, kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp là chỉ số báo vừa
phản ảnh tình trạng của nền kinh tế, vừa phản ảnh tính ổn định về mặt an ninh xã
hội. Thông thường ở các nước đây là chỉ số báo quan trọng không chỉ có ý nghĩa
kinh tế mà có ý nghĩa chính trị phản ánh năng lực quản lý và điều hành của một
chính phủ. Số việc làm mới tạo ra một năm còn phản ánh mối quan hệ giữa đầu tư
với tăng trưởng kinh tế.
* Tăng xuất nhập khẩu ròng (lấy kim ngạch xuất khẩu – kim ngạch nhập khẩu)
nhất là đối với những nền kinh tế hướng về xuất khẩu.
Để thực thi bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô trên, Nhà nước thường sử dụng bốn
nhóm chính sách hay còn gọi là nhóm các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô như sau:
+ Chính sách tài khóa bao gồm chính sách thuế và chi tiêu của Chính phủ. Đây

là chính sách quan trọng nhất vì nó không chỉ tác động đến tổng cung và tổng cầu
của nền kinh tế mà còn có ý nghĩa dẫn dắt, định hướng thị trường. Chính sách tài
khóa thường rất linh hoạt để điều chỉnh kịp thời các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
+ Nhóm các CSTT được NHTW sử dụng để điều tiết thị trường tài chính mà
trọng tâm là thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn định giá cả. Thông thường
CSTT có ảnh hưởng mạnh nhất đến điều chỉnh tổng cầu của nền kinh tế thông qua
các công cụ như: lãi suất, tỷ giá hối hoái, DTBB, tái chiết khấu, điều chỉnh cung
tiền, các nghiệp vụ thị trường mở.
+ Chính sách chi tiêu nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng
và điều tiết khối cầu của nền kinh tế. Chính sách này được sử dụng thường xuyên
trong trường hợp nền kinh tế trong tình trạng lạm phát hoặc giảm phát.
+ Chính sách ngoại thương nhằm điều chỉnh mối quan hệ xuất nhập khẩu, đảm
bảo mục tiêu tăng xuất khẩu ròng, đồng thời cũng điều tiết tổng cung và tổng cầu
nội địa của nền kinh tế.
Tóm lại: với vai trò là công cụ thực thi CSTT chủ yếu tác động đến sự vận
động của tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. CSTT của nước ta trong thời gian
10

gần đây đã được Chính phủ sử dụng linh hoạt trong việc kiềm chế lạm phát và đang
góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn suy giảm kinh tế hiện nay. CSTT chính là
công cụ hỗ trợ các doanh nghiệp tái cấu trúc nhằm nâng cao sức cạnh tranh, thông
qua việc sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ tiền tệ.
1.2. Lạm phát, nguyên nhân và tác động của lạm phát đến nền kinh tế
1.2.1. Khái niệm về lạm phát
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi
các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy
luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại những quan hệ hàng
hoá tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện
khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. Lạm phát đã trở thành mối quan
tâm của rất nhiều người và hầu hết chúng ta đều có thể chứng kiến hay trải qua thời

kỳ lạm phát tùy theo mức độ khác nhau. Do đó lạm phát được đề cập đến rất nhiều
trong các công trình nghiêm cứu của các nhà kinh tế. Mỗi người đều đưa ra khái
niệm về lạm phát theo quan điểm, phương hướng nghiên cứu của mình. Song,
chúng ta vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn về lạm phát. Có thể kể ra một số quan
điểm về lạm phát rất khác nhau như sau:
Trong bộ tư bản nổi tiếng của mình, Các Mác viết:”Việc phát hành tiền giấy
phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện
tiền giấy của mình“. Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước
phát hành vào lưu thông vượt qua số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền
giấy giảm xuống, giá cả tăng vọt và tình trạng lạm phát xuất hiện .
Từ đây, ông cho rằng lạm phát là “bạn đường “của chủ nghĩa tư bản.Không
những chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư mà còn gây ra
lạm phát giảm tiền lương của người lao động.
Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng : ”lạm phát xảy ra khi mức chung của giá
cả và chi phí tăng – giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền
thuê tư liệu sản xuất tăng “. Ông thấy rằng lạm phát chính là biểu thị sự tăng lên của
giá cả.
11


