Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng bài giảng điện tử trong quá trình dạy học môn Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 31 trang )

I. Đặt vấn đề:
Trong hoàn cảnh toàn nghành Giáo dục - Đào tạo đang nỗ lực đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực, chủ động của học sinh thì
người giáo viên cũng phải trăn trở để tìm cho mình một phương pháp dạy
học với tinh thần chung ấy.
Giảng dạy mọi bộ môn khoa học nói chung và giảng dạy môn Ngữ văn
trong trường THCS nói riêng luôn đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi,
sáng tạo để có phương pháp thích hợp giảng dạy và mang lại hiệu quả cao
nhất. Sở dĩ như vậy là vì phương pháp giảng dạy có ý nghĩa quyết định
đối với chất lượng một giờ dạy. Có thể nói, cùng một nội dung chương
trình nhưng phương pháp giảng dạy của giáo viên khác nhau thì mức độ
hiểu bài của học sinh cũng khác nhau. mặt khác đối tượng giảng dạy là
những con người cụ thể, nội dung kiến thức cần giảng dạy thuộc những
bộ môn khoa học khác nhau. Vì vậy, người dạy học phải làm sao có được
phương pháp phù hợp nhất để chuyển tải đúng đắn chân lý khoa học vào
đối tượng giảng dạy để đối tượng có thể hiểu đúng đắn và sâu sắc nội
dung tri thức đó và vận dụng vào cuộc sống của mình.
Môn ngữ văn trong nhà trường vừa là một môn học nghệ thuật, vừa là
môn học công cụ. Dạy - học tác phẩm văn chương trong nhà trường có
nhiệm vụ nâng cao chất lượng cho người học, làm phong phú hơn về văn
hoá, về tâm hồn và phát triển nhân cách của người học. Dạy học tác phẩm
văn chương trong nhà trường là hướng dẫn sự tiếp nhận của tác phẩm,
làm cho văn bản ngôn từ sống lại trong học sinh, giúp câc em nhận ra điều
mà tác giả muốn đối thoại với người đời. Từ sự nhận thức đó, các em đi
đến sự tự ý thức, tự điều chỉnh mình trong cuộc sống.
Qua nhiều năm giảng dạy, bản thân tôi luôn tìm cách cải tiến phương
pháp giảng dạy đối với từng loại kiến thức, từng bài dạy cụ thể để mỗi giờ
1
dạy từ chỗ học sinh ít chú ý nghe giảng trở nên sinh động, hấp dẫn hơn
với các em.
Đặc biệt trong vài năm gần đây với chủ trương của ngành giáo dục là đẩy


mạnh công nghệ thông tin vào trường học, công nghệ thông tin đã góp
phần hiện đại hoá phương tiện, thiết bị dạy học góp phần đổi mới phương
pháp dạy học thì mỗi giáo viên cũng cần phải nỗ lực hơn để có thể theo
kịp tốc độ phát triển của thời đại. Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
quá trình dạy học đã sử dụng những phương tiện dạy học sau: Phim chiếu
để giảng bài với đèn chiếu Overhead, Phần mềm hỗ trợ bài giảng, minh
hoạ trên lớp với LCD-projector (Máy chiếu tinh thể lỏng), phần mềm dạy
học giúp học sinh trên lớp và ở nhà, công nghệ kiểm tra, đánh giá bằng
trắc nghiệm trên máy tính, sử dụng mạng Internet để dạy học và đặc biệt
là sử dụng bài giảng điện tử. Tất nhiên trong quá trình sử dụng các
phương tiện dạy học hiện đại giáo viên và học sinh gặp không ít các khó
khăn. Vậy làm thế nào để việc sử dụng công nghệ thông tin vào các tiết
học cho có hiệu quả là một vấn đề không nhỏ và được sự quan tâm của
nhiều người.
Trong quá trình sử dụng công nghệ thông tin nói chung bản thân tôi cũng
đã cố gắng, nỗ lực rất nhiều. Quá trình giảng dạy, sử dụng giáo án điện tử
cũng gặp không ít khó khăn. Nhưng tôi ý thức được rằng không thể không
có giải pháp tốt, bởi vì xã hội ngày càng phát triển nếu mình không cố
gắng thì sẽ tự đào thải mình. Vì lý do đó mà trong thực tế tôi đã học hỏi
những người xung quanh, bạn bè, tìm tòi sách vở, tài liệu, nghiên cứu
thông qua mạng Internet để tìm ra giải pháp tốt nhất áp dụng cho từng bài
dạy một cách có hiệu quả và qua mỗi lần sử dụng để rút ra được một số
kinh nghiệm. Bài viết này tôi cũng mạnh dạn đưa ra một ý kiến: "Một số
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng bài giảng điện tử trong quá trình dạy
2
học môn Ngữ văn ở trường THCS" mong các đồng nghiệp đón nhận, xem
xét, góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn.
II Nội dung chính:
1. Thực trạng khi chưa sử dụng giáo án điện tử
Từ trước tới nay, việc dạy văn của chúng ta mặc dù có cải tiến liên tục, có

