B GIÁO DC VÀ ÀO TO
TRNG I HC KINH T TP.HCM
NGUYN TH HNG NHUNG
CÁC NHÂN T TÁC NG N HIU
QU HOT NG CA NGÂN HÀNG
THNG MI C PHN VIT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã s : 60.34.02.01
LUN VN THC S KINH T
NGI HNG DN KHOA HC:
TS. H TH THIU DAO
TP. H CHÍ MINH – NM 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn “Các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của
NHTMCP Việt Nam” là bài nghiên cứu của chính tôi.
Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong luận văn này, tôi cam
đoan rằng toàn phần hay những phần nhỏ của luận văn này chưa từng được công bố
hoặc được sử dụng để nhận bằng cấp ở những nơi khác.
Không có sản phẩm / nghiên cứu nào của người khác được sử dụng trong luận
văn này mà không được trích dẫn theo đúng quy định.
Luận văn này chưa bao giờ được nộp để nhận bất kỳ bằng cấp nào tại các
trường Đại học hoặc cơ sở đào tạo khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày… tháng năm
Người cam đoan
Nguyễn Thị Hồng Nhung
ii
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN i
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vii
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Lý do nghiên cứu 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Câu hỏi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Ý nghĩa nghiên cứu 4
Chương 1: 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG 5
1.1. Một số khái niệm có liên quan hiệu quả hoạt động của ngân hàng 5
1.1.1. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng 5
1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng 7
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng 10
1.2.1. Nhóm nhân tố bên ngoài 10
1.2.1.1. Môi trường về kinh tế, chính trị và xã hội trong và ngoài nước 10
1.2.1.2. Tăng trưởng GDP 11
1.2.1.3. Lạm phát 12
1.2.1.4. Yếu tố pháp luật 13
1.2.2. Nhóm nhân tố bên trong 14
1.2.2.1. Tuổi ngân hàng 14
1.2.2.2. Quy mô ngân hàng 14
1.2.2.3. Cơ cấu tài chính của ngân hàng 15
1.2.2.4. Hiệu quả quản lý của ngân hàng 16
1.2.2.5. Rủi ro
17
1.2.2.6. Kết cấu tài sản của ngân hàng 19
1.3. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan 20
1.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài 20
iii
1.3.2. Các nghiên cứu trong nước 25
1.4. Mô hình nghiên cứu 27
1.5. Giả thuyết nghiên cứu 28
1.5.1. Mối quan hệ giữa tuổi của ngân hàng với hiệu quả hoạt động của ngân
hàng 28
1.5.2. Mối quan hệ giữa quy mô với hiệu quả hoạt động của ngân hàng 29
1.5.3. Mối quan hệ giữa cơ cấu tài chính của ngân hàng với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng
30
1.5.4. Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi phí trên thu nhập của ngân hàng với hiệu
quả hoạt động của ngân hàng 30
1.5.5. Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản của ngân hàng với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng
31
1.5.6. Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng của ngân hàng với hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
31
1.5.7. Mối quan hệ giữa cơ cấu tài sản của ngân hàng với hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
32
1.6. Đo lường các biến 32
1.6.1. Biến phụ thuộc 32
1.6.2. Biến độc lập 33
1.6.2.1. Tuổi ngân hàng (Bank’s age) 33
1.6.2.2. Quy mô ngân hàng (Bank’s size) 33
1.6.2.3. Cơ cấu tài chính ngân hàng (Capital structure) 33
1.6.2.4. Tỷ lệ chi phí trên thu nhập (Cost to income ratio) 33
1.6.2.5. Rủi ro thanh khoản (Liquid risk) 34
1.6.2.6. Rủi ro tín dụng (Credit risk) 35
1.6.2.7. Cơ cấu tài sản (Asset structure) 35
1.7. Dữ liệu và phương pháp thu thập dữ liệu 35
1.8. Phương pháp ước lượng mô hình 36
iv
Tóm lược chương 1 39
CHƯƠNG 2 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
2.1. Thực trạng hiệu quả hoạt động và các nhân tố tác động đến hiệu quả của hệ
thống NHTMCP Việt Nam 40
2.1.1. Khái quát chung về hệ thống ngân hàng TMCP VN giai đoạn 2002 – 2012:
40
2.1.2. Thực trạng hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTMCP Việt Nam: 46
2.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTMCP
giai đoạn 2006 – 2012 49
2.3 Vận dụng mô hình lý thuyết xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012 53
2.3.1 Xác định mối quan hệ tương quan 53
2.3.2 Kết quả ước lượng và kiểm định mô hình hồi quy tuyến tính bội các nhân
tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTMCP VN 55
2.3.3 Thảo luận về kết quả nghiên cứu 58
Tóm lược chương 2 60
Chương 3 61
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61
3.1 Kết luận
61
3.2. Kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTMCP
Việt Nam 61
3.2.1 Xây dựng cơ cấu tài chính hợp lý 61
3.2.2. Kiểm soát tỷ lệ chi phí trên thu nhập cũng như tỷ lệ LDR 64
3.2.3. Đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý 69
3.3. Hạn chế đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo 72
Tóm lược chương 3 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
Bảng 1.1: Tóm lược các nghiên cứu liên quan 23
Hình 1.1 Mô hình đề xuất các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các
NHTMCP Việt Nam 28
Bảng 2.1: Số lượng Ngân hàng ở Việt Nam (2002-2013) 41
Biểu đồ 2.1: Giá trị huy động vốn của hệ thống ngân hàng từ nền kinh tế 42
Bảng 2.2: Sự tăng trưởng của hệ thống ngân hàng Việt Nam (2002-2012) 43
Bảng 2.3: Dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế qua các năm 45
Biểu đồ 2.2 TÍN DỤNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 46
Bảng 2.4: Hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2006 - 2012 47
Biểu đồ 2.3 Giá trị ROA và ROE trung bình của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn
2006 - 2012 49
Bảng 2.5: Các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của NHTMCVN giai đoạn
2006 - 2012 50
Bảng 2.6: Ma trận tương quan giữa các biến độc lập 54
Bảng 2.7: Kết quả hồi qui với mô hình tác động cố định 55
Bảng 2.8: Kết quả hồi qui với mô hình tác động ngẫu nhiên 56
Bảng 2.9: Kiểm định để lựa chọn mô hình thích hợp 57
vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB (Asian Development Bank) Ngân hàng phát triển Châu Á
FEM (Fixed Effects Model) Mô hình hiệu ứng cố định
GDP (Gross Domestic Product) Tổng sản phẩm trong nước
GLS (Generalized Least Squares) Phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát
LDR (Loan to Deposit Ratio) Tỷ lệ cho vay trên tiền gởi
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMCPVN Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
NIM (Net Interest Margin) Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
NM (Non interest Margin) Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên
OLS (Ordinary Least Squares) Phương pháp bình phương nhỏ nhất
REM (Random Effects Model) Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên
ROA (Return on total assets) Tỷ số thu nhập ròng trên tài sản
ROE (Return on common equity) Tỷ số thu nhập ròng trên vốn chủ sở hữu
S-C-P Mô hình Cấu trúc – Hành vi – Hiệu năng
VNĐ Việt Nam đồng
VCSH Vốn chủ sở hữu
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Các ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính đóng vai trò quan
trọng trong việc kết nối giữa khu vực tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế ngày càng bị
cạnh tranh bởi các trung gian tài chính phi ngân hàng và các ngân hàng nước ngoài.