Còn Milton Friedman, nhà kinh tế học nhận giải thưởng Nobel kinh tế 1976,
lại quan niệm khác:”Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài “. Ông cho rằng
lạm phát chỉ là biểu hiện của tăng lên quá mức của cung tiền. Theo thuyết số lượng
tiền tệ thì giữa các tham số cung tiền và giá cả trong nền kinh tế có mối quan hệ và
được thể hiện qua công thức:
M * V = P * Y
Trong đó:
M: Số lượng tiền tệ V: Số nhân tiền
P: Giá Y: Sản lượng
Khi triển khai công thức dưới dạng phần trăm, thu được:

% M + % V = % P + % Y
Hay :
% P = % M - % Y - % V
Như vậy, lạm phát (% thay đổi P) phụ thuộc rất lớn vào thay đổi cung tiền
(% M). Khi tốc độ tăng cung tiền quá cao mà các yếu tố ngược lại thay đổi không
tương ứng như V và Y sẽ gây nên lạm phát cao.
Một số nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý kiến đó
của Friedman. Họ cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển, ảnh hưởng đến nền kinh
tế quốc dân của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất kì thời điểm nào. Nó chính
là một hiện tượng tất yếu của tài chính – tiền tệ. Tuy nhiên, quan điểm về lạm phát
tiền tệ gặp phải một trở ngại là việc xác định khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu
thông là không khả thi, vì thực tế tổng lượng hàng hoá, dịch vụ luân chuyển trong
nền kinh tế luôn biến động. Ngoài ra, vòng quay tiền cũng không ổn định và mục
đích sử dụng tiền cũng luôn thay đổi. Do vậy, chúng ta chỉ có thể nhận diện ra lạm
phát qua dấu hiệu hàng hoá, dịch vụ tăng giá.
Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó
được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường:”Lạm phát là sự tăng
lên của mức giá trung bình theo thời gian“.
12

Xu hướng chủ yếu của các nhà kinh tế học đa phần là đồng tình tỷ lệ lạm phát
cao gây ra bởi tỷ lệ gia tăng của cung tiền cao. Quan điểm về các yếu tố xác định tỷ
lệ vừa phải của lạm phát, đặc biệt là trong thời gian ngắn, bị thay đổi nhiều: sự thay
đổi của lạm phát đôi khi phần lớn được cho là những thay đổi trong những thay đổi
thực của nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ hay là những thay đổi bất thường trong
những nguồn hàng cung cấp có giá trị (ví dụ như những thay đổi làm khan hiếm), và
đôi khi là những thay đổi trong nguồn cung hay nhu cầu đối với tiền. Giữa thế kỉ 20,
có hai trường phái đã bất đồng gay gắt về nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát (ở
mức độ vừa phải): các “nhà tiền tệ” đã tranh cãi rằng cung tiền có ảnh hưởng lớn
đến tất cả các nhân tố khác trong việc xác định lạm phát, trong khi đó, những người

theo thuyết kinh tế của Keynes đã phản đối rằng nhu cầu thực tế thì luôn quan trọng
hơn những thay đổi trong cung tiền.
1.2.2. Phân loại lạm phát
Tùy theo thiêu thức phân loại lạm phát mà có các loại lạm phát khác nhau.
Thông tường việc phân loại lạm phát dựa trên cơ sở định tính và định lượng.
Về mặt định lượng, người ta phân loại lạm phát dựa trên tỷ lệ phần trăm lạm
phát được tính torng năm. Theo đó, lạm phát được chia thành 3 loại như sau: lạm
phát vửa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
Lạm phát vừa phải: là lạm phát ở mức 1 con số (tỷ lệ giá cả hàng hóa trong
khoảng 10% trở lại). ở mức độ vửa phải, giá cả tăng chậm, dao động xung quanh
mức tăng tiền lương.
Lạm phát phi mã: là lạm phát với tốc độ 2 con số (từ 20%/năm đến dưới
100%/năm), mức độ tăng giá cả hàng hóa lúc này giống như “Một con ngựa bất
kham đang tung vó để chạy”. Khi lạm phát phi mã xảy ra, sản xuất bị đình trệ, nền
kinh tế tài chính bị phá hoại.
Siêu lạm phát: là lạm phát với tốc độ 3 con số trở lên, thậm chí người ta
không thể đo lường lạm phát bằng con số % mà bằng số lần tăng giá trong năm.
Siêu lạm phát thường xảy ra do có biến cố lớn như chiến tranh, khủng hoảng chính
trị dẫn đến đảo lộn trật tư xã hội. Khi những biến cố lớn xảy ra, sự thâm thụt ngân
13


sách khiến Chính phủ phải phát hành thêm tiền giấy để bù đắp dẫn đến siêu lạm
phát.
Về mặt định tính, lạm phát được chia thành nhiều loại khác nhau, tùy theo
tính chất của lạm phát mà người ta chia ra các loại cơ bản sau:
Lạm phát thuần túy: là trường hợp đặt biệt của lạm phát, hầu như giá cả của
mọi hàng hóa đều tăng cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian.
Lạm phát cân bằng: là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng với
thu nhập.