phát triển, có hoàn thiện không ngừng, nhằm làm cho giờ văn hay hơn,
thiết thực hơn, giàu hơi thở và mạch nhịp của cuộc sống hơn, nhưng tất cả
vẫn diễn ra trong khuôn khổ của lối "giảng văn", thầy giảng - trò nghe,
học sinh tiếp thu bài giảng một cách thụ động. Giáo viên chỉ hỏi khoảng
bốn, năm câu trong đó có ba câu cổ điển bất di bất dịch là : đại ý, bố cục,
tư tưởng chủ đề sau đó là dùng phương pháp thuyết trình là chính. Thầy
tự cảm thụ tác phẩm và truyền thụ một chiều cho học sinh, học sinh chỉ có
việc ngồi nghe một cách máy móc. Trong lúc đó qua những kết quả
nghiên cứu tâm sinh lý của học sinh và điều tra xã hội học gần đây cho
thấy thanh, thiếu niên có những thay đổi trong sự phát triển tâm sinh lý,
đó là sự thay đổi có gia tốc. Trong điều kiện phát triển của các phương
tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, học sinh
được tiếp thu nhiều nguồn đa dạng, phong phú từ nhiều mặt của cuộc
sống, có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ
cùng lứa tuổi trước đây. Trong học tập họ không thoả mãn với vai trò của
người tiếp thu thụ động, không chấp nhận các giải pháp có sẵn nên học
sinh có chiều hướng không thích học môn văn. Đây là một thực tế được
thể hiện qua việc học sinh không có hứng thú gì khi học môn văn, uể oải,
không tập trung, không nhớ, không thuộc thơ, văn; khi làm bài viết thì
không có cảm xúc, điểm thấp
3
Đối với giáo viên thì công cụ chủ yếu là viên phấn trắng và bảng đen và
sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống một cách khuôn sáo và
cứng nhắc, trong một giờ học thì hoạt động của giáo viên là chủ yếu. bên
cạnh đó giáo viên lại không có bất kỳ một dụng cụ trực quan hay thiết bị
hỗ trợ cho giảng dạy nào cả nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc chuyển
tải nội dung bài giảng . Ví dụ khi giảng về tác giả, tác phẩm, minh hoạ cụ
thể cho một hình tượng nhân vật hay các chi tiết nghệ thuật, các giai đoạn
lịch sử văn học, các đoạn tả cảnh thiên nhiên không có tranh, ảnh hoặc
video clíp để minh hoạ.

Thực trạng trên đã đặt ra nhiệm vụ cho giáo viên dạy văn ở các trường
trung học là phải tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học văn, phát huy
tính tích cực chủ động của các em nhằm nâng cao chất lượng giờ học văn.
vấn đề dạy học bây giờ điều quan trọng không chỉ ở chỗ đưa ra kết luận
mà chủ yếu là tìm ra con đường đi đến kết luận. Đối với môn văn, một
môn học đồng thời là một môn nghệ thuật thì điều quan trọng không chỉ
là ý thức được tác động nghệ thuật mà là giao tiếp hiệu quả với nghệ
thuật. Điều đó chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện người giáo viên
tôn trọng học sinh như một bạn đọc, coi học sinh là một chủ thể cảm thụ
tác phẩm trong giờ học, giáo viên chỉ khơi gợi cho các em, đưa các em
vào thế giới nghệ thuật của nhà văn để các em tự cảm thụ và hình thành
nhân cách. Một trong những phương pháp sử dụng mang lại hiệu quả
chính là việc áp dụng công nghệ thông tin nói chung và bài giảng điện tử
nói riêng vào quá trình dạy học môn ngữ văn.
2.Những vấn đề chung của việc sử dụng bài giảng điện tử.
Sử dụng máy tính để dạy học là một trong những hướng đổi mới
phương pháp dạy học ở trường THCS hiện nay, trong đó sử dụng bài
giảng điện tử đang được các giáo viên quan tâm nhiều. Mỗi giáo viên cần
chọn các tiết học sao cho nếu giảng dạy bằng bài giảng điện tử thì sẽ tận
4
dụng được tính tối đa ưu việt của máy tính về phương diện cung cấp
thông tin cho người học, tính hấp dẫn của bài giảng, có hiệu quả hơn bài
giảng truyền thống. Việc sử dụng giáo án điện tử để dạy học cần phải đạt
được mục tiêu của bài học.
Tính ưu việt được thể hiện:
* Ưu điểm:
- Các hiệu ứng, màu sắc, kiểu chữ rất tiện lợi cho việc xử lý bài giảng
một cách linh hoạt, hấp dẫn và sư phạm.
- Khả năng sử dụng có hiệu quả các hình ảnh, phim, các tư liệu dạy học
nhanh chóng và chất lượng.

- Tiết kiệm nhiều thời gian viết vẽ trên lớp.
- Thuận lợi cho việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực.
- Thiết kế màn hình đẹp, đa dạng.
- Đã sử dụng nhiều phần mềm chuyên dụng lồng ghép phim ảnh minh
họa.
- Chịu khó thu thập tài liệu cho môn học.
- Giáo viên chuẩn bị bài dạy một lần thì có thể sử dụng nhiều lần.
- Các phương tiện dạy học hiện đại sẽ tạo ra khả năng để giáo viên trình
bày bài giảng sinh động hơn, dễ dàng cập nhật và thích nghi với sự thay
đổi nhanh chóng của khoa học hiện đại.
- Các phương tiện sẽ hỗ trợ, chuẩn hoá các bài giảng mẫu, đặc biệt đối với
những phần khó giảng, những khái niệm phức tạp.
* Hạn chế khi sử dụng giáo án điện tử:
- Giáo viên chưa thành thạo các thao tác cơ bản đối với máy tính, chưa
biết sử dụng thành thạo các phần mềm để thiết kế giáo án, đây là mặt yếu
của nhiều giáo viên hiện nay.
5
- Khi thiết kế giáo án điện tử giáo viên sử dụng màn hình chưa thật hợp lí
trong việc bố trí chữ (viết quá nhiều hoặc viết quá ít - phải lật trang liên
tục), kích cỡ chữ.
- Nội dung viết cũng như tính nhất quán trong trình bày chưa phù hợp
(đâu là nội dung cho học sinh ghi chép, đâu là điều khiển của giáo viên ).
- Còn lạm dụng các hiệu ứng làm học sinh mất tập trung vào bài giảng.
- Lạm dụng màu sắc, âm thanh hoặc sử dụng chúng không hợp lí.
Để xây dựng và sử dụng có hiệu quả giáo án điện tử, bài viết đề xuất một
số vấn đề sau:
3. Một số nguyên tắc trong thiết kế các trang trình chiếu của
giáo án điện tử.
3.1 Sử dụng màu sắc:
Để sử dụng những trang trình chiếu thu hút và ấn tượng, ngoài nội

dung khoa học ra, chúng ta phải biết sử dụng màu sắc hợp lí: chọn màu,
phối màu giữa nền và chữ, phối màu giữa các dòng văn bản. Mỗi màu nền
mang ý nghĩa riêng của nội dung và đối tượng học sinh.
Màu chữ và hình sẽ là công cụ đắc lực phục vụ bài giảng, mỗi bài
giảng sử dụng nhiều nhất là 05 màu. Việc phân phối màu hợp lí sẽ làm
cho bài giảng trở nên hấp dẫn hơn. Chẳng hạn như một bài giảng cần
dùng một màu chính xuyên suốt cho nội dung của bài giảng, một vài màu
nổi hơn cho các đề mục và một màu khác để làm nổi bật các ý quan trọng.
Chú ý các đề mục có vai trò ngang nhau thì phải có màu giống nhau (cỡ
chữ, kiểu chữ cùng nhau). Thông thường, nên dùng màu đỏ để làm nổi bật
các ý quan trọng (nhưng không để trên nền xanh và tím).
3.2 Chữ viết trong trang bài giảng.
Chữ viết trong trang bài giảng thường dùng Times New roman và Arial
(hoặc tuỳ sở thích của người thiết kế). Cỡ chữ khi lên màn hình cần phải
đảm bảo để học sinh ngồi ở dưới hàng ghế cuối cùng cũng đọc hết chữ.
6
Nếu không phải là đề mục của bài giảng thì nên dùng cỡ chữ 24 (trường
hợp bất khả kháng thì có thể dùng cỡ nhỏ hơn nhưng không được nhỏ hơn
20) và lớn nhất là 28 hoặc 32. Chữ lớn, tất nhiên dễ đọc song cũng không
nên dùng chữ quá lớn. Vì: thị trường của mắt bị phân tán, và cũng cần sự
tập trung nội dung ít nhất là của một đề mục vào một trang để học sinh để
theo dõi bài được tốt hơn.
Số chữ trên một trang: về nguyên tắc, không nên viết quá nhiều hàng trên
một trang trình chiếu, mỗi hàng không viết quá nhiều chữ. Để phát huy
được tốt nhất các trang trình chiếu của bài giảng điện tử trên mỗi trang chỉ
nên có từ 10 đến 13 dòng, mỗi dòng không quá 10 chữ để trang trình
chiếu được tập trung và sáng sủa. Việc sử dụng WordArt: Một số phần
mềm cho phép người sử dụng chữ nghệ thuật dùng trang trí trang trình
chiếu, nhưng lưu ý không dùng chữ quá cầu kì,
3.3 Việc sử dụng các hiệu ứng (Effect) trên trang trình chiếu.

Đặc sắc của bài giảng điện tử là sự phong phú của các hiệu ứng (các
kiểu cho xuất hiện trang trình chiếu - Animation Schemes, các kiểu xuất
hiện chữ, hình - Custom Animation ). Song sử dụng chúng cũng tuỳ
trường hợp, nhất là các kiểu xuất hiện chữ.
Đối với bài giảng điện tử cần hạn chế sử dụng các hiệu ứng quay lộn, bay
nhảy vì chúng không thích hợp trong giờ học, làm phân tán sự chú ý đối
với học sinh. Cho nên sử dụng các Effect vừa phải đảm bảo ở mức đủ
sinh động. Nên chọn một số kiểu xuất hiện của màn hình phù hợp, mỗi
bài giảng chỉ nên dùng một kiểu thống nhất. Kiểu xuất hiện của chữ nên
sử dụng hạn chế ở một vài Effect như: Box, Diamond, Rese Chú ý cho
thực hiện nhanh để không mất thời gian và nhàm chán.
3.4 Sử dụng kết hợp các hoạt động và minh hoạ.
7
Đây cũng là một ưu thế tuyệt đối của bài giảng điện tử mà chiếc
bảng thông thường không thể làm được. Nhất là đối với những bài sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên cần mở rộng các nội
dung ra thực tế bằng hình ảnh phim, các phần mềm mô phỏng. Cần cập
nhập thông tin, chèn các câu hỏi, hướng dẫn thảo luận trong khi vẫn để
nội dung bài giảng trên màn hình để tiếp tục bài dạy. Có nhiều cách để
người thiết kế thực hiện được điều đó:
- Sử dụng liên kết:
+ Sử dụng tư liệu theo kiểu liên kết rất thuận lợi. Các thao tác với
máy đơn giản, tư liệu xuất hiện nhanh rõ.
+ Sử dụng các tư liệu là hình ảnh động, film.
+ Có thể liên kết nhiều tư liệu, nhưng trong bài giảng nếu thiếu thời
gian thì ta có thể bỏ qua tư liệu đó cũng không sao. Tuy nhiên, khi trình
chiếu tư liệu thì bài giảng bị gián đoạn.
+ Khi thiết kế các bài giảng tất cả các trang chủ và trang tư liệu để
trong một folder thì mới sử dụng các trang minh hoạ được. Nếu muốn
chuyển sang máy khác cần phải copy toàn bộ folder ấy để chuyển đi.

+ Dấu hiệu liên kết sẽ là thay đổi màu sắc, kí tự đã thống nhất trong
trang trình chiếu (chú ý các tư liệu là hình động hoặc film cần được đóng
gói với phần mềm xử lí động (windows media player, winnap ) để đề
phòng khi đem bài giảng sang máy khác thiếu phần mềm xử lí ấy).
- Chèn tư liệu bằng các hiệu ứng xuất hiện và xoá đi:
Một số tư liệu không chiếm đầy trang bài giảng như một hình vẽ, một
trích dẫn, một câu hỏi, một yêu cầu học sinh làm việc, (trao đổi nhóm về
một nội dung nào đó ), ta có thể không cần dùng liên kết mà chèn trực
tiếp rồi dùng các hiệu ứng xuất hiện khi cần và thoát khi đã dùng xong.
Việc làm này dễ thực hiện và khi trình chiếu thì làm cho màn hình sinh
động, tập trung sự chú ý của học sinh.
8
Song nếu chèn vào một trang quá nhiều tư liệu hoặc tư liệu là các văn
bản quá dài thì công việc thiết kế sẽ rất phức tạp và dễ nhầm lẫn khi cho
cái nào xuất hiện trước, cái nào xuất hiện sau.
4. Khai thác kênh hình trong dạy học Ngữ văn.
4.1 Ý nghĩa của việc sử dụng công nghệ thông tin để khai thác kênh hình
trong dạy học môn Ngữ văn.
Kênh hình được sử dụng trong dạy học môn Ngữ văn chủ yếu là do giáo
viên khai thác từ các nguồn tư liệu trên mạng, trong sách báo hoặc đôi
khi do chính họ tự thiết kế (vẽ tranh ảnh minh hoạ về các nhân vật, các
tình huống của một tác phẩm).
Việc sử dụng công nghệ thông tin để khai thác tình hình (gồm tranh ảnh
và video clip) ở mỗi giờ học môn Ngữ văn có ý nghĩa nhất định trong việc
đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao hiệu quả giờ học. Đối với bộ
môn Văn, do đặc thù là môn học đòi hỏi học sinh phải có khả năng tiếp
nhận tri thức bằng chính sự mẫn cảm của đời sống tâm hồn nên nhiều
giáo viên còn e ngại sử dụng công nghệ thông tin để giảng dạy và cho
rằng không nhất thiết phải cần đến sự hỗ trợ của đồ dùng trực quan (tranh
ảnh, video clip) mới có được một giờ văn thành công. Đặt trong các khía

cạnh cần khai thác của một tác phẩm như: Bối cảnh lịch sử - xã hội, đời
sống văn hoá của một giai đoạn văn học, phong tục, tập quán của dân tộc,
cảnh vật thiên nhiên đất nước Nếu được tái hiện lại qua các hình ảnh, âm
thanh, đoạn phim một cách hợp lí và đúng lúc, chắc chắn sẽ làm giờ giảng
sinh động hơn, thu hút sự chú ý của học sinh và giúp các em tốt hơn trong
quá trình tiếp nhận kiến thức. Vẫn biết, văn chương vốn thuộc về đời sống
tâm hồn thì chỉ có thể cảm nhận nó bằng chính tâm hồn của người học.
Nhưng, nếu chúng ta biết cách sử dụng công nghệ thông tin có hiệu quả
thì dù có sự xuất hiện của máy móc và trang thiết bị hiện đại vẫn không
thể làm "xơ cứng" đời sống tâm hồn của người học văn.
9
4.2 Khai thác kênh hình trong dạy Văn ở trường THCS.
Kênh hình của bộ môn Văn không sẵn có, không cố định như những bộ
môn Lịch sử, Địa lý; vì thế, giáo viên Văn nếu muốn đưa kênh học vào
bài giảng buộc phải tự kiếm tìm và khai thác qua mạng, qua sách báo.
Cách khai thác và sử dụng kênh hình của họ cũng không giống nhau do ý
tưởng bài giảng của mỗi người mỗi khác, do vậy, có sự đòi hỏi cao ở giáo
viên sự chịu khó, khả năng đầu tư về chuyên môn và một niềm say mê
trong đổi mới phương pháp dạy học.
Chương trình Ngữ văn ở trường THCS bao gồm các phân môn: Văn học,
Tiếng Việt, Tập làm văn . Kênh hình được khai thác và sử dụng nhiều
nhất ở phân môn Văn học do đặc thù của phân môn này là học những kiền
thức về lịch sử văn học, tác giả, tác phẩm nên dễ dàng hơn trong quá trình
kiếm tìm và khai thác nguồn kênh học. Tuy nhiên, trong phân môn này,
không phải bài học nào cũng có thể khai thác và sử dụng hiệu quả kênh
hình; do đó, giáo viên cần có sự lựa chọn bài học cho phù hợp trước khi
có ý định khai thác và sử dụng kênh hình.
Phân môn Văn học trong chương trình THCS là "tổng thể" kiến thức về
Văn học của cả 4 năm THCS, phân bố đều ở các giai đoạn khác nhau của
tiến trình lịch sử văn học. Qua quá trình giảng dạy và trên cơ sở nguồn tư

liệu có khả năng đưa vào sử dụng được trên giờ giảng, chúng tôi nhận
thấy giáo viên có thể khai thác kênh hình trong giảng dạy phân môn Văn
học ở trường THCS từ các nguồn sau:
- Sử dụng băng tư liệu để minh họa tác phẩm bằng giọng đọc, giọng
ngâm, lời hát của các nghệ sĩ khi giảng dạy các tác phẩm Văn học dân
gian , tác phẩm Văn học trung đại , các tác phẩm Văn học hiện đại.
- Sử dụng các video clip vốn là các tác phẩm đã chuyển thể thành sân
khấu hoặc kịch bản phim để tóm tắt tác phẩm hoặc minh hoạ cho các
đoạn trích được học hoặc các đoạn viđeo clip có hình ảnh, nội dung minh
10
hoạ cho bài giảng ( Trình chiếu trích đoạn vở "Quan âm Thị Kính" khi
dạy bài "Quan âm Thị Kính", trình chiếu cảnh động Phong Nha khi giảng
bài "Động Phong Nha", trình chiếu cảnh các cô gái thanh niên mở đường
trong phim tư liệu để giảng bài "Những ngôi sao xa xôi", trình chiếu cảnh
hát ca Huế để dạy bài "Ca Huế trên sông Hương", trình chiếu cảnh sông
nước Cà Mau khi dạy bài "Sông nước Cà Mau" Đặc biệt khi dạy bài
"Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh", "Thuyết minh về một
phương pháp" thì càng cần dùng đến các viđeo clip có nội dung liên quan
đến bài dạy để học sinh cảm nhận được bằng hình ảnh trực quan sinh
đông về đối tượng mình đang tìm hiểu thì quá trình tiếp thu bài sẽ có hiệu
quả hơn rất nhiều vì đây là những tiết tập làm văn vốn rất khô khan và
khó dạy).
- Sử dụng tranh ảnh để giới thiệu trực tiếp với học sinh về tác giả (ảnh của
một số tác giả được học), tác phẩm ( ảnh bìa của một tác phẩm văn học)
hoặc để minh hoạ cụ thể cho các hình tượng nhân vật (ảnh Bác khi dạy
bài "Đức tính giản dị của Bác Hồ" hoặc bài "Đêm nay Bác không ngủ"),
các chi tiết nghệ thuật, các giai đoạn lịch sử văn học, các đoạn tả cảnh
thiên nhiên trong các tác phẩm được học (ảnh bình minh lên trên biển,
ảnh chợ cá ven biển khi dạy bài "Quê hương " )
4.3 Các bước khi sử dụng công nghệ thông tin để khai thác kênh hình

trong dạy học ở trường THCS:
4.3.1 Chuẩn bị trước khi lên lớp:
Giáo viên nhất thiết phải nghiên cứu kĩ tác phẩm, nắm bắt nội dung tư
tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời, xác định mình cần
truyền đạt những kiến thức cần tới học sinh. Sau đó, họ cần xây dựng ý
tưởng cho toàn bài giảng và từng tiết giảng - một khâu quan trọng quyết
định sự thành bại của một giờ dạy học Văn. Bởi, nếu không có ý tưởng cụ
thể, phù hợp thì học sinh rất khó tiếp nhận môn Văn, giáo viên cũng rất
11
khó để truyền đạt nội dung của bài học mà không làm mất đi "chất văn"
của một giờ học văn.
Từ ý tưởng của bài giảng đã được xây dựng, giáo viên dự kiến sử dụng
nguồn kênh hình tương ứng để phục vụ cho ý tưởng của mình nhằm đạt
hiệu quả cao nhất. Khả năng khai thác và sử dụng kênh hình của mỗi giáo
viên khác nhau có thể đem đến kết quả dạy học khác nhau. Ví dụ cùng
dạy một tác phẩm nhưng giáo viên nào đầu tư và sử dụng kênh hình hợp
lí, phù hợp với nội dung truyền đạt thì chắc chắn giờ dạy của họ sẽ thành
công hơn. Khi đã dự kiến được nguồn kênh hình, giáo viên ứng dụng
công nghệ thông tin để thiết kế kênh hình trên máy tính, tập trình chiếu và
khai thác thử thông tin qua các câu hỏi liên quan đến kênh hình.
Quá trình sử dụng công nghệ thông tin trong khai thác kênh hình cần lưu
ý: không được dùng kênh hình để làm mất đi đặc thù của bộ môn Văn.
Các hình ảnh phải đảm bảo các tiêu chí: không lạm dụng kĩ thuật để tạo
các hình ảnh có màu sắc loè loẹt, uốn lượn, bay nhảy cầu kì, mà phải
được chọn lọc kĩ, mang tính điển hình cho ý tưởng mà giáo viên cần thể
hiện trong bài giảng, tạo hứng thú học tập cho học sinh và có giá trị thẩm
mĩ cao.
4.3.2 Sử dụng trên lớp:
Đây là công đoạn giáo viên trình bày lại toàn bộ bài giảng điện tử có ứng
dụng công nghệ thông tin để khai thác kênh hình gồm các thao tác:

- Trình chiếu kênh hình lên màn hình lớn cho học sinh quan sát. Giáo viên
có thể dừng lại lâu hơn ở những kênh hình có liên quan tới việc gợi mở
các kiến thức quan trọng nhằm giúp các em khắc sâu và ghi nhớ tốt hơn.
Ví dụ:
12
13
Hình ảnh ông đồ này sẽ được trình chiếu khi dạy bài "Ông đồ" của Vũ
Đình Liên để qua bức ảnh này học sinh có thể hiểu hơn về Ông đồ của
ngày xưa và ý nghĩa của tác phẩm
14
Bốn bức ảnh này được trình chiếu khi dạy đoạn con Hổ nhớ về những kỷ niệm
xưa: "Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Để ta chiếm lấy phần riêng bí mật "
15
Bốn bức ảnh này được trình chiếu khi dạy bài "Nói với con" của Y Phương
16
Bốn bức ảnh này được trình chiếu khi dạy bài "Quê hương" của Tế Hanh
17
Đây là những bức ảnh được trình chiếu khi dạy bài thuyết minh về chiếc nón
lá Việt Nam
18
Đây là những bức ảnh được trình chiếu khi dạy bài thuyết minh về sự
vật, đồ dùng
19
- Hoặc dùng kênh hình đó để dẫn lời vào bài hoặc đặt câu hỏi gợi mở và
hướng dẫn, tổ chức cho các em khai
thác nội dung.
- Sau khi đặt câu hỏi, giáo viên dành
một lượng thời gian nhất định cho học
sinh suy nghĩ và trả lời. Cuối cùng,

giáo viên nhận xét, bổ sung và kết
luận, giúp học sinh làm sáng tỏ những
kiến thức mà mình vừa lĩnh hội được
thông qua việc tiếp xúc với kênh hình.
- Giáo viên cần có phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc thù của bộ
môn Văn, ngôn ngữ trình bày rõ ràng, lời nói và thao tác trên máy tính,
cách gợi mở và kênh hình phải kết hợp hài hoà, linh hoạt để việc khai thác
kênh hình vừa mang tính trực quan sinh động vừa không làm giảm đi
"chất văn" thực sự của một giờ học văn.
Xung quanh hiệu quả của mỗi giờ dạy
vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn, nhưng
về cơ bản, công nghệ thông tin đã tác
động trực tiếp vào phần nào làm đổi mới
các hính thức dạy học truyền thống, đưa
vào các giờ học văn một không khí sôi
nổi, đầy hứng thú, bắt kịp với đà phát
triển của giáo dục hiện đại. Đặt trong xu
thế chung ấy, mỗi giáo viên Văn, một
mặt cần không ngừng nâng cao hiểu biết
về công nghệ thông tin, mạnh dạn đưa những ứng dụng của công nghệ
thông tin vào trong dạy học; mặt khác, phải biết giữ lại những điểm ưu
20
Tác giả Vũ Đình Liên được trình chiếu
khi dạy bài "Ông đồ"
Tác giả Tố Hữu được trình chiếu
khi dạy bài "Khi con tu hú"
Tác giả Ai-Ma-Tốp được trình chiếu
khi dạy bài "Hai cây phong"
Tác giả Thế Lữ được trình chiếu khi
dạy bài "Nhớ rừng"

việt của cách dạy học truyền thống để mội giờ học Văn thực sự là niềm
vui thích và say mê đối với từng học sinh.
5 Bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ thông tin
vào dạy học cho giáo viên THCS
5.1 Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học của giáo viên
5.1.1 Những năng lực cơ bản về khai thác, ứng dụng công nghệ
thông tin
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, giáo viên phải đáp ứng được
các kỹ năng cơ bản sau:
- các thao tác sử dụng máy vi tính và các thiết bị ngoại vi.
- Thực hiện việc giao tiếp với máy vi tính qua các phần mềm hệ thống và
phần mềm ứng dụng văn phòng.
- Biết tìm kiếm, khai thác thông tin trên mạng internet, biết thực hiện việc
trao đổi thông tin qua mạng.
- Biết sử dụng các phương tiện ghép nối với máy vi tính thường gặp như:
loa, máy in, máy quét ảnh Scanner, máy ảnh số, máy chiếu
5.1.2 những năng lực có tính đặc thù của giáo viên trong việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
- Biết sử dụng các phần mềm dạy học phổ biến được triển khai đến các
trường phổ thông.
- Có khả năng sử dụng ở mức độ cơ bản một số phần mềm thông dụng có
thể khai thác trong dạy học như: các chương trình soạn thảo văn bản, các
chương trình vẽ, các chương trình thiết kế trình chiếu để khai thác các
bài giảng.
- Khai thác các thông tin có sẵn trên đĩa CD-ROM và mạng internet để
đưa vào minh hoạ trực tiếp cho bài giảng hoặc tích hợp với các bài giảng
điện tử.
21
- Biết khai thác các phần mềm công cụ để tạo, xử lý dữ liệu và thiết kế
các bài giảng điện tử cho từng nội dung cụ thể trong chương trình dạy

học.
- Tổ chức, thực hiện việc dạy học với bài giảng điện tử và các phương
tiện kỹ thuật của công nghệ thông tin.
- Khả năng xử lý lỗi phát sinh trong quá trình khai thác, ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học. Hiện nay đa số các phần mềm dạy học có
giao diện và tài liệu hướng dẫn bằng tiếng Việt chưa nhiều nên năng lực
ngoại ngữ của giáo viên cũng rất quan trọng.
5.2 Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ thông tin
cho giáo viên THCS.
5.2.1 Xây dựng chương trình tin học cơ sở có tính ứng dụng cao.
Những năm gần đây chương trình tin học dành cho giáo viên thường
mang tính chủ quan, nghĩa là phụ thuộc vào đội ngũ giáo viên và điều
kiện cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin của các trường. Đa phần
các trường đều dạy những kiến thức cơ bản về tin học đại cương, hệ điều
hành, tin học văn phòng là chủ yếu và bước đầu dạy ứng dụng chương
trình powerpoint vào soạn giảng. Phần ứng dụng tuỳ thuộc từng trường.
Để từng bước hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản về ứng dụng
công nghệ thông tin, chương trình tin học cơ sở, ngoài các kiến thức cơ
bản nên lựa chọn thêm các nội dung sau: các thao tác cơ bản sử dụng máy
vi tính, đĩa mềm, CD-ROM, máy in ; sử dụng công cụ soạn thảo văn bản
và trình diễn phổ thông, chẳng hạn như: Winword, PowerPoint ; sử dụng
một số phần mềm đồ hoạ cơ bản như PaintBruth, Draw của MS Office và
hướng dẫn thêm các phần mềm đồ hoạ chuyên nghiệp như CoreiDraw,
PhotoShop để giáo viên có thể tham khảo thêm.
5.2.2 Xây dựng chương trình tin học nâng cao cho giáo viên.
22
- Chương trình này nhằm củng cố và hoàn thiện các kỹ năng cơ bản về sử
dụng máy tính và sử dụng các phần mềm thông dụng. Các kỹ năng cơ bản
để khai thác internet, truy cập các website, cách download thông tin từ
mạng internet, cách trao đổi thông tin qua mạng như gửi thư điện tử

email, gửi và nhận tệp tin
- Sử dụng các phần mềm công cụ để thiết kế bài giảng điện tử, nên lựa
chọn các phần mềm thông dụng như PowerPoint, Flash Sử dụng các
phương tiện kỹ thuật điện tử như máy chiếu đa năng Projector, máy chiếu
vật thể, máy quét, máy ảnh
- Sử dụng và khai thác một cách sáng tạo các phần mềm dạy học hiện có.
Giới thiệu một số phần mềm công cụ như: ProntPage, Flash để một số
giáo viên có điều kiện có thể tự mình hoặc kết hợp thành một nhóm biên
tập các bài giảng điện tử, các website, thậm chí các phần mềm dạy học.
5.2.3 Xây dựng phòng bộ môn " Nghiên cứu triển khai ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học".
Trong điều kiện hiện nay, việc trang bị một phòng khoảng 20-30 mày vi
tính nối mạng internet có đầy đủ các trang thiết bị tối thiểu để giáo viên
thực hành khai thác, tìm kiếm thông tin, sử dụng phần mềm dạy học, thiết
kế các bài giảng điện tử là cần thiết và không vượt qua khả năng tài
chính của trường. Không thể tiến hành bồi dưỡng , trang bị kỹ năng ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học theo kiểu học chay được mà đòi
hỏi phải có điều kiện thực hành.
5.2.4 Hình thức bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng ứng dụng công
nghệ thông tin cho giáo viên THCS.
Việc trang bị kiến thức tin học cho giào viên nói chung, giáo viên THCS
nói riêng trong xu hướng hiện nay là rất cần thiết và quan trọng. Có thể
tiến hành các hình thức bồi dưỡng như sau:
23
- Bộ giáo dục và đào tạo, sở giáo dục và đào tạo, phòng giáo dục và đào
tạo mở các lớp tập huấn ngắn hạn, dài hạn, các trường triển khai mở các
chuyên đề để truyền đạt và trao đổi kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin
cho giáo viên đơn vị mình.
- Thời gian nên chọn thời điểm nghỉ hè để không ảnh hưởng và xáo trộn
công tác chuyên môn của giáo viên tham gia.

- Hình thức tập huấn nên chú trọng đến khâu thực hành, giảm bớt hình
thức phô diễn. Nội dung tập huấn nên tập trung đi sâu, giải quyết đến vấn
đề cụ thể để sau khi tập huấn giáo viên có thể ứng dụng được ngay.
- Bộ giáo dục và đào tạo có thể tích hợp nội dung hướng dẫn trên các
website của ngành. Đây là hình thức tiết kiệm được kinh phí, không hạn
chế về không gian, thời gian, địa điểm Đối với những cơ sở còn gặp khó
khăn về đường truyền internet thì nội dung bồi dưỡng cần được ghi trên
CD-ROM và đưa về từng cơ sở.
- Thiết lập diễn đàn dưới nhiều hình thức: báo chí, tập san, Email ,
internet,,, để giáo viên dễ dàng trao đổi, học tập và cập nhật kiến thức,
kinh nghiệm về việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học một cách
hiệu quả.
- Tổ chức dạy mẫu và ghi hình, lưu thành ngân hàng vidieo clip. Đây là
nguồn tài liệu rất bổ ích và thiết thực.
6. Một số tiêu chí đánh giá giờ giảng có ứng dụng công
nghệ thông tin (20 điểm).
5.1 Nhóm tiêu chí về nội dung (12 điểm).
Bài giảng phải đảm bảo tính chính xác, khoa học, phù hợp với đặc
trưng bộ môn, phương pháp dạy học. Thể hiện nổi bật được bài học, khơi
gợi tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong nhận thức, luyện
tập.
24
* Yêu cầu cụ thể cho các tiêu chí:
- Tiêu chí 1 (4 điểm): Đảm bảo chính xác về nội dung kiến thức, chính
xác về chính tả, từ ngữ.
- Tiêu chí 2 (3 điểm): Khoa học trong cách thiết kế, trình bày các slide
không quá nhiều, không quá phức tạp, được thiết kế khoa học, phù hợp
với đặc trưng bộ môn, có tác dụng giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi, khám
phá, luyện tập. Giáo viên và học sinh đều dễ sử dụng. Nội dung các slide
được thiết kế, trình bày sao cho thể hiện nổi bật kiến thức, có tính hệ

thống, trình tự, logic; Hình thức thẩm mĩ, hấp dẫn, giúp học sinh tập trung
chú ý, không gây phân tán sự chú ý của học sinh; phù hợp với phương
pháp dạy học tích cực, thể hiện rõ dụng ý dẫn dắt học sinh suy nghĩ, tìm
tòi, khám phá (phát huy trí lực của học sinh).
- Tiêu chí 3 (3 điểm): Các phần mềm và các slide, các phim tư liệu (nếu
có) làm rõ và thể hiện được sinh động nội dung bài học, đạt được hiệu quả
cao trong minh hoạ, khám phá, hệ thống hoá và khắc sâu chốt kiến thức
(đặc biệt là phần trọng tâm bài), hướng dẫn học sinh tìm tòi, khám phá bài
học. Phần mềm ứng dụng đạt hiệu quả cao và sinh động trong thể hiện
kiến thức và dẫn dắt học sinh xây dựng bài.
- Tiêu chí 4 (2 điểm): Trắc nghiệm sinh động đạt hiệu quả củng cố, luyện
tập, đánh giá tiết học.
5.2 Tiêu chí về hình thức (2 điểm):
Trình bày thẩm mĩ, rõ nét, dễ hiểu, dể nắm bắt nội dung bài học, kích
thích được sự hưng phấn, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Không làm học sinh mất tập trung vào bài học.
* Yêu cầu cụ thể:
- Tiêu chí 5 (1 điểm): Hình và chữ phải rõ, nét, cỡ chữ đủ lớn để xem, lời
lẽ ngắn gọn, trình bày đẹp và có tính trực quan, thể hiện nổi bật được kiến
thức.
25

×