Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

SKKN Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.97 MB, 41 trang )


A.MỞ ĐẦU :
1. Lý do chọn đề tài :
Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung
của trường Trung học cơ sở : góp phần hình thành những con người có
trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ hoặc ra đời hoặc tiếp
tục học lên ở bậc cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng,
biết yêu thương quý trọng gia đình, bè bạn ; có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng
nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu,
cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy
sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong
nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực
sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng là
những người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .
Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS chia làm ba phân môn : Văn
học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập
làm văn là phân môn “nhẹ kí” nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
từng nói : “Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình
suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm
nổi bật điều mình muốn nói …”( Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện,
Nghiên cứu giáo dục, số 28, 11/1973 ).
Chúng ta đã biết môn Tập làm văn là một môn khó, khô khan, muôn
hình vạn trạng vì các em học sinh không đủ vốn từ để làm một bài Tập
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 1

làm văn, không biết là nó bắt đầu từ đâu và kết thúc như thế nào, không
nắm được đặc trưng của từng thể loại.
Tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn
Văn- Tiếng Việt. Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối


tương quan chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt. Tiếng Việt dạy cho các em
cách sử dụng từ ngữ, cách viết câu, sử dụng các biện pháp tu từ. Văn học
giúp các em có đủ khả năng hiểu, phân tích một vấn đề, cảm nhận cái
hay, cái đặc sắc của tác phẩm, rèn cho các em biết cảm xúc rung động
trước cái đẹp của ngôn từ. Vì vậy, phân môn Tập làm văn có tốt hay
không là cách sử dụng từ ngữ, cách viết câu, phân đoạn. Nội dung có
cảm xúc hay không là kết quả học tập và rèn luyện của hai phân môn
Văn học và Tiếng Việt.
Nhưng học tốt Văn học và Tiếng Việt chưa chắc đã làm tốt một bài
Tập làm văn nếu các em không nắm được các bước cơ bản khi tiến hành
một bài Tập làm văn đó là những bước gì. Mỗi bước có điểm gì cần lưu
ý. Đặc biệt hơn, cái sai lớn nhất của các em là không biết phân đoạn,
cách trình bày đoạn văn như thế nào cho phù hợp. Đó là vấn đề mà các
em chưa thực sự quan tâm lắm.
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy các em chưa biết lập dàn bài, dựng
đoạn
( ở phần Thân bài trong các kiểu văn bản thường chỉ có một đoạn văn )
trước khi bước vào khâu viết văn bản. Thế là nhớ đâu viết đó, viết lan
man không chủ đích dẫn đến quên ý, ý nọ xọ ý kia, bài văn không nhất
quán, không làm nổi bật một nội dung nào đó.
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 2

Với Tập làm văn cái đích đó là kĩ năng nói, viết theo chuẩn văn hóa
trung bình từng cấp về từng kiểu loại văn bản. Ở Tiểu học, có thể chỉ là
tập nói đúng, viết đúng những câu, những bài nói, bài viết ngắn gọn phù
hợp ở mức ban đầu. Ở cấp THCS, ngôn ngữ, vốn sống, tư duy đã phát
triển, việc tập nói, tập viết đã có thể hướng tới văn bản tương đối hoàn
chỉnh với tính cách thể loại tương đối rõ để đáp ứng nhu cầu giao tiếp
trong đời sống sẽ hòa nhập trong tương lai gần ( ở độ tuổi trưởng thành ).
Như vậy chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em

nắm vững văn bản. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các
thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản.
Đó là tất cả những điều mà tôi thật sự quan tâm trước thực trạng dạy
và học phân môn Tập làm văn hiện nay.Vì thế, tôi quyết định chọn giải
pháp : Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài
khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn ở lớp 6 trường
THCS.
2. Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu : Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh học cách
phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm
văn lớp 6 là học sinh lớp 6A1 trường THCS Nguyễn Tri Phương năm
học 2010 – 2011.
3. Phạm vi nghiên cứu :
- Được nhà trường phân công giảng dạy lớp 6A1, 6A2, 6A3 từ đầu
năm học, tôi nhận thấy tình hình viết bài Tập làm văn của các em còn
hạn chế về cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài văn tự sự, đặc biệt
là học sinh lớp 6A1 nên tôi tìm cách nghiên cứu giải pháp Hướng dẫn
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 3

học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân
môn Tập làm văn lớp 6.
- Trong phạm vi giải pháp này, tôi chỉ đề cập đến các tiết Tập làm
văn ở kiểu văn bản tự sự của sách giáo khoa Ngữ văn 6.

