B GIÁO DC VÀ ÀO TO
TRNG I HC KINH T TP. H CHÍ MINH
__________________
PHAN THÙY TÂM
NHNG NHÂN T NH HNG N QUYT NH LA
CHN THÀNH PH HÀ NI LÀ NI LÀM VIC
CA SINH VIÊN NGOI TNH TRÊN A BÀN
CHUYÊN NGÀNH: KINH T PHÁT TRIN
MÃ S: 60310105
LUN VN THC S KINH T
NGI HNG DN KHOA HC
TS. HUNH THANH IN
TP. H CHÍ MINH – NM 2013
ii
LỜI CAM ĐOAN
Với tư cách là tác giả của nghiên cứu, tôi xin cam đoan những nhận định và
luận cứ khoa học đưa ra trong nghiên cứu này hoàn toàn không sao chép từ các
công trình khác mà xuất phát từ chính kiến của bản thân tác giả, mọi sự trích dẫn
đều có nguồn gốc rõ ràng. Số liệu trích dẫn đều được sự cho phép của các cơ quan,
ban ngành. Nếu có sự đạo văn và sao chép tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
Hội Đồng Khoa Học.
iii
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1
1.1 BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU 1
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU 2
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3
1.5 PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3
1.6 KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN 4
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 5
2.1 LÝ THUYẾT VỀ DI CƯ 5
2.1.1 Khái niệm về di cư 5
2.1.2 Các lý thuyết về nguyên nhân/động cơ của việc di cư 7
2.1.1.2 Lý thuyết của Lewis 8
2.1.2.3 Lý thuyết của Harris- Todaro 10
2.1.3 Một số nghiên cứu về di cư ở Việt Nam 13
2.2 XÂY DỰNG CÁC GIẢ THUYẾT 17
2.2.1 Môi trường sống và quyết định làm việc ở Hà Nội 18
2.2.2 Vai trò của cá nhân trong gia đình và quyết định làm việc ở TP. Hà Nội 19
2.2.3 Mạng lưới xã hội với quyết định làm việc ở Hà Nội 19
2.2.4 Phong cách sống năng động và quyết định làm việc ở Hà Nội 21
CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 23
3.1 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU Error! Bookmark not defined.
3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
iv
3.2.1 Phương pháp xây dựng thang đo 26
3.2.2 Phương pháp đánh giá sơ bộ thang đo 26
3.3 XÂY DỰNG THANG ĐO 27
3.4 XÂY DỰNG THANG ĐO 32
3.5 THIẾT KẾ PHIẾU KHẢO SÁT…………………………………………… 32
3.6 MẪU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP THU THẬP DỮ LIỆU 33
3.5.1 Mẫu nghiên cứu 332
3.5.2 Phương pháp thu thập dữ liệu 343
3.7 CÁC BƯỚC THỰC HIỆN PHÂN TÍCH DỮ LIỆU 34
CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT
ĐỊNH LỰA CHỌN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÀ NƠI LÀM VIỆC CỦA SINH
VIÊN NGOẠI TỈNH TRÊN ĐỊA BÀN 36
4.1 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VỀ MẪU 36
4.2 KẾT QUẢ HỒI QUY 39
4.2.1 Đánh giá thang đo bằng hệ số tin cậy Cronbach alpha 40
4.2.2 Phân tích nhân tố EFA 44
4.2.3 Phân tích tương quan 47
4.2.4 Kiểm định mối quan hệ giữa nhân tố ảnh hưởng với quyết định sống và
làm việc tại Hà Nội 48
4.2.4.1 Mô hình hồi quy tuyến tính bội 49
4.2.4.2 Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định sống và làm việc tại TP. Hà Nội 50
4.2.5 Kiểm tra các giả định của mô hình hồi quy 53
4.2.5.1 Kiểm tra giả định về phương sai của sai số không đổi 53
4.2.5.2 Kiểm định giả định về phân phối chuẩn của phần dư 54
4.2.5.3 Kiểm định giả định về tính độc lập của sai số……………………56
4.2.5.4 Kiểm định không có mối tương quan giữa các biến độc lập 56
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 59
5.1 TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 59
v
5.2 ĐÓNG GÓP CỦA NGHÊN CỨU 60
5.2.1 Đóng góp về mặt khoa học 60