Tuy nhiên sự gia tăng sức ép cạnh tranh sẽ tác động đến ngành ngân hàng như thế nào
còn phụ thuộc một phần vào khả năng thích nghi và hiệu quả hoạt động của chính các
ngân hàng trong môi trường mới này. Các ngân hàng không có khả năng cạnh tranh sẽ
được thay thế bằng các ngân hàng có hiệu quả hơn, điều này cho thấy chỉ có các ngân
hàng có hiệu quả nhất mới có lợi thế về cạnh tranh. Như vậy, hiệu quả trở thành một
tiêu chí quan trọng để đánh giá sự tồn tại của một ngân hàng trong một môi trường
cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng.
Mặc dù, quá trình thực hiện đề án cơ cấu lại hệ thống ngân hàng từ cuối những
năm 1990 đến nay đã tạo ra cho ngành ngân hàng nhiều thay đổi lớn cả về số lượng,
quy mô và chất lượng, những tiền đề cơ bản ban đầu đáp ứng những cam kết đã ký
trong lộ trình hội nhập của khu vực ngân hàng đã được tạo lập, tạo điều kiện thuận lợi
cho hệ thống ngân hàng bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng của
thời đại. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay vẫn còn có nhiều tồn
tại và trở thành các thách thức lớn đối ngành ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập. Trong môi trường cạnh tranh và đòi hỏi của hội nhập như hiện nay, hệ thống
ngân hàng không những phải duy trì được sự ổn định trong hoạt động của mình mà
còn phải có khả năng gia tăng cạnh tranh đối với các tổ chức tài chính phi ngân hàng
và các định chế tài chính khác. Để làm được điều này đòi hỏi các NHTM phải không
ngừng tăng cường hiệu quả hoạt động của mình.
Với mục tiêu làm tăng hiệu quả hoạt động của các trung gian tài chính bằng việc
đẩy mạnh khả năng cạnh trạnh giữa các ngân hàng, tháo bỏ các rào cản về thị trường,
lãi suất, tỷ giá hối đoái Việt Nam còn phải tiếp tục cải cách sâu rộng, toàn diện hơn
nữa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. Đây thực sự là vấn
đề cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
2
Xuất phát từ những đòi hỏi mang tính thực tiễn và nhu cầu bức thiết ở Việt
Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập khu vực và toàn cầu hoá, xu thế phát triển của
nền kinh tế có sự quản lý của chính phủ một cách gián tiếp thông qua các chính sách
kinh tế, với mong muốn bổ sung thêm những hiểu biết và ứng dụng đối với việc đưa ra
chính sách quản lý hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, tôi đã lựa chọn đề tài: “Các nhân
tố tác động đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt Nam’’. Đề tài nghiên cứu tự nó
đã hàm chứa ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn đối với Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu thứ 1: Luận văn vận dụng lý thuyết về hiệu quả hoạt động ngân hàng,
đồng thời căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả trong và ngoài
nước để xây dựng mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của các ngân hàng tại Việt Nam.
Mục tiêu thứ 2: Luận văn dựa trên khung lý thuyết về mô hình các nhân tố tác
động lên hiệu quả hoạt động để xây dựng các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của các ngân hàng Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Thực trạng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Việt Nam hiện nay
như thế nào?
Câu hỏi 2: Những nhân tố nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng Việt Nam?
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích: Để phân tích hiệu quả hoạt động và xác định các nhân
tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cũng như đề xuất mô hình các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động cho các Ngân hàng Việt Nam, luận văn sử dụng phương
pháp nghiên cứu định lượng.
Theo cách tiếp cận này, dựa vào mô hình lý thuyết đã được xây dựng, luận văn
thu thập số liệu khảo sát thực tế của 34 NHTMCP Việt Nam, sử dụng công cụ thống
kê toán với sự hỗ trợ của các phần mềm EXCEL và STATA, tiến hành chạy và kiểm
định mô hình. Các kết quả nghiên cứu theo cách tiếp cận này sẽ trả lời cho câu hỏi số
(1), (2).
3
Nguồn số liệu và phương pháp thu thập số liệu
Từ mô hình lý thuyết đã được đặt ra, số liệu phục vụ cho mô hình nghiên cứu
đã thu thập cả hai nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp.
Nguồn số liệu thứ cấp: Luận văn thu thập các dữ liệu như: các báo cáo tài
chính được thu thập từ website của các ngân hàng; các báo cáo, sách báo, tạp chí, luận
án, tư liệu liên quan đến vấn đề hiệu quả hoạt động của ngân hàng; các trang Web của
NHNN, Bộ tài chính, Cục thuế,…
Nguồn số liệu sơ cấp: Để phục vụ cho việc nghiên cứu định lượng, luận văn sử
dụng số liệu sơ cấp được thu thập bằng bảng câu hỏi điều tra trực tiếp đối với các nhân
viên Ngân hàng, đồng thời bằng cách thảo luận, phỏng vấn sâu với các cán bộ quản lý
của ngân hàng.
- Phương pháp chọn mẫu và xác định kích thước mẫu
+ Luận văn sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất, trong đó sử dụng mẫu
thuận tiện. Cụ thể là điều tra 34 NHTMCP trên 34 NHTMCP chiếm 100%.
+ Luận văn thu thập và xử lý số liệu của 34 NHTMCP trong khoảng thời gian
từ năm 2006 – 2012. Thời kỳ đơn vị để xác định giá trị các biến là năm, tuy nhiên vì
các ngân hàng trong mẫu có những ngân hàng được thành lập sau năm 2006 nên bộ
mẫu sử dụng là mẫu không cân bằng (unbalanced) với số lượng mẫu thu thập được
là: 221 mẫu.
- Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
+ Trong nghiên cứu thực trạng hiệu quả hoạt động của NHTMCP, luận văn sử
dụng phương pháp thống kê mô tả để phân tích. Cụ thể là sử dụng phần mềm
Microsoft Excel XP để nhập số liệu và sử dụng thủ tục Summarize trong Stata phân
tích dữ liệu. Kết quả phân tích sẽ cho kết quả các chỉ tiêu phản ánh thực trạng hiệu quả
hoạt động của Ngân hàng.
+ Trong nghiên cứu mô hình các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của
ngân hàng, luận văn sử dụng hai mô hình ước lượng: mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên
(REM) và mô hình ảnh hưởng cố định (FEM). Hai mô hình này có thể xem xét đến sự
khác biệt giữa các đối tượng chéo (ngân hàng) trong phân tích tác động của các nhân tố
đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.
4
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Về mặt lý thuyết: Luận văn đã tổng hợp lý thuyết về hiệu quả hoạt động của
ngân hàng, các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả hoạt động của ngân hàng và ứng
dụng các kết quả này để xây dựng mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động của NHTMCP Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa thực tiễn trên các
mặt sau đây: (1) Giúp cho các nhà quản trị ở các NHTMCP Việt Nam nhìn nhận đầy
đủ hơn về hiệu quả hoạt động của ngân hàng và các nhân tố tác động đến hiệu quả
hoạt động của ngân hàng phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân
hàng; (2) Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho các tổ chức tín dụng làm cơ sở
xác định mức độ tối ưu của các nhân tố nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân
hàng; (3) Kết quả nghiên cứu của luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên
chuyên ngành tài chính ngân hàng.
5
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
1.1. Một số khái niệm có liên quan hiệu quả hoạt động của ngân hàng
1.1.1. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Trong kinh tế học, hiệu quả kinh tế là thuật ngữ chỉ việc sử dụng các nguồn
lực để tối đa hóa sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Một hệ thống kinh tế được cho là hiệu
quả hơn (một cách tương đối) nếu nó có thể cung cấp thêm hàng hóa và dịch vụ cho xã
hội mà không sử dụng nhiều tài nguyên hơn. Trong điều kiện tuyệt đối, một tình
huống có thể được gọi là hiệu quả kinh tế nếu:
− Không ai có thể thực hiện được tốt hơn mà không làm cho người khác tệ đi
(thường được gọi là hiệu quả Pareto).
− Không có sản lượng bổ sung có thể thu được mà không làm tăng số lượng đầu
vào.
− Chi phí sản xuất mỗi đơn vị thấp nhất có thể.
Hiệu quả đo lường về sự thích hợp của các mục tiêu được chọn (đó có phải là
những mục tiêu đúng không) và mức độ chúng được thực hiện. Như vậy có thể hiểu
một cách đơn giản hiệu quả là làm đúng việc (do the right thing), việc xác định đúng
mục tiêu sẽ làm cho tổ chức đi đúng hướng. Các tổ chức sẽ đạt được kết quả tốt hơn
khi các nhà quản trị xác định được mục tiêu đúng và hoàn thành chúng. Vì vậy hiệu
quả chính là phép so sánh giữa kết quả đạt được với mục tiêu đúng đắn đã đặt ra :
Hiệu quả =
Kết quả đạt được
(1)
Mục tiêu
Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất kinh doanh nói riêng đã khẳng định bản chất của hiệu quả kinh tế trong
hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh
doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, nguyên
nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp – mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Trong hoạt động của các NHTM, theo Nguyễn Việt Hùng (2008) hiệu quả
được hiểu qua 2 khía cạnh sau:
6
− Khả năng biến đổi các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra, hay khả năng
sinh lời, hoặc giảm thiểu chi phí để tăng khả năng cạnh tranh với các định chế tài
chính khác.
− Xác suất hoạt động an toàn của các ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh, có vai trò, chức năng đặc biệt
trong nền kinh tế. Kết quả hoạt động của ngân hàng có thể được đo lường, đánh giá
trên những góc độ khác nhau. Dưới góc độ kinh doanh của ngân hàng, đó chính là hiệu
quả hoạt động. Hiệu quả hoạt động ngân hàng có thể được xem là kết quả về lợi nhuận
do hoạt động kinh doanh ngân hàng mang lại trong một khoảng thời gian nhất định.
Trên một bình diện kinh tế xã hội rộng hơn, thay cho hiệu quả là khái niệm hiệu năng.
Hiệu năng hoạt động ngân hàng là những đóng góp, những giá trị kinh tế xã hội mà
hoạt động ngân hàng mang lại cho cộng đồng và cho cả ngân hàng, trong đó giá trị
phúc lợi xã hội, thông qua việc phát huy vai trò, chức năng của hệ thống NHTM trong
nền kinh tế. Sự lành mạnh của hệ thống NHTM quan hệ chặt chẽ với sự ổn định và
phát triển của nền kinh tế vì NHTM là trung gian tài chính kết nối khu vực tiết kiệm
với khu vực đầu tư của nền kinh tế. Do vậy sự bất ổn của hệ thống NHTM sẽ tác động
rất lớn đến các ngành nghề kinh tế khác nói riêng cũng như cả nền kinh tế nói chung.
Để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh
doanh nói chung và của hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng, cũng cần phân
biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một tổ chức là những gì
mà tổ chức đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt
cũng là mục tiêu cần thiết của tổ chức. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một
tổ chức có thể là những đại lượng cân đong đo đếm được như số sản phẩm tiêu thụ
mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận, thị phần, và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản
ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của doanh nghiệp, là
chất lượng sản phẩm, Như thế, kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của tổ chức. Trong
khi đó, công thức (1) lại cho thấy trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và mục tiêu để đánh giá hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Trong lý thuyết và thực tế cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều
có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị
hiện vật để xác định hiệu quả kinh tế sẽ vấp phải khó khăn là giữa “đầu vào” và “đầu
7
ra” không có cùng một đơn vị đo lường còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa
các đại lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường đó là đơn vị tiền tệ. Vấn đề
được đặt ra là: hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh
nói riêng là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trong thực tế, nhiều lúc người
ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp khác
người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết “khả năng” tiến tới mục tiêu cần
đạt là kết quả. Như vậy ở đây chúng ta thấy nếu tổ chức đạt được mục tiêu đã đặt ra
nhưng với chi phí quá cao thì cũng không đạt được thành công. Trong kinh tế học với
quan niệm nguồn lực các yếu tố đầu vào là hữu hạn do đó phải có sự đánh đổi (trade-
off), vì vậy không phải chỉ làm đúng việc mà còn phải làm đúng cách, tức là phải đạt
được cả hiệu quả (đạt mục tiêu) với phí tổn thấp nhất (hiệu suất). Như vậy chúng ta có
thêm khái niệm hiệu suất (efficiency) :
Hiệu suất =
Kết quả đạt được
(2)
Chi phí
Như vậy để đo lường hiệu quả thì chúng ta phải căn cứ vào các chỉ tiêu thể
hiện hiệu suất. Đó là nội dung được trình bày ở phần tiếp theo.
1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, hiệu suất hoạt động của ngân hàng
được thể hiện thông qua các chỉ tiêu:
Theo Peter S. Rose (2004), về mặt lý thuyết, giá trị thị trường (hay thị giá) của
cổ phiếu là chỉ số tốt nhất phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh của công ty bởi vì
nó thể hiện sự đánh giá của thị trường đối với công ty đó. Tuy nhiên chỉ số này thường
không đáng tin cậy trong lĩnh vực ngân hàng. Lý do ở đây là hầu hết cổ phiếu ngân
hàng, đặc biệt là cổ phiếu của các ngân hàng nhỏ không được giao dịch tích cực trên
thị trường quốc tế cũng như thị trường trong nước. Thực tế này buộc các nhà phân tích
tài chính phải sử dụng các tỷ lệ về khả năng sinh lời để thay thế cho chỉ số giá trị thị
trường. Đầu tiên trong nhóm các tỷ số về khả năng sinh lời là ROA. ROA là tỷ số thu
nhập ròng trên tài sản (Return on total assets). ROA đo lường khả năng sinh lợi trên
mỗi đồng tài sản của ngân hàng. Công thức tính của tỷ số này là:
ROA
=
Thu nhập ròng dành cho cổ đông thường
(3)
Tổng tài sản
8
ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng
vốn đầu tư (hay lượng tài sản). Tài sản của một ngân hàng được hình thành từ vốn vay
và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động
của ngân hàng. Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện
qua ROA. ROA càng cao thì càng tốt vì ngân hàng đang kiếm được nhiều tiền hơn trên
lượng đầu tư ít hơn, hay nói cách khác là kết quả cao hơn trên chi phí ít hơn.
Các nhà đầu tư cũng nên chú ý tới tỷ lệ lãi suất mà ngân hàng phải trả cho các
khoản vay nợ. Nếu một ngân hàng không kiếm được nhiều hơn số tiền mà họ đã chi
cho các hoạt động đầu tư, đó không phải là một dấu hiệu tốt. Ngược lại, nếu ROA mà
tốt hơn chi phí vay, chi phí huy động vốn thì có nghĩa là ngân hàng đang bỏ túi một
món hời.
Bên cạnh tỷ số ROA, chúng ta còn có một hệ số doanh lợi khác thể hiện hiệu
suất hoạt động của ngân hàng là ROE. ROE là tỷ số thu nhập ròng trên vốn chủ sở hữu
(Return on common equity). ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số
này đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường. Tỷ số này được
tính bằng công thức:
ROE
=
Thu nhập ròng dành cho cổ đông thường
(4)
Vốn cổ phần thường
Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy
tạo ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh
với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ
phiếu của ngân hàng nào.
Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ ngân hàng sử dụng hiệu quả đồng vốn của
cổ đông, có nghĩa là ngân hàng đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi
vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy
mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
Khi tính toán được tỷ lệ này, các nhà đầu tư có thể đánh giá ở các góc độ cụ thể
như sau:
9
− ROE nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất huy động của ngân hàng, vậy nếu ngân hàng
có khoản vay nợ tương đương hoặc cao hơn vốn cổ đông, thì lợi nhuận tạo ra cũng chỉ
để trả lãi.
− ROE cao hơn lãi suất huy động của ngân hàng thì phải đánh giá xem ngân hàng
đã vay nợ và khai thác hết lợi thế cạnh tranh trên thị trường chưa để có thể đánh giá
ngân hàng này có thể tăng tỷ lệ ROE trong tương lai hay không.
Bên cạnh hai chỉ tiêu về hệ số doanh lợi trên, hiệu quả hoạt động ngân hàng
còn được thể hiện qua các chỉ tiêu về tỷ lệ thu nhập cận biên. Chỉ số đầu tiên trong
nhóm này là tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM – Net Interest Margin). Tỷ lệ này đo
lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được
thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có
chi phí thấp nhất. NIM được tính theo công thức như sau:
NIM
=
Thu nhập từ lãi – Chi phí trả lãi
(5)
Tổng tài sản
Tỷ số thứ hai trong nhóm này là tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NM – Non
interest Margin). Tỷ lệ này đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi (chủ
yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ) và các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu
(tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, chi phí tổn thất tín dụng…). NM được
tính theo công thức như sau:
NM
=
Thu nhập ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi
(6)
Tổng tài sản
Đối với ngân hàng Việt Nam, NM thường nhỏ, mặc dù tỷ lệ thu từ phí trong
tổng các nguồn thu của ngân hàng tăng khá nhanh trong những năm gần đây. Cuối
cùng là tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên được tính theo công thức như sau:
Tỷ lệ thu nhập hoạt động
cận biên
=
Tổng thu nhập hoạt động – Tổng chi phí hoạt động
(7)
Tổng tài sản
Trong các nghiên cứu trước đây, kể cả trong và ngoài nước, các tỷ số trên
cũng đã được sử dụng như các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ví
10
dụ như, tác giả Tarawneh (2006) đã sử dụng chỉ tiêu ROE và ROA để đo lường hiệu
quả hoạt động của hệ thống ngân hàng hồi giáo của Oman, Zeitun (2013) áp dụng cho
các ngân hàng ở khu vực Vùng Vịnh hay như Naceur (2003) cũng sử dụng các chỉ tiêu
ROA và NIM để nghiên cứu cho các ngân hàng ở Tunisia.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng
Hiệu quả là điều kiện quyết định sự sống còn và phát triển của một ngân hàng,
bởi vậy nâng cao hiệu quả cũng có nghĩa là tăng cường năng lực tài chính, năng lực
điều hành để tạo ra tích lũy và có điều kiện mở rộng các hoạt động kinh doanh góp
phần củng cố và nâng cao thương hiệu của các NHTM. Tuy nhiên, để NHTM hoạt
động có hiệu quả hơn, đòi hỏi phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả
hoạt động của các NHTM nhằm hạn chế được các hoạt động mang tính chất rủi ro
nhằm bảo toàn vốn cũng như nâng cao thu nhập và lợi nhuận từ các hoạt động kinh
doanh của NHTM. Các nhân tố này có thể được chia làm hai nhóm: nhóm nhân tố bên
ngoài và nhóm nhân tố bên trong, tùy theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng mà hai
nhóm nhân tố này có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả hoạt động của chính
các NHTM.
1.2.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
1.2.1.1. Môi trường về kinh tế, chính trị và xã hội trong và ngoài nước
Theo Trần Huy Hoàng, chất liệu kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà tiền
tệ là một công cụ được sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế, nó quyết định đến sự
phát triển và suy thoái của cả một nền kinh tế, do đó chất liệu này được nhà nước quản
lý rất chặt chẽ. Như vậy cũng có thể thấy điều kiện kinh tế, chính trị xã hội trong và
ngoài nước là yếu tố tác động lên các quyết định điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN. Và vì vậy nó gián tiếp tác động đến hoạt động của NHTM. NHTM là một tổ
chức trung gian tài chính làm cầu nối giữa khu vực tiết kiệm với khu vực đầu tư của
nền kinh tế, do vậy những biến động của môi trường kinh tế, chính trị và xã hội có
những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng. Nếu môi trường kinh
tế, chính trị và xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM,
vì đây cũng là điều kiện làm cho quá trình sản xuất của nền kinh tế được diễn ra bình
thường, đảm bảo khả năng hấp thụ vốn và hoàn trả vốn của các doanh nghiệp trong
nền kinh tế. Khi nền kinh tế có tăng trưởng cao và ổn định, các khu vực trong nền kinh
tế đều có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh do dó nhu cầu vay vốn tăng
11
làm cho các NHTM dễ dàng mở rộng hoạt động tín dụng của mình đồng thời khả năng
nợ xấu có thể giảm vì năng lực tài chính của các doanh nghiệp cũng được nâng cao.
Ngược lại, khi môi trường kinh tế, chính trị và xã hội trở nên bất ổn thì lại là
những nhân tố bất lợi cho hoạt động của các NHTM như nhu cầu vay vốn giảm; nguy
cơ nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng làm giảm hiệu quả hoạt động của các NHTM.
1.2.1.2. Tăng trưởng GDP
Theo giáo trình Quản trị NHTM của Trần Huy Hoàng lĩnh vực kinh doanh của
ngân hàng là tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Đây là lĩnh vực đặc biệt vì trước
hết nó liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, liên quan đến mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội. Vì vậy sự biến động của nền kinh tế sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu
quả hoạt động của ngân hàng, và sự biến động đó thể hiện ở mức độ tăng trưởng GDP.
Sự tác động của tăng trưởng GDP lên hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng là tác
động hai chiều, trước tiên hệ thống ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc
làm gia tăng GDP của nền kinh tế, sau đó sự gia tăng này sẽ tác động ngược lại, nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Trong nền kinh tế luôn xuất hiện
những chủ thể ở tình trạng thặng dư tạm thời. Họ có nhu cầu đầu tư để bảo toàn vốn và
sinh lời. Tuy vậy, không phải ai cũng có cơ hội thực hiện điều đó. Các NHTM huy
động những khoản vốn này dưới nhiều hình thức: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có
giá, tích tụ chúng và cho vay lại nền kinh tế. Như vậy, thay vì bị rút khỏi lưu thông,
tồn tại dưới dạng cất trữ, tiền được chuyển thành vốn đầu tư, sinh lời. Thông qua hệ
thống NHTM, các dòng vốn được hình thành và luân chuyển một cách dễ dàng, thông
suốt hơn trong nền kinh tế. Một số bộ phận của các dòng vốn này có liên quan trực
tiếp đến tăng trưởng kinh tế, ví dụ như các khoản đầu tư vào sự phát triển cơ sở hạ
tầng chẳng hạn. Đến đây sự tăng trưởng kinh tế sẽ mang lại lợi nhuận cho chủ thể gởi
tiền ở ngân hàng cũng như hệ thống ngân hàng trung gian. Bên cạnh đó, NHTM về
bản chất là các doanh nghiệp, kinh doanh vì mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ
sở hữu. Họ phải lựa chọn những doanh nghiệp hay dự án có khả năng thu hồi nợ, có
hiệu quả để cho vay. Nhờ quá trình sàng lọc tín dụng, vốn trong nền kinh tế được tập
trung vào những khu vực có khả năng sinh lời cao, mang lại nhiều lợi ích. Những lĩnh
vực hay ngành nghề kém hiệu quả sẽ không nhận được vốn. Nhờ các trung gian tài
chính này, vốn được phân bổ hữu hiệu giữa các ngành, các lĩnh vực. Và dĩ nhiên việc
phân bổ tốt nguồn lực sẽ đưa đến sự tăng trưởng chung cho nền kinh tế và ngược lại
12
khi nền kinh tế hoạt động hiệu quả thì cũng góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động của
hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, việc chuyển dịch vốn diễn ra trực tiếp giữa các chủ thể
thặng dư và thiếu hụt vốn đòi hỏi phải tiêu tốn rất nhiều chi phí của cả hai bên: chi phí
thu thập và xử lý thông tin, chi phí về thời gian, trong nhiều trường hợp, các nhu cầu
này không thể tương thích và giao dịch không thể diễn ra. Xét đến cùng, những chi phí
phát sinh như vậy gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế vì làm lãng phí, tổn thất nguồn
lực. Các NHTM với tư cách là những tổ chức trung gian tài chính, có thể giảm thiểu
tới mức thấp nhất những chi phí này. NHTM thu thập và nắm giữ thông tin về một
lượng lớn người có nhu cầu về vốn cũng như những người khác sẵn sàng cung ứng
vốn. Cũng do được chuyên môn hóa, NHTM có các nghiệp vụ kỹ thuật để san sẻ và
phân tán rủi ro. Họ có khả năng thu thập được lượng lớn thông tin liên quan đến số
lượng đông đảo các đối tượng khác nhau, có thể giám sát các khoản tín dụng, giảm các
nguy cơ về rủi ro đạo đức cũng như thông tin không cân xứng. Và như vậy chi phí tiết
kiệm được sẽ được đầu tư một cách hiệu quả hơn, đóng góp vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế hay nói cách khác làm gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Không
những vậy NHTM còn ảnh hưởng đến tăng trưởng bằng cách làm thay đổi tỷ lệ tiết
kiệm và thông qua sự tài trợ vốn cho các doanh nghiệp trong việc mở rộng sản xuất cả
về chiều rộng và chiều sâu, mà chủ yếu là đầu tư vào công nghệ, nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp. Sự biến đổi công nghệ vì vậy chịu sự tác động từ vai trò của
các hệ thống tài chính. Và nếu hệ thống doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì ngược lại
sẽ gia tăng nhu cầu mở rộng kinh doanh, nhu cầu vốn tạo nên thị trường tốt hơn cũng
như mở rộng thị trường cho các NHTM.
1.2.1.3. Lạm phát
Đối với các NHTMCP hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức
mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay,
đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Ví dụ đối với hoạt động huy động vốn, khi
lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Để huy động
vốn hoặc không muốn vốn của mình chạy qua các ngân hàng khác thì phải nâng lãi suất
huy động, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Demirguç - Kunt
và Huizinga (1999) cho thấy, với lạm phát, chi phí ngân hàng có xu hướng tăng do
những nguyên nhân này. Bên cạnh đó lạm phát tăng cao tạo áp lực cho NHNN thực
hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, tuy nhiên nhu cầu vay
13
vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể
đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự
có hiệu quả với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác do lãi suất huy động tăng cao thì lãi
suất cho vay cũng tăng cao theo, điều này làm xấu đi môi trường đầu tư của ngân hàng
và rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do lạm phát tăng cao sức mua của đồng tiền nội địa
giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn trung và dài hạn trở nên thật sự
khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với
khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn xảy ra
với mức độ thường xuyên hơn. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các
ngân hàng đồng thời kéo theo rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
1.2.1.4. Yếu tố pháp luật
Những thay đổi về quy định pháp luật đối với ngành ngân hàng nói riêng cũng
như toàn nền kinh tế nói chung cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây bất lợi cho
các ngân hàng. Một trong những lý thuyết quản lý đầu tiên được nhà kinh tế học George
Stingler (1971) đưa ra với nội dung là các công ty trong những ngành chịu sự quản lý
chặt chẽ như ngân hàng thường tìm cách thoát khỏi hàng rào quy định, tạo ra lợi nhuận
mang tính độc quyền bởi vì thực tế là các quy định thường ngăn cản sự gia nhập của các
công ty khác vào những ngành được kiểm soát. Do vậy ngân hàng có thể phải chịu tổn
thất nếu các quy định thay đổi bởi vì họ sẽ không còn được hưởng sự bảo hộ độc quyền.
Mặt khác, Sam Peltzman (1976) cho rằng các quy định đã che chở cho các công ty khỏi
sự tác động của những biến động trong nhu cầu và chi phí, giảm bớt rủi ro. Nếu đúng
như vậy, điều đó hàm ý rằng sự thay đổi của các quy định buộc ngân hàng phải đối mặt
với rủi ro lớn hơn. Chẳng hạn như các quy định về thay đổi số vốn pháp định của từng
ngân hàng hay các quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động của các ngân hàng. Xét trường hợp nhà nước yêu cầu các ngân hàng tăng vốn để
đảm bảo năng lực tài chính trong quá trình cạnh tranh.Việc làm này thực ra cũng có một
cái lợi là nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng tuy nhiên việc tăng vốn đồng loạt
của các ngân hàng trong một khoảng thời gian ngắn là rất khó khăn. Hơn nữa việc yêu
cầu các ngân hàng thay đổi số vốn của mình trong một thời gian ngắn có thể khiến một
số ngân hàng phải hợp nhất, sát nhập hoặc giải thể vì không có khả năng huy động đủ số
vốn theo quy định. Hay như việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các NHTM của nhà
nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng. Nếu Nhà nước yêu
14
cầu ngân hàng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng lên thì làm cho khả năng thanh
khoản của ngân hàng được tăng lên tuy nhiên việc làm này cũng đồng nghĩa với việc
ngân hàng sẽ phải rút bớt vốn kinh doanh của mình để đưa vào dự trữ và như vậy cũng
ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
1.2.2. Nhóm nhân tố bên trong
Nhóm nhân tố này thể hiện những đặc trưng riêng của từng ngân hàng như tuổi
ngân hàng, qui mô của ngân hàng, cơ cấu tài chính của ngân hàng và các đặc điểm về
kết cấu chi phí cũng như kết cấu tài sản và nguồn vốn của ngân hàng.
1.2.2.1. Tuổi ngân hàng
Đối với các ngân hàng nói riêng cũng như doanh nghiệp nói chung, tuổi là một
nhân tố thuộc về đặc trưng riêng của tổ chức có khả năng tác động đến hiệu quả hoạt
động của tổ chức. Như chúng ta cũng biết một khi khách hàng đặt mối quan hệ giao
dịch kinh doanh với một tổ chức thì điều đầu tiên họ phải chú ý đó là uy tín của tổ
chức. Điều này cũng đúng đối với các ngân hàng. Khi khách hàng gởi tiền cũng như
thực hiện các giao dịch có giá trị lớn với ngân hàng thì họ cũng phải quan tâm đến uy
tín của ngân hàng và uy tín này trước tiên thể hiện ở tuổi đời của ngân hàng. Theo lẽ
thường, đa phần những ngân hàng lâu đời sẽ có qui mô tương đối lớn do đã được tích
lũy trong một khoảng thời gian dài và điều này sẽ giúp ngân hàng có cơ hội tiếp cận
với những cơ hội kinh doanh lớn cũng như khách hàng lớn. Từ đó đem đến cho ngân
hàng những hợp đồng có giá trị cao, nâng cao lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt động
của ngân hàng. Bên cạnh đó với số năm hoạt động nhiều, các ngân hàng sẽ tích lũy
dần được kinh nghiệm trong công tác quản lý cũng như trong việc thẩm định các dự án
đầu tư, có các mối quan hệ lâu dài và tốt đẹp với các khách hàng tiềm năng và có một
khối lượng lớn khách hàng lâu năm. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi để tạo nên
một mức lợi nhuận lớn và ổn định trong thời gian dài, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của ngân hàng.
1.2.2.2. Quy mô ngân hàng
Tương tự như phân tích ở trên, những ngân hàng có quy mô lớn sẽ có nhiều cơ
hội trong kinh doanh hơn, khả năng tiếp cận với các nguồn vốn huy động tốt hơn. Hơn
nữa theo quy luật của tính hiệu quả kinh tế nhờ quy mô thì ngân hàng có quy mô càng
lớn thì càng có lợi thế trong việc tiết kiệm chi phí, nhờ đó gia tăng lợi nhuận, gia tăng
hiệu quả kinh doanh. Như chúng ta cũng biết với các ngân hàng có qui mô lớn thì sẽ
15
tận dụng được các hiệu quả như hiệu quả của việc mua sắm các yếu tố đầu vào với
khối lượng lớn nhờ được hưởng chiết khấu, hiệu quả marketing thu được nhờ việc sử
dụng phương tiện quảng cáo đại chúng và mật độ sử dụng lực lượng bán hàng lớn hơn,
hiệu quả tài chính thu được do có điều kiện gọi vốn với điều kiện thuận lợi (lãi suất,
chi phí đi vay thấp hơn). Vì vậy, theo Peter S. Rose (2004) các ngân hàng lớn sẽ có thể
hoạt động với chi phí thấp hơn các ngân hàng nhỏ vì các tổ chức lớn thông thường
hoạt động trong môi trường cạnh tranh mạnh mẽ hơn và từ đó hiệu quả hoạt động của
các ngân hàng có quy mô lớn thường cao hơn.
1.2.2.3. Cơ cấu tài chính của ngân hàng
Theo các lý thuyết về cấu trúc vốn thì việc sử dụng các loại vốn khác nhau trong
cấu trúc vốn của doanh nghiệp sẽ đưa đến chi phí sử dụng vốn khác nhau, mỗi loại vốn
sẽ có ưu nhược điểm riêng. Vì vậy khi lựa chọn cấu trúc vốn thì doanh nghiệp phải
dựa trên đặc trưng riêng của mình để việc đạt được một cấu trúc vốn tối ưu đạt được
các yêu cầu: rủi ro thấp nhất, chi phí sử dụng vốn thấp nhất và gia tăng giá trị doanh
nghiệp cao nhất và những doanh nghiệp làm được việc đó sẽ được thị trường tưởng
thưởng – giá trị doanh nghiệp sẽ gia tăng. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp
đặc biệt nhưng cũng vẫn là doanh nghiệp nên nó cũng bị chi phối bởi những nguyên
tắc như các loại hình doanh nghiệp thông thường. Như đã nói ở trên, mỗi loại vốn có
ưu nhược điểm riêng. Nợ vay thường có chi phí sử dụng vốn thấp hơn và bên cạnh đó
khi sử dụng vốn vay doanh nghiệp sẽ tận dụng được lợi thế tấm chắn thuế của nợ vay.
Hơn nữa khi sử dụng nợ vay doanh nghiệp còn có thể tận dụng lợi thế đòn bẩy tài
chính của nợ. Ngược lại, đối với vốn chủ sở hữu thì lại có lợi thế ở tính ổn định tuy
nhiên nó lại có các nhược điểm mà đối với nợ vay lại là ưu điểm như không tận dụng
được lợi thế đòn bẩy cũng như lợi ích của tấm chắn thuế. Đó là tác động thông thường
đối với các loại hình doanh nghiệp bình thường, tuy nhiên như đã nói ở trên thì ngân
hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên nó cũng có những điểm khác biệt so với
các doanh nghiệp khác. Theo Giáo trình Quản trị NHTM của Trần Huy Hoàng thì
điểm đặc biệt của ngân hàng thể hiện ở chỗ nguồn vốn chủ yếu mà ngân hàng sử dụng
trong kinh doanh là vốn huy động từ bên ngoài, trong khi đó vốn riêng của ngân hàng
lại chiếm rất thấp trong tổng nguồn vốn kinh doanh. Chúng ta cũng thấy về mặt lý
thuyết thì cấu trúc vốn tối ưu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào cũng vậy đó là thiên về
nợ, vì nợ có nhiều ưu điểm có thể đưa doanh nghiệp đạt được hiệu quả hoạt động kinh
16
doanh tối đa mà vốn chủ sở hữu không có và điều này cũng phù hợp với đặc điểm kinh
doanh đặc biệt của lĩnh vực ngân hàng đó là huy động vốn từ nhiều nguồn để cho vay
lại với mục tiêu sinh lời. Vì vậy vốn vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong kết cấu nguồn
vốn của ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó, sức mạnh vốn là một trong những yếu tố
chính quyết định khả năng sinh lời của ngân hàng. Kosmidou và các cộng sự (2005)
tìm thấy một mối quan hệ thuận và có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên
tổng tài sản và tỷ suất lợi nhuận ròng (NIM). Vì vậy, các ngân hàng đang tìm cách
giảm chi phí tỷ lệ vốn tương đối cao của họ bằng cách yêu cầu NIM cao hơn. Điều này
phù hợp với giải thích rằng vốn là một tín hiệu của khả năng thanh toán của ngân
hàng. Do đó, độ nhạy rất cao của lợi nhuận liên quan đến tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên
tổng tài sản có thể được giải thích bởi hành vi của người gửi tiền trong hoạt động ngân
hàng. Điều này có thể giảm chi phí huy động của các ngân hàng và từ đó dẫn đến tỷ
suất lợi nhuận cao hơn. Kết quả này là phù hợp với các nghiên cứu khác, cụ thể là
Demirguc - Kunt và Huizinga (1999), Naceur (2003), Kosmidou và Pasiouras (2005).
1.2.2.4. Hiệu quả quản lý của ngân hàng
Hiệu quả quản lý của ngân hàng được thể hiện ở nhiều khía cạnh như quản lý
nhân sự, hoạch định chiến lược kinh doanh, quản lý chi phí… Trong các lĩnh vực phải
quản lý thì quản lý hiệu quả chi phí là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ lên
hiệu quả hoạt động của một ngân hàng. Khi đo lường hiệu quả hoạt động của ngân
hàng nói riêng cũng như của doanh nghiệp nói chung thì một trong những thước đo
thường được sử dụng là so sánh giữa kết quả đạt được, thường là lợi nhuận hay doanh
thu với chi phí bỏ ra. Bất kỳ sự gia tăng chi phí nào không dẫn đến sự gia tăng tương
ứng doanh thu sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Kiểm soát chi phí cũng
là một vấn đề mà ngân hàng phải quan tâm để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Vấn đề này đặt ra câu hỏi liệu ngân hàng nên đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh hay
chỉ tập trung vào một phân khúc thị trường phù hợp với mình đã xác định từ đầu. Nếu
ngân hàng tập trung đa dạng hóa sản phẩm thì có lợi thế là tiếp cận được với nhiều loại
khách hàng, từ đó huy động được nhiều nguồn vốn và đây cũng là một trong những
yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên vấn đề đặt ra
bên cạnh đó là khi ngân hàng mở rộng danh mục sản phẩm thì chí phí tương ứng cũng
phải tăng thêm như chi phí tập huấn cho nhân viên về các sản phẩm mới, quảng báo
sản phẩm… nhưng nếu trong nhóm sản phẩm mà ngân hàng đã phát triển mở rộng ra
17
có những sản phẩm không mang lại lợi nhuận như mong muốn, tỷ suất sinh lời thấp thì
hiệu quả về mặt chí phí của ngân hàng không đạt được, hay nói cách khác tỷ lệ chi phí
tăng lên làm hiệu quả hoạt động giảm xuống. Tuy nhiên theo Peter S.Rose ở đây cũng
phải thấy một vấn đề là khi chi phí hoạt động gia tăng khuyến khích các ngân hàng
năng động hơn trong việc nâng cao thu nhập. Nhiều dịch vụ trước đây miễn phí, hiện
nay đã bị đánh phí và ngân hàng nhấn mạnh tới việc thu phí đối với khách hàng để bù
đắp toàn bộ chi phí. Hầu hết các ngân hàng hiện đang nỗ lực tìm kiếm các dịch vụ mới
cho phép tạo ra những nguồn thu phí mới đủ bù đắp chi phí và có lãi.
1.2.2.5. Rủi ro
Trong kinh doanh ngân hàng cũng như các loại hình doanh nghiệp khác phải
đối mặt với nhiều loại rủi ro. Trong các rủi ro mà NHTM phải đối mặt thì đầu tiên phải
kể đến rủi ro thanh khoản. Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro đặc trưng và phổ biến
trong hoạt động NHTM. Rủi ro thanh khoản là rủi ro mà ngân hàng thiếu khả năng
thanh toán, do không có khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền, hoặc không có khả
năng huy động, vay mượn để đáp ứng các hợp đồng đã cam kết trước đó. Theo Peter.
S. Rose, hầu hết các vấn đề thanh khoản đều xuất hiện từ ngoài ngân hàng do những
hoạt động tài chính của khách hàng. Trên thực tế các vấn đề về thanh khoản của khách
hàng thường chuyển về phía ngân hàng. Nếu khách hàng doanh nghiệp thiếu hụt trong
dự trữ thanh khoản, nó sẽ có thể thực hiện vay vốn ngân hàng hoặc rút tiền ra khỏi tài
khoản tiền gửi. cả hai điều này đều buộc ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung.
Một ví dụ đậm nét về hiện tượng này xảy ra tháng 10 năm 1987 trong sự sụp đổ thị
trường chứng khoán toàn cầu. Các nhà đầu tư, những người đã vay rất nhiều từ ngân
hàng để kinh doanh chứng khoán theo tài khoản bảo chứng buộc phải tìm vốn bổ sung
nhằm đảm bảo các khoản nợ chứng khoán của họ. Một số lượng lớn người kinh doanh
chứng khoán đã đến các ngân hàng của họ và biến một cuộc khủng hoảng thanh khoản
trên thị trường vốn thành một cuộc khủng hoảng thanh khoản trong hệ thống ngân
hàng. Với đặc trưng đặc biệt của mình sự bền vững của hệ thống NHTM đóng một vai
trò quan trọng đối với sự phát triển và bền vững của cả nền kinh tế. Sở dĩ như vậy vì
đặc điểm của hệ thống NHTM là việc một ngân hàng sụp đổ vì mất khả năng thanh
khoản sẽ có tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý tới các khách hàng của các ngân hàng
khác trong hệ thống có thể kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của cả hệ thống NHTM. Mà
hệ thống NHTM đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là cầu nối giữa khu
18
vực tiết kiệm và đầu tư, khơi thông các luồng vốn trong nền kinh tế. Vì vậy việc đảm
bảo sự bền vững của hệ thống NHTM có vai trò rất quan trọng hay nói cách khác đảm
bảo cho NHTM tránh được rủi ro thanh khoản là vấn đề sống còn của cả hệ thống.
Nhưng rủi ro thanh khoản thì có tác động như thế nào lên hiệu quả hoạt động của
NHTM. Theo Ayadi và Boujelbene (2012) tính thanh khoản của ngân hàng giảm là
một trong các nhân tố quan trọng tác động lên khả năng sinh lời của ngân hàng. Nếu
rủi ro thanh khoản của ngân hàng cao thì khi có hiện tượng rút tiền hàng loạt ngân
hàng sẽ gặp khó khăn có thể dẫn tới phá sản, nhưng ngược lại như vậy là ngân hàng đã
tận dụng tối đa hết nguồn lực đã huy động và trong trường hợp này nếu các dự án mà
ngân hàng đầu tư có hiệu quả thì dĩ nhiên hiệu năng hoạt động của ngân hàng cũng gia
tăng theo. Bên cạnh đó, việc cân đối giữa dự trữ thanh khoản và tài sản đầu tư cũng có
thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Chúng ta đều biết với tầm quan
trọng của hệ thống NHTM trong nền kinh tế nên việc đảm bảo cho hệ thống ngân hàng
ổn định và vững chắc là một nhiệm vụ mà NHNN phải thực hiện được. Vì vậy đảm
bảo tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng cũng là một trong các giải pháp mà
NHNN phải quan tâm. Để thực hiện được việc này NHNN phải yêu cầu tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với các NHTM. Nhưng mặt khác bên cạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHNN
đặt ra cho các ngân hàng thì tùy theo tình hình cụ thể của mình các NHTM có thể gia
tăng mức dự trữ của mình để phục vụ các mục tiêu quản lý. Việc các NHTM tăng tỷ lệ
dự trữ của mình lên sẽ có một tác động tốt là làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng,
đây cũng là một vấn đề nóng hổi mà các NHTM quan tâm trong thời gian qua. Tuy
nhiên cái gì cũng có tính hai mặt của nó. Gia tăng dự trữ đồng nghĩa với tăng tính
thanh khoản những một mặt lại làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.
Sở dĩ như vậy là vì khoản dự trữ gia tăng đó tồn tại dưới hình thức tiền mặt hay tiền
gởi của NHTM, cả hai hình thức này đều có tỷ suất sinh lời thấp. Trong khi đó nếu
NHTM không dự trữ tăng thêm mà đưa vào kinh doanh thì có thể mang lại mức lợi
nhuận cao hơn. Như vậy ở đây luôn có sự đánh đổi giữa rủi ro và tỷ suất sinh lời.
Rủi ro thứ hai ngân hàng cũng phải đối mặt đó là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng
là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay đối với người cho vay khi đến hạn
phải thanh toán, luôn là người cho vay phải chịu rủi ro khi chấp nhận một hợp đồng
cho vay tín dụng. Bất kỳ một hợp đồng cho vay nào cũng có rủi ro tín dụng. Rủi ro tín
dụng hiện tại cũng là một vấn đề nhức nhối đối với các NHTM. Những thay đổi của