4. Phương pháp nghiên cứu :
Thực hiện giải pháp này tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu :
1. Phương pháp đọc tài liệu :
- Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập 1, tập 2
- Sách giáo viên Ngữ văn 6 tập 1, tập 2
-Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn

THCS
- Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn

Nhà xuất bản Giáo dục
- Các dạng bài Tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 6 –Cao Bích
Xuân – Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Phương pháp đàm thoại :
- Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của học sinh về việc học, về sự
yêu thích bộ môn, về hoàn cảnh gia đình, … qua việc gần gũi, thăm hỏi
trong 15 phút đầu giờ, giờ giải lao, sinh hoạt chủ nhiệm.
3. Phương pháp kiểm tra :
- Kiểm tra việc học Tập làm văn của học sinh ở đầu năm, thống
kê kết quả .
4. Phương pháp so sánh, đối chiếu :
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 4

- Dự giờ các bạn đồng nghiệp trong tổ, xem xét tình hình học tập
của học sinh về cách thực hành viết bài văn tự sự để bản thân rút ra ưu,
khuyết điểm của việc dạy học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi
làm bàiVăn tự sự ở lớp 6.
B. NỘI DUNG :
1. Cơ sở lý luận :
Luật Giáo dục năm 2005, Điều 2 đã xác định : Mục tiêu của giáo
dục phổ thông là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; trung thành với lí
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, mục tiêu giáo dục phổ thông đã chuyển từ chủ yếu là
trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết

cho các em đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Phương
pháp giáo dục phổ thông cũng đã được đổi mới theo hướng “phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên”.( Luật Giáo dục năm 2005, Điều 5 )
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số
16/2006/QĐ - BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GDĐT đã
nêu :
“ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 5

của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng
hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học
sinh”.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan
trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông.
Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt
động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các
hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người
học.
Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp
nhận thông tin thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc
lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà
trường.
Việc vận dụng kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn
phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự phân môn Tập làm văn lớp 6 nhằm
giúp cho học sinh có thói quen viết trong môi trường giao tiếp khác
nhau. Nó được thực hiện một cách có hệ thống, theo những chủ đề nhất

định, gắn với những chủ đề quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày, đảm
bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
2. Cơ sở thực tiễn :
Trong nhà trường nói chung, trong trường THCS nói riêng, Ngữ
văn là một môn học trang bị cho học sinh những tri thức để đánh giá
đúng các vấn đề văn học (bao gồm: tác phẩm, tác giả, các quá trình văn
học,…) có nghĩa là góp phần tạo cho học sinh khả năng khám phá vẻ đẹp
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 6

của tác phẩm văn học trong việc tiếp nhận cũng như khả năng biết đánh
giá đúng đắn, khoa học các hiện tượng.
Song song với nhiệm vụ trên là quá trình giúp học sinh hình thành
và phát triển khả năng sản sinh văn bản mới ( nói và viết ).
Tập làm văn là phân môn hướng tới nhiệm vụ thứ hai này. Nó giúp
học sinh hình thành những kĩ năng cần thiết để làm được bài văn. Người
học sinh từ tiểu học đến trung học ( kể cả vào đại học ) đã và sẽ được
làm văn theo ba dạng sau đây :
Dạng sáng tác văn học như : miêu tả, tường thuật, kể chuyện ( tự
sự ) và một số thể thơ quen thuộc như : thơ năm chữ, thơ tứ tuyệt, thơ lục
bát,…
Dạng bài nghị luận với hai nội dung chủ yếu là nghị luận xã hội và
nghị luận văn học ( trong chương trình THCS ở lớp 7,8,9).
Dạng văn hành chính công vụ như đơn từ, biên bản, thông báo, báo
cáo, hợp đồng.
Đặc trưng cơ bản của nhóm thứ nhất là kích thích trí tưởng tượng
phong phú, xây dựng óc quan sát tinh tế cho học sinh. Đặc trưng của
nhóm thứ hai là nhằm hình thành và phát triển tư duy lí luận với khả
năng lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Loại văn hành chính công
vụ thì có đặc trưng là khuôn mẫu, công thức.
Trong nhà trường phổ thông, nhìn chung không đặt ra việc sáng tác

văn học. Tuy nhiên để phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS được làm
quen với kiểu sáng tác tạo tiền đề cho các em có thể vận dụng tốt trong
quá trình học sau này.
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 7