5.2.2 Đóng góp về mặt thực tiễn 56
5.3 HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU 63
5.4 GỢI Ý HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1: Hệ số Cronbach alpha của các khái niệm nghiên cứu 41
Bảng 4.2: Hệ số Cronbach alpha của các khái niệm nghiên cứu sau khi loại bỏ biến
rác 43
Bảng 4.3: Phân tích nhân tố EFA của các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sống và
làm việc tại TP. Hà Nội 45
Bảng 4.4: Phân tích nhân tố của khái niệm yếu tố quyết định sống và làm việc tại
TP. Hà Nội 47
Bảng 4.5: Ma trận tương quan giữa các khái niệm nghiên cứu 48
Bảng 4.6: Kết quả dự báo của mô hình hồi quy bội 51
Bảng 4.7: Kiểm định giả định về phương sai của sai số không đổi 54
Bảng 4.8: Giá trị VIF 57
vii
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.2: Mô hình nghiên cứu 21
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu 22
Hình 4.1: Tỉ lệ sinh viên nam và nữ 31
Hình 4.3: Tỉ lệ các miền quê của sinh viên ngoại tỉnh 32
Hình 4.4: Tỉ lệ các nhóm ngành của sinh viên ngoại tỉnh 33
Hình 4.3: Histogram của các biến 50
Hình 5.1: Tóm tắt kết quả nghiên cứu 55
viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AusAID: Cơ quan phát triển Quốc tế Australia (Australian Agency for
International Development)
BCPTVN: Báo cáo phát triển Việt Nam
Bộ LĐTBXH: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
ESCAP: Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương
(United Nations Economic & Social Commission for Asia and
the Pacific)
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐTMSDC: Điều tra Mức sống Dân cư của Việt Nam
NHTG: Ngân hàng thế giới
TCTK: Tổng cục thống kê
UNDP: Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (United Nations
Develoment Programme)
VHLSS2008: Bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư năm 2008
WB: Ngân hàng thế giới (World Bank).
WTO: Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU
Thành phố Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của
Việt Nam. Tuy vậy, thành phố này đang phải đối diện với những vấn đề của một đô
thị lớn có dân số tăng quá nhanh. Dân số tăng nhanh, trong khi đó chiến lược phát
triển đô thị không đi đôi với việc làm và các dịch vụ kèm theo, khiến thành phố trở
nên chật chội, bức bối. Đó là bức tranh mà Hà Nội đang gặp phải trong 10 năm gần
đây.
Trong nội ô thành phố, đường sá ngày càng quá tải, thường xuyên xảy ra tình
trạng ùn tắc, kẹt xe. Môi trường của thành phố cũng đang ngày càng ô nhiễm. Trong
những năm gần đây mật độ dân số của thành phố đang có xu hướng tăng lên nhanh
chóng với phần lớn là dân nhập cư từ các tỉnh khác vào. Trong khi các vùng quê
thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao để góp phần xây dựng quê hương, thì việc đổ
dồn nguồn lực con người vào thành phố Hà Nội trong những năm qua là một vấn đề
đau đầu đối với các nhà quản lý đất nước. Làm sao để phân phối hợp lý nguồn lực
giữa các vùng miền các tỉnh thành trong cả nước đang là vấn đề quan tâm hàng đầu
của các cơ quan quản lý nhà nước.
Theo số liệu từ tổng cục thống kê về số sinh viên phân theo địa phương thì
tính đến năm 2011, địa bàn Hà Nội có 690.276 ngàn sinh viên thuộc các trường đại
học và cao đẳng trên địa bàn thành phố. Tính trong năm 2011 có trên 220.000 ngàn
sinh viên nhập học tại TP. Hà Nội, chiếm tỉ lệ lớn trong đó là các sinh viên ngoại
tỉnh đến từ mọi miền tổ quốc và đại đa số trong số họ có ý định ở lại đây lập nghiệp
và định cư.