Lạm phát được dự đoán trước: là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán
trước nhờ vào sự diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm.
Lạm phát không được dự đoán trước: là lạm phát xảy ra bất ngờ, ngoài sự
tiên liệu của mọi người về quy mô, cường độ cũng như mức độ tác động.
Lạm phát cao và lạm phát thấp: lạm phát cao là lạm phát mà mức tỷ lệ tăng
thu nhập thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngược lại, lạm phát thấp là mức tăng thu nhập cao
hơn mức độ tăng của tỷ lệ lạm phát.
Như vậy, có thể phân loại theo nhiều mức độ khác nhau để có những biện
pháp kiểm soát thích hợp. Song biện pháp “phòng chống” hay “chữa trị” cũng còn
phải căn cứ vào nguyên nhân gây “bệnh”.
1.2.3. Nguyên nhân của lạm phát
Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát. Các nguyên nhân này có thể xuất
phát từ phía tổng cầu trong nền kinh tế, cũng có thể xuất phát từ phía tổng cung và
cũng có thể là nguyên nhân xuất hiện đồng thời ở cả phía cung lẫn cầu. Khi quan sát
thực tế, người ta nhận thấy rằng, trong môi trường có lạm phát thì bản thân môi
trường đó cũng có thể có khả năng và là nguyên nhân thúc đẩy hoặc tiếp tục gây ra
một chu trình lạm phát mới, tức là tạo một sự luẩn quẩn trong vòng xoáy lạm phát.
Sự khác biệt về quan điểm lạm phát dẫn đến việc tìm ra nguyên nhân gây
lạm phát cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Theo học thuyết Keynes, nguyên
nhân gây ra lạm phát là do cầu kéo. Theo học thuyết học thuyết, chi phí đẩy, lạm
phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí đẩy). Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát
14

là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền. Trên thực tế, lạm phát còn xuất
hiện do các nguyên nhân mất cân đối trong nội tại của nền kinh tế. Dưới đây, tác giả
trình bày sơ lược một số nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát do cầu kéo: Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn
tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Trong khi đó,trường
phái trọng tiền giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về
tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.

Lạm phát do cầu thay đổi: Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi,
trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người
cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng
mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong
khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, nghĩa là lạm phát.
Lạm phát do chi phí đẩy: Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí
sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận
của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế
cũng tăng. Lạm phát chi phí đẩy bắt nguồn từ các yếu tố bên tổng cung và ảnh
hưởng tới toàn bộ nền kinh tế.
Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh
nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể
không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo
mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm
phát nảy sinh vì điều đó.
Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn
tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản
phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm
phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Lạm phát do nhập khẩu: Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà
phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá
15


như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước
xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành
khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua
ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay

chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước)
khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát loại này nguyên nhân là do lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều,
vượt quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền
kinh tế. Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong nền
kinh tế bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi
lượng tiền lưu thông quá lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều hơn 100 triệu , thì
sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. Áp lực cung hạn chế dẫn tới tăng
giá trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên.
Lạm phát đẻ ra lạm phát: Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính
duy lý, đó là tâm lý dự trữ, giá tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là
đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh
tiêu dùng hiện tại, tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên
khan hiếm, kích thích giá lên gây ra lạm phát.
1.2.4. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế
1.2.4.1. Hiệu ứng tích cực
Một lượng lạm phát nhỏ thì thường được xem như có ảnh hưởng khách quan
đối với nền kinh tế. Một lý do cho điều này là thật khó khăn khi thương lượng lại
những giá cả, và đặc biệt là những hậu quả trở về sau, nên với những giá cả thường
gia tăng, việc điều chỉnh các mức giá có liên quan dễ dàng hơn. Nhiều giá cả “về
sau khó giải quyết” và có khuynh hướng vượt lên trên, nên những nỗ lực để đạt
được tỷ lệ lạm phát là 0 (mức độ giá cả không thay đổi) làm giá cả, lợi nhuận và
việc làm ở khu vực khác bị giảm sút. Những nỗ lực để đạt được sự ổn định giá cả
hoàn toàn cũng có thể đưa đến giảm phát, nó thường được xem xét như một lời từ

×