Những bài văn hay loại này là những bài văn viết đúng quy cách,
chân thật, có những khám phá hồn nhiên về đời sống gia đình, xã hội.
Trong chương trình Ngữ văn THCS ở lớp 6 học sinh được học văn tự
sự trong cả Học kì I. Tuy học sinh đã học văn tự sự ở lớp 4 Tiểu học gần
như hết một học kì nhưng nhiều lí do các em làm loại văn này chưa tốt
nhất là phần Thân bài, thường các em chỉ viết có một đoạn văn. Không
chỉ ở học sinh lớp 6 mà ngay cả học sinh lớp 7,8,9 khi làm một bài Tập
làm văn khi viết phần Thân bài các em thường chỉ viết có một đoạn văn.
Đó là điều mà tôi trăn trở trong quá trình dạy học nhất là dạy học sinh
làm một bài Tập làm văn.
Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được
những bài văn hay nhưng đó không phải là việc dễ. Bài văn hay trước hết
phải là viết đúng (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ
nhà trường).Hay và đúng có quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay
trước hết phải viết đúng theo yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức
cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách,…
Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên
trang giấy. Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ
giấy, chưa cần đọc đã thấy rõ ba phần : Mở bài, Thân bài và Kết bài.
Muốn thế người viết không phải chỉ chú ý đến nội dung mà cả hình thức
cũng phải rõ.
Yêu cầu là vậy nhưng trong thực tế dạy - học tôi thấy bài văn của học
sinh chưa đáp ứng được yêu cầu đó là bao.Bài làm của các em vẫn còn
hiện tượng : đoạn văn còn sai quy cách, giữa các đoạn chưa có sự liên
kết.

Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 8

Về phía giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới
chỉ giúp các em nắm bắt những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa.
Trong quá trình dạy chỉ dạy văn tự sự ở những tiết học Tập làm văn,
chưa tận dụng được thời gian ở phân môn Văn học, Tiếng Việt để tích
hợp với phần Tập làm văn. Đặc biệt chưa chú trọng luyện tập và ra bài
tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài. Đến năm học
2008-2009, tôi đã nghiên cứu và thực hiện giải pháp hướng dẫn học sinh
các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập một
văn bản tự sự. Và năm học 2009-2010, tôi lại tiếp tục nghiên cứu thực
hiện giải pháp hướng dẫn học sinh học tốt tiết luyện nói. Qua hai năm
thực hiện, chất lượng bài viết của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Tuy
nhiên, bài viết của các em vẫn chưa đạt yêu cầu ở phần Thân bài :
thường chỉ viết có một đoạn. Đó là điều trăn trở của tôi nhất là khi nhận
dạy Ngữ văn lớp 6 mà trong đó lại có một lớp 38/38 học sinh có kết quả
học tập khá giỏi từ Tiểu học lên. Vậy làm thế nào để học sinh viết được
một bài văn tự sự đúng và hay ?
Về phía học sinh, do đời sống còn nhiều khó khăn, một số em ngoài
giờ học còn phải phụ gia đình nên ít có thời gian để đọc các tài liệu tham
khảo, mở rộng hiểu biết, ít có điều kiện cũng như thời gian luyện tập.
Do đó, tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt
nhất giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự ngay từ những ngày đầu tiếp cận
với chương trình Ngữ văn cấp THCS, nhất là biết cách phân đoạn phần
Thân bài. Qua thời gian tìm tòi và vận dụng, cho đến nay tôi đã tìm cho
mình một số cách làm mang lại hiệu quả cao. Trong cách làm đó vấn đề
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 9

tích hợp có vai trò rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của dạy học Ngữ
văn hiện nay.

Vì thế, theo tôi việc vận dụng kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách
phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập
làm văn lớp 6 là một yêu cầu thiết yếu. Nhưng làm như thế nào và bằng
cách nào để yêu cầu đạt hiệu quả ? Đây là vấn đề tôi muốn đề cập trong
giải pháp nhỏ này.
3. Nội dung vấn đề :
3.1. Vấn đề đặt ra :
* Đối với giáo viên :
Người giáo viên phải nắm lấy ưu thế của học sinh như những tri
thức, vốn sống, tư tưởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn.
Đồng thời, qua đó uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong
nhận thức, vốn sống, tư tưởng của các em.
Giáo viên không chỉ đóng vai trò là người truyền đạt tri thức mà
phải là người tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, gợi mở, cố vấn, trọng tài cho
các hoạt động tìm tòi, khám phá, giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức
mới. Giáo viên phải có năng lực đổi mới phương pháp dạy học, chuyển
từ kiểu dạy tập trung vào vai trò của học sinh và hoạt động học, từ cách
dạy thông báo - giải thích - minh họa sang cách dạy hoạt động tìm tòi
khám phá.
Việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt
đoạn văn tự sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của
đoạn văn.
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 10

Trong thực tế giảng dạy môn Tập làm văn lớp 6 ở trường THCS
hiện nay đặt trọng tâm ở thực hành : xây dựng bài qua thực hành, thực
hành nhận biết và thực hành làm văn bản. Do đó điểm mới và khó trong
chương trình là phương pháp dạy thực hành.
Củng cố kiến thức Tiếng Việt và Văn học góp phần bồi dưỡng
tâm hồn, trí tuệ để học sinh biết rung động trước cái hay, cái đẹp, hướng

các em tới nhu cầu thẩm mỹ, sáng tạo và biết tôn trọng những giá trị
thẩm mỹ khi làm một bài văn tự sự.
Tập làm văn là một phân môn khó, đặc biệt yêu cầu về kĩ năng
càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta phải dày công, kiên trì dạy các em. Là
phân môn có tính thực hành cao nên giáo viên cần rèn cho học sinh nắm
vững lí thuyết để vận dụng vào thực hành đạt kết quả.
* Đối với học sinh :
Để việc làm một bài Tập làm văn đạt chất lượng, bản thân học
sinh cũng cần phải :
- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia vào các hoạt động học
tập để tự khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái
độ và hành vi đúng đắn.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân ; tích
cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn.
- Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản
phẩm học tập của bản thân và bạn bè.
Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người
thợ cũng phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để viết tốt
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 11

một bài văn tự sự, học sinh phải trải qua quá trình rèn luyện nghiêm túc
có sự hướng dẫn của giáo viên.
3.2. Giải pháp chứng minh vấn đề được giải quyết :
3.2.1 Các bước chuẩn bị :
Để tiết dạy thành công thì khâu chuẩn bị bài là hết sức quan
trọng. Trước khi lên lớp, giáo viên cần làm các việc sau :
- Làm tốt khâu soạn giảng : Đối với bài học môn Tập làm
văn lớp 6 đặt trọng tâm là thực hành : xây dựng bài qua thực hành, thực
hành nhận biết, thực hành làm văn bản. Với từng kiểu bài, giáo viên phải
định hướng mục đích yêu cầu của bài, nghiên cứu từng phần cụ thể để

đưa vào những bài tập rèn viết văn tự sự thích hợp.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi và bài tập : Phải chú ý hệ
thống câu hỏi – bài tập nhằm tạo điều kiện tốt nhất để học sinh không chỉ
trả lời, tranh luận với giáo viên mà còn được trao đổi, tranh luận với
bạn học để tìm ra chân lí ( không gò ép). Điều quan trọng là xây dựng
kế hoạch hoạt động của giờ học, hệ thống câu hỏi – bài tập và lựa chọn
cách kiểm tra, đánh giá kết quả học sinh nhằm kích thích tính chủ động,
sáng tạo.
- Chuẩn bị tốt đồ dùng, thiết bị : Chú ý lựa chọn những đồ
dùng, thiết bị cần thiết phù hợp với từng tiết dạy. Việc sử dụng đồ dùng,
thiết bị thích hợp sẽ làm cho giờ học sinh động, học sinh hứng thú hơn
khi tiếp xúc với những kiến thức bổ trợ trực quan, tích cực khai thác nội
dung học tập, làm
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 12

cho lao động của giáo viên trên lớp nhẹ nhàng hơn, tập trung hơn và hiệu
quả hơn.
3.2.2. Phương pháp giảng dạy :
Như chúng ta đã biết, thông qua môn Tập làm văn, qua bài
làm văn của mình, các em bộc lộ những tri thức, vốn sống tư tưởng, tình
cảm của cá nhân. Vì thế người giáo viên phải biết nắm lấy ưu thế này để
phát huy những khả năng của các em, đồng thời thông qua các bài tập để
rèn cho học sinh kĩ năng viết bài văn tự sự được tốt hơn. Để đạt được
hiệu quả mong muốn người giáo viên không chỉ truyền thụ kiến thức có
sẵn trong giáo án mà còn phải có sự sáng tạo khi lên lớp, phải giữ chuẩn
mực đúng phong cách sư phạm.
Trong phân môn Tập làm văn lớp 6 ở Học kì I tập trung
vào các kiến thức văn bản tự sự :
1. Giao tiếp, văn bản và phương thức biểu đạt
2. Tìm hiểu chung về văn tự sự

3. Sự việc và nhân vật trong văn tự sự
4. Chủ đề và dàn bài văn tự sự
5. Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự
6. Lời văn, đoạn văn tự sự
7. Thứ tự kể trong văn tự sự
8. Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự
9. Luyện tập xây dựng bài tự sự - Kể chuyện đời thường
10. Kể chuyện tưởng tượng
Để giúp học sinh biết phân đoạn phần Thân bài khi làm bài
Văn tự sự tôi chỉ hướng dẫn học sinh các thao tác, những cách thức,
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 13

những bước đi trong quá trình tạo lập một văn bản tự sự chủ yếu phần
Thân bài như : kể chuyện dân gian, kể chuyện đời thường, kể chuyện
tưởng tượng. Cụ thể là đi sâu các kiến thức văn bản tự sự ở Học kì I.
Bên cạnh đó phải tích hợp các kiến thức được học về truyện
kể dân gian, truyện trung đại phần Văn học và biết lựa chọn từ ngữ, sử
dụng từ có chọn lọc phần Tiếng Việt.
Tất nhiên các kiến thức thuộc văn bản tự sự được học trong
Học kì I học sinh cũng phải nắm được mới làm tốt một bài văn tự sự và
sẽ được kiểm chứng qua tiết luyện nói, tiết làm bài viết.

*Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức :
Để hoàn thành những định hướng đã đặt ra, dựa trên thực tế
đã làm, tôi xin trình bày những biện pháp chính đã áp dụng như sau :

a/ Hình thành những chuẩn mực cần phải đạt đến khi
viết một đoạn văn tự sự.
Khi viết bài Tập làm văn học sinh phải biết lập dàn ý,
mỗi ý lớn trong dàn ý sẽ viết ít nhất là một đoạn văn.

Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ
chữ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và
thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều
câu tạo nên.
Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ
chủ đề là các từ ngữ được lặp lại nhiều lần ( thường là chỉ từ, đại từ, các
từ đồng nghĩa ) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 14

nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và
đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn.
Các câu còn lại trong đoạn văn ( không phải là câu chủ đề
) là câu triển khai có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ câu chủ đề của
đoạn văn bằng các cách diễn đạt : diễn dịch, quy nạp, song hành, móc
xích, tổng-phân-hợp.
Khi viết đoạn văn phải chú ý đến câu chủ đề. Mỗi ý trong
bố cục lớn sẽ được triển khai thành một đoạn theo nhiều cách (diễn dịch,
quy nạp, song hành, móc xích, tổng-phân-hợp ).Sử dụng từ ngữ gợi tả,
biện pháp tu từ hợp lí, câu đủ chủ-vị, các câu liên kết chặt chẽ với nhau.
Đoạn văn trình bày đúng quy cách.
Nội dung của các đoạn phần Thân bài đều phải hướng vào
một mục đích cần làm sáng rõ được nêu ra ở Mở bài, phải có sự liên kết
chặt chẽ với nhau qua các từ ngữ, câu liên kết.
Những căn cứ để phân đoạn :
Có hai căn cứ để tách đoạn văn :
- Bố cục của văn bản : Thường chia làm ba đoạn :
+ Đoạn văn làm phần Mở bài : Nêu đối tượng được
nói đến, nhiệm vụ của đề tài. Đó cũng chính là cơ sở và phương hướng
để triển khai đề tài và qua đó mà xác lập mục tiêu cần đạt được đến của
văn bản.

+ Đoạn văn ( hay nhiều đoạn văn ) làm phần Thân
bài : Trình bày, giải thích, … nội dung của đề tài, theo hướng nhiệm vụ
đã đề ra. Thân bài phải thực hiện vừa đủ ( không thiếu, không thừa )
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 15

những nhiệm vụ đề ra ở phần Mở bài, hướng vào mục đích cần đạt đến
của văn bản.
+ Đoạn văn làm phần Kết bài : Nhận xét chung về
đề tài hoặc nhiệm vụ của đề tài ( như giá trị, công dụng, ảnh hưởng, tầm
quan trọng,…), đánh giá kết quả đạt được, gợi mở những hướng xem xét
khác, …
- Những biến đổi trong quan hệ nội dung giữa các đoạn
văn :
Sau đây là bốn nội dung quan hệ thường gặp :
+ Đề tài : Quan hệ giữa các vật, việc, hiện tượng
khác nhau : mỗi vật, việc, hiện tượng đó được tách thành một đoạn văn.
+ Không gian : Quan hệ giữa các điểm, hướng
không gian của một vật, việc, hiện tượng. Mỗi điểm, hướng không gian
của nó được tách thành một đoạn văn.
+ Thời gian : Quan hệ giữa các thời điểm, thời hạn
của một vật, việc, hiện tượng. Mỗi thời điểm, thời hạn của nó được tách
thành một đoạn văn.
+ Phương diện của đề tài : Quan hệ giữa các mặt,
các đặc điểm, các tác dụng khác nhau của một vật, việc, hiện tượng. Mỗi
mặt, mỗi đặc điểm, mỗi tác dụng của một đề tài được tách thành một
đoạn văn.
Ở bài văn tự sự phần Thân bài ít nhất từ hai đến ba đoạn.
Văn tự sự ở lớp 6, học sinh chỉ được học một tiết về đoạn
văn :
Tiết 20- Lời văn, đoạn văn tự sự.

Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 16

Để học sinh có được những chuẩn mực về đoạn văn
vừa nêu trên tôi mạnh dạn đầu tư vào tiết 20. Ở tiết này, học sinh :
- Hiểu đoạn văn tự sự : gồm một số câu, được xác
định giữa hai dấu chấm xuống dòng.
- Biết viết đoạn văn, bài văn tự sự.
Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu về đoạn văn bằng
Hoạt động 3 khi dạy trên lớp và chú ý phần Luyện tập ở bài tập 1.
Minh họa :
*Tiết 20 – Lời văn, đoạn văn tự sự
*Hoạt động 3:Hướng dẫn HS tìm hiểu đoạn văn tự sự .
.Cho HS đọc lại ba đoạn văn( máy chiếu )
3. Đoạn
văn :

Mỗ
i đoạn
văn
thường có
một ý
chính,
diễn đạt
thành một
câu gọi là
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 17

? Hãy cho biết mỗi đoạn văn biểu đạt ý chính nào?Gạch
dưới câu biểu đạt ý chính? Tại sao người ta gọi đó là câu
chủ đề ?

0. Thảo luận theo nhóm cùng bàn (2 phút) và trình bày :
- Đoạn 1 : Vua Hùng kén rể
- Đoạn 2 : Hai thần đến cầu hôn
- Đoạn 3 : Thuỷ Tinh dâng nước đánh Sơn Tinh .
- Câu chủ đề : diễn đạt ý chính của đoạn văn .
0 . Nhận xét, góp ý .
. Chốt ý.
. Gọi HS đọc Ghi nhớ SGK/59
0. 2 em đọc Ghi nhớ
*Hoạt động 4:Hướng dẫn HS luyện tập
.Cho HS đọc bài tập 1
0. Đọc và xác định yêu cầu
0.Thảo luận theo 6 nhóm (3 phút) và cử đại diện trình
bày :
- Nhóm 1,2 : đoạn a.
- Nhóm 3,4 : đoạn b.
- Nhóm 5,6 : đoạn c.
0. Nhận xét, bổ sung
Chốt ý.(máy chiếu)
câu chủ
đề.
Các
câu
khá
c
diễ
n
đạt
nhữ
ng

ý
phụ
dẫn
đến
ý
chí
nh
đó
hoặ
c
giải
thíc
h
cho
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 18

ý
chí
nh,
làm
cho
ý
chí
nh
nổi
lên.
II.Luyện
tập:
Bài tập
1:


Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 19


Qua tiết học, học sinh đã hiểu đoạn văn tự sự : gồm một
số câu, được xác định giữa hai dấu chấm xuống dòng; biết tìm ý chính
của mỗi đoạn trong một văn bản tự sự đã học, tìm đúng câu chủ đề và
thứ tự triển khai các câu chủ đề trong một đoạn văn.
b/ Chú trọng việc luyện viết đoạn văn phần Thân bài của
học sinh ngay từ đầu năm học trong tất cả các giờ dạy Tập làm văn.
Để giúp học sinh biết phân đoạn phần Thân bài khi làm
bài văn tự sự, tôi đã hướng dẫn cho các em trong một số tiết dạy Tập làm
văn sau :
* Tiết 11- Sự việc và nhân vật trong văn tự sự.
Khi dạy tiết này, ở Hoạt động 1: Tìm hiểu đặc điểm của
sự việc trong văn tự sự, sau khi học sinh từ văn bản mẫu “Sơn Tinh,
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 20

Thủy Tinh” đã hiểu được vai trò của sự việc trong văn tự sự, tôi đặt câu
hỏi phát vấn học sinh:
? Ở từng sự việc khi kể lại em sẽ viết thành một đoạn văn
như thế nào?
HS: có thể dựa vào văn bản “Sơn Tinh, Thủy Tinh”
trình bày một vài đoạn văn thích hợp với các sự việc được nêu.
Sau đó, tôi cho học sinh quan sát ví dụ minh họa ở bảng
phụ (một vài sự việc cho học sinh bước đầu hiểu được một sự việc có thể
viết thành một đoạn văn)
Sự việc Đoạn văn
(1) Vua Hùng kén rể Hùng Vương thứ mười tám có một
người con gái tên là Mị Nương, người

đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. vua cha
yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho
con một người chồng thật xứng đáng.
(2)Sơn Tinh, Thủy Tinh đến
cầu hôn.
Một hôm có hai chàng trai đến cầu
hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có
tài lạ […]. Người ta gọi chàng là Sơn
Tinh. Một người ở miền biển, tài năng
cũng không kém […]. Người ta gọi
chàng là Thủy Tinh. […], cả hai đều
xứng đáng làm rể vua Hùng.
(3)Vua Hùng ra điều kiện
chọn rể.
Vua Hùng băn khoăn […].Vua phán :
“Hai chàng đều vừa ý ta […]. Hai chàng
tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, vua
bảo : “Một trăm ván cơm nếp, một trăm
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 21

nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín
cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một
đôi.”
Xong, tôi chuyển sang các Hoạt động khác trong tiết dạy.

* Tiết 14- Chủ đề và dàn bài của bài văn tự sự.
Dạy bài này, tôi gợi ý cách phân đoạn phần Thân bài khi
chốt ý ở Bài tập 1 câu c.
Minh họa ( giáo án tiết 14 )
Hoạt động của giáo viên và học

sinh
Nội dung bài học
*Hoạt động 3:Hướng dẫn HS luyện
tập.
.Cho HS đọc bài tập 1.
0. Đọc truyện Phần thưởng .
- Câu a :
0.Đọc, xác định yêu cầu và trả lời
.Chốt ý


- Câu b :
0. Đọc và xác định yêu cầu và trình
II. Luyện tập :
Bài tập 1:SGK/45,46
a) Chủ đề của truyện :
- Biểu dương : người
nông dân thông minh, nhanh trí .
- Chế giễu : tên cận thần
tham lam .
Sự việc tập trung vào chủ
đề :
Việc người nông dân xin
thưởng năm mươi roi và đề
nghị chia đôi phần thưởng đó .
b) Ba phần của truyện :
- Mở bài : câu 1
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 22

bày

.Chốt ý

- Câu c :
0. Đọc và xác định yêu cầu
0.Thảo luận theo nhóm cùng bàn (3
phút) và cử đại diện trình bày
0. Nhận xét, bổ sung
Chốt ý ( bảng phụ )
. Giảng giải thêm cho HS :
- Chủ đề của bài văn tự sự : có
khi được nói ra(Tuệ Tĩnh ), có khi
không trực tiếp nói ra ( Phần
thưởng ).
- Các sự việc phải thích hợp với
chủ đề.
- Bố cục thường có ba phần : Có
nhiều cách Mở bài ( Đọc thêm :
SGK/47) và Kết bài : Sự việc kết thúc
( Phần thưởng ), sự việc tiếp tục
( Tuệ Tĩnh).
- Thân bài : từ “ Ông ta
tìm đến … hai mươi nhăm roi .”
- Kết bài : câu cuối
c) So sánh truyện Phần
thưởng với truyện Tuệ Tĩnh :
( bảng phụ )



Bảng phụ

Nội dung so
sánh
Truyện Phần thưởng Truyện Tuệ Tĩnh
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 23

- Về bố cục
+ Mở bài
+ Thân bài
+ Kết bài
Giới thiệu tình huống. Nói rõ ngay chủ đề.
- Tìm vua dâng ngọc.
- Quan đòi chia phần
thưởng.
- Xin thưởng roi.
- Tuệ Tĩnh từ chối chữa
bệnh cho người nhà giàu đến
trước vì ông ta bệnh nhẹ
- Tuệ Tĩnh chữa ngay cho
con trai người nông dân vì
bệnh chú bé nguy hiểm hơn.
- Viên quan bị đuổi ra.
- Người nông dân được
thưởng.
Tuệ Tĩnh lại bắt đầu một
cuộc chữa bệnh mới.
- Về chủ đề Tố cáo tên cận thần
tham lam bằng cách chơi
khăm một vố.
Hết lòng thương yêu cứu
giúp người bệnh.


Sau khi cho học sinh quan sát phần chốt ý ở bảng phụ, tôi
cũng phát vấn học sinh :
? Phần Thân bài của truyện Phần thưởng có mấy sự việc và
được trình bày bằng mấy đoạn văn?
HS: Truyện Phần thưởng có ba sự việc trong phần Thân
bài, mỗi sự việc viết thành một đoạn văn.
? Phần Thân bài của truyện Tuệ Tĩnh có mấy sự việc và
được trình bày bằng mấy đoạn văn?
HS: Truyện Tuệ Tĩnh có hai sự việc trong phần Thân bài,
mỗi sự việc viết thành một đoạn văn.
GV: Các em cần chú ý trong văn bản tự sự phần Thân bài
thường trình bày một sự việc bằng một đoạn văn.
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 24

* Tiết 15- Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự.
Trong bài này, tôi gợi ý cách phân đoạn phần Thân bài ở
Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn tự sự.

Minh họa ( giáo án tiết 15 )
Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung bài học
*Hoạt đông2:Hướng dẫn HS cách
làm bài văn tự sự .
.Ghi đề bài lên bảng, cho HS đọc đề
và xác định yêu cầu của đề .
?Việc trước nhất khi làm bài văn tự sự
là gì?
0. Tìm hiểu đề văn tự sự : là tìm hiểu
kĩ lời văn của đề để nắm vững yêu cầu
của đề bài .

Gọi HS nêu tên truyện mà em sẽ kể .
0.Tên truyện : Thánh Gióng ; Sơn
Tinh, Thuỷ Tinh ; Bánh chưng, bánh
giầy ; …
. .Cho HS chọn truyện Thánh Gióng
để thực hành .
0. Dựa vào gợi ý SGK/48, tiến hành
2. Cách làm bài văn tự sự :
Đề bài : Kể một câu chuyện
mà em thích bằng lời văn
của em .
a) Tìm hiểu đề .



b) Lập ý :
Giáo viên : Châu Thị Kim Hoàng 25

×