Từ nhiều năm qua, vấn đề di cư đã được đưa ra thảo luận, bàn bạc và đã có
một số công trình nghiên cứu liên quan đến cộng đồng di cư và các yếu tố ảnh
2
hưởng từ các góc độ và phạm vi khác nhau. Các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định di
cư đã được đề cập trong các nghiên cứu trước đây như: Vai trò mạng lưới xã hội
trong quá trình di cư (Đặng Nguyên Anh, 1998); Di dân tự do đến Hà Nội (Hoàng
Văn Chức, 2004), Di dân, nguồn nhân lực, việc làm và đô thị hóa ở thành phố Hồ
Chí Minh (Trương Sỹ Ánh, 1996).
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây đã tìm ra mối liên hệ giữa các yếu tố
với vấn đề di cư, tuy nhiên vẫn chưa có một nghiên cứu nào xác định những nhân tố
chính tác động đến quyết định di cư của sinh viên ngoại tỉnh khi lựa chọn thành phố
lớn như Hà Nội là nơi làm việc. Bởi vậy, đề tài được hình thành để nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn Hà Nội là nơi làm việc của sinh viên
trên địa bàn, nhằm giúp cho cơ quan quản lý nhà nước thấy được cần quan tâm, tác
động đến những nhân tố nào để mang lại hiệu quả trong việc thu hút và quản lý
nguồn lực con người giữa các tỉnh thành trong tương lai.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, mục tiêu nghiên cứu bao
trùm của đề tài là Nghiên cứu những nhân tố tác động đến quyết định ở lại Hà Nội
làm việc của sinh viên
. Trong đó bao gồm các mục tiêu cụ thể như sau:
Khám phá những nhân tố ảnh hưởng tới quyết định nơi làm việc của sinh
viên
Phân tích tác động của những nhân tố trên đối với sinh viên tại thành phố Hà
Nội.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện nhằm trả lời những câu hỏi sau:
1. Nhân tố nào tác động tới quyết định di cư?
3
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định của đối tượng sinh viên ngoại
tỉnh đang học tập trên địa bàn thành phố Hà Nội như thế nào?
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu được tiến hành thông qua hai giai đoạn chính: (1) xây dựng
thang đo và mô hình lý thuyết; và (2) kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết
cho trường hợp điển hình;
- Đề tài sử dụng các công cụ phân tích để giải quyết mục tiêu sau: các thống
kê mô tả, kiểm định thang đo, phân tích nhân tố; các ước lượng và kiểm định
mô hình.
1.5 PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Phạm vi nghiên cứu
Như đã nêu ở trên, di cư được nghiên cứu ở nhiều đối tượng (phụ nữ, người
lao động miền núi…). Tuy nhiên, đề tài này chỉ nghiên cứu ý định di cư của đối
tượng thanh niên từ nông thôn lên thành phố vì mục đích đi học nay đứng trước
quyết định ở lại thành phố làm việc hay trở về quê nhà hoặc chuyển đến địa phương
khác. Do những hạn chế về nguồn lực nghiên cứu, nghiên cứu giới hạn không gian
khảo sát trên địa bàn thành phố Hà Nội, việc này cũng giúp việc phân tích các nhân
tố có ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn TP. Hà Nội là nơi làm việc của người dân
ngoại tỉnh thêm sâu sắc hơn.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung xem xét đối tượng sinh viên ngoại tỉnh những năm cuối
tại một số trường đại học cao đẳng, đây là đối tượng đã di cư từ các địa phương về
TP. Hà Nội học tập và sinh sống. Thời điểm các đối tượng này ra trường và bắt đầu
bước vào thị trường lao động cũng chính là thời điểm phải đưa ra quyết định lựa
chọn nơi đến tiếp theo. Hơn thế, nguồn lao động này đối với thị trường lao động
được xem là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các chính sách phân bổ dòng di cư
4
hợp lý cũng như chính sách thu hút nhóm đối tượng này cho các địa phương sẽ tạo
ra gia tăng giá trị cho nền kinh tế, giảm bớt thiệt hại trong dài hạn, và đảm bảo cuộc
sống cho các cá nhân và gia đình họ.
1.6 KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Kết cấu của luận văn bao gồm năm chương: Chương một tác giả trình bày về
sự cần thiết của đề tài, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. Chương hai trình bày cơ sở lý thuyết,
phát triển mô hình nghiên cứu. Kế thừa những lý thuyết của chương hai, chương ba
sẽ trình bày thiết kế nghiên cứu, bao gồm: quy trình nghiên cứu, phương pháp chọn
mẫu và những kỹ thuật phân tích dữ liệu. Từ đó, tác giả thống kê mô tả, phân tích
các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn TP. Hà Nội là nơi làm việc trong
chương bốn. Cuối cùng, trong chương năm, tác giả đưa ra kết luận cho những nhân
tố chính có ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn TP. Hà Nội là nơi làm việc, từ đó rút
ra ý nghĩa đóng góp của đề tài.
5
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Để có cái nhìn tổng quan về những mô hình nghiên cứu trước đây và cơ sở lý
thuyết về di cư, trong chương hai tác giả khái quát những quan điểm khác nhau về
di cư, một số mô hình di cư từ đó đưa ra các giả thiết, khung lý thuyết mô hình xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư.
2.1 LÝ THUYẾT VỀ DI CƯ
2.1.1 Khái niệm về di cư
Di cư là một hiện tượng tất yếu của cuộc sống. Bởi di cư là một quá trình
diễn ra không ngừng và là một bộ phận làm thay đổi đáng kể qui mô và cơ cấu dân
số giữa các vùng. Bởi thế, di cư là một vấn đề mà từ lâu đã được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm. Thế nhưng một định nghĩa thống nhất về di cư thì đến nay vẫn chưa
có, mỗi định nghĩa xuất phát từ những phương diện khác nhau, do đó khó có thể lựa
chọn được một định nghĩa thống nhất, bao quát cho mọi tình huống. Hiện nay, các
tổ chức, cá nhân nghiên cứu về đối tượng di cư thường sử dụng khái niệm riêng của
mình về di cư tùy theo góc quan sát cũng như quan điểm của họ.
Có những khái niệm tập trung vào khái niệm “không gian địa lý” như trong
nghiên cứu của Lee (1966), di cư là “sự thay đổi cố định nơi cư trú”, hay theo
nghiên cứu của Mangalam và Morgan (1986) thì di cư là “sự di chuyển vĩnh viễn
tương đối của người di dân ra khỏi tập đoàn đang sống từ một đơn vị địa lý khác”
(trích trong Nguyễn Văn Tài, 1998). Như Perevedensev (1966) coi sự di dân là tổng
hợp sự di chuyển của con người gắn với sự thay đổi chỗ ở. Để xem xét đầy đủ hơn
khái niệm di cư, Thomlison (1976) bổ sung vào định nghĩa di dân thêm khía cạnh
thời gian: di dân (migrants) là những người thay đổi nơi cư trú thông thường trong
một khoảng thời gian đáng kể và họ vượt qua ranh giới chính trị (crossing a political
boundary) (trích theo Trần Hồng Vân, 2002).
6
Bên cạnh đó, một vài khái niệm như của Baranov và Breev cho rằng di cư
(hay di dân) là sự chuyển động cơ học của dân cư. Hiểu theo nghĩa rộng, là bất kỳ
một sự di chuyển của con người giữa các vùng lãnh thổ có gắn với sự thay đổi vị trí,
dạng hoạt động lao động và ngành có sử dụng lao động. Theo nghĩa hẹp có thể hiểu
di dân là sự chuyển dịch của dân cư theo lãnh thổ, sự phân bố lại dân cư. Tuy nhiên
không phải bất kỳ sự chuyển dịch nào của dân cư cũng là di dân, mà di dân là sự di
chuyển của dân cư ra khỏi biên giới đất nước hay ra khỏi lãnh thổ hành chính mà họ
đang cư trú, gắn với việc thay đổi chỗ ở của họ (trích trong Hoàng Văn Chức,
2004).
Theo Xtgaroverop (1975): di dân được hiểu là sự thay đổi vị trí của con
người về mặt địa lý, do có sự di chuyển thường xuyên hoặc tạm thời của họ từ một
cộng đồng kinh tế này sang một cộng đồng kinh tế khác, trở về hoặc có sự thay đổi
vị trí không gian của toàn bộ công đồng nói chung.
Năm 1958, Liên hợp quốc đưa ra khái niệm về di cư như sau: di cư là sự di
chuyển trong không gian của con người giữa một đơn vị hành chính này và một đơn
vị hành chính khác, kèm theo sự thay đổi chỗ ở thường xuyên trong khoảng di cư
xác định.
Đối với nơi ở cũ, người di cư được gọi là người xuất cư (out-migrant), họ sẽ
được gọi là dân nhập cư (in-migrant) tại nơi ở mới.
Di cư sang nước khác được gọi là di cư quốc tế (international migrant), nước
mà dân di cư ra đi gọi họ là người xuất cảnh (emigrant), trong khi nước tiếp nhận
gọi họ là người nhập cảnh (immigrant).
Trong thực tế, các thuật ngữ “di cư” và “di dân” được dùng khá phổ biến và
thường không phân biệt sự khác nhau vì cùng nói về sự di chuyển của con người.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu, di cư dùng để chỉ về sự thay đổi nơi cư trú từ nơi này
đến nơi khác của cả con người hay động vật. Bởi vậy, khi dùng thuật ngữ này phải
kèm với những từ để chỉ người tương đối rõ ràng hoặc muốn nhấn mạnh đến vấn đề
7
cư trú, những hành vi liên quan tới các nhân con người (“hiện tượng nhập cư”,
“xuất cư”, “người di cư”…). Trái lại “di dân” chỉ dùng cho sự di chuyển của con
người nên khi nói những vấn đề chung về di dân, những vấn đề về chính sách thì sử
dụng thuật ngữ này.
Có 3 tiêu chí để xác định cuộc di chuyển của con người là di cư:
- Di chuyển ra khỏi đơn vị hành chính, lãnh thổ này sang một đơn vị
hành chính, lãnh thổ khác (xã, huyện, tỉnh, thành phố hoặc quốc gia
khác).
- Cư trú ở nơi đến trong khoảng thời gian tương đối dài (vài ba tháng
trở lên).
- Tới chỗ ở mới với mục đích rõ ràng nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của bản thân và gia đình.
2.1.2 Các lý thuyết về nguyên nhân/động cơ của việc di cư
2.1.2.1 Lý thuyết của Ravenstein
Ở tầm vĩ mô về di cư, lý thuyết của Ravenstein (1885) về qui luật di cư, ông
cho rằng đa số di cư di chuyển ở phạm vi ngắn, một số sẽ di chuyển xa là di chuyển
đến các thành phố lớn, thương mại, di cư diễn ra trong nhiều giai đoạn. Quá trình đô
thị hóa thu hút dân số từ các vùng ngoại ô vào trung tâm. Khoảng trống vùng ngoại
vi sẽ được lấp đầy cư dân vùng khác đến. Cư dân ở trung tâm nhỏ sẽ chuyển đến
trung tâm lớn hơn. Cứ như vậy, quá trình di cư diễn ra theo nhiều giai đoạn kế tiếp
theo hướng di chuyển về trung tâm đô thị lớn. Thông thường các trung tâm thương
mại, công nghiệp lớn sẽ thu hút những vùng xung quanh và vùng xa hơn. Mỗi dòng
di cư sẽ tạo ra dòng di cư ngược lại. Mức di cư nông thôn có xu hướng cao hơn mức
di cư ở các đô thị (không phù hợp trong giai đoạn hiện nay). Phụ nữ có xu hướng di
cư nhiều hơn nam giới ở khoảng cách địa lý gần. Di cư tăng lên theo trình độ phát
triển kỹ thuật. Kinh tế là nhân tố quan trọng nhất di cư, mặc dù môi trường xã hội,
luật lệ… có ảnh hưởng nhất định. Đây là lý thuyết vĩ mô cho cái nhìn tổng quát về
8
các nguyên dân của di cư đến các trung tâm thương mại, công nghiệp, tạo tiền đề
cho các nghiên cứu khác.
Những năm sau đó, người ta đã xây dựng và phát triển thêm những lý thuyết
di cư mới như lý thuyết lực hút và lực đẩy, lý thuyết lực hấp dẫn hoặc lý thuyết cơ
hội sống…
2.1.1.2 Lý thuyết của Lewis
Lý thuyết này ra đời vào những năm 50 của thế kỉ XX. Lý thuyết của Lewis
(1954) ra đời trong bối cảnh các nước trong thế giới thứ 3 bước vào giai đoạn công
nghiệp hoá, dẫn đến sự bùng nổ của làn sóng di cư từ nông thôn ra các thành phố
công nghiệp và các đô thị. Lewis đã trình bày quan điểm của di cư từ nông thôn ra
thành thị trong cuốn Economic Development with Unlimited Suplies of Labour.
Mô hình hai khu vực của Arthur Lewis có thể tóm tắt như sau:
Mô hình này giải thích hiện tượng lao động dư thừa từ khu vực sản xuất
nông nghiệp truyền thống (đặc trưng cho nông thôn) được chuyển dịch sang các
ngành sản xuất chế biến hiện đại (đặc trưng cho đô thị) trong quá trình công nghiệp
hóa.
Mô hình giả định rằng, trong nền kinh tế chỉ tồn tại 02 khu vực: khu vực sản
xuất nông nghiệp truyền thống và khu vực sản xuất chế biến hiện đại. Ngành nông
nghiệp truyền thống phổ biến là lao động thủ công, năng suất thấp nên có mức
lương thấp. Ngược lại, các ngành sản xuất chế biến hiện đại thường có năng suất
cận biên cao, mức lương cao hơn khu vực kinh tế nông nghiệp, và có nhu cầu tăng
thêm lao động. Mô hình cũng giả định việc cải thiện năng suất cận biên của lao
động trong ngành nông nghiệp ít được ưu tiên hơn tại các quốc gia đang phát triển.
Điều này dẫn đến xu hướng chuyển dịch các khoản “lợi nhuận ròng” thu được từ
khu vực sản xuất nông nghiệp sang các ngành sản xuất công nghiệp.
Do sản xuất nông nghiệp bị hạn chế về mặt diện tích đất sản xuất, do đó sản
phẩm cận biên tăng thêm của một nông dân được giả định sẽ tiến đến zero theo quy
9
luật “lợi nhuận biên giảm dần”. Kết quả là, trong ngành nông nghiệp tồn tại một số
lượng lao động không đóng góp làm tăng sản lượng nông nghiệp kể từ khi sản phẩm
cận biên của họ bằng không. Nhóm nông dân này chính là nguồn “lao động dư
thừa” từ khu vực nông nghiệp. Do có sự khác biệt về tiền lương giữa ngành sản xuất
nông nghiệp và các ngành sản xuất chế biến hiện đại nên đội quân lao động dư thừa
này sẽ được dịch chuyển tới các ngành sản xuất khác mà không làm ảnh hưởng đến
sản lượng đầu ra của ngành nông nghiệp.
Nếu số lượng người lao động di chuyển từ nông nghiệp sang lĩnh vực sản
xuất khác bằng với số lượng “lao động dư thừa” trong lĩnh vực nông nghiệp, phúc
lợi và năng suất chung sẽ được cải thiện. Tổng số sản phẩm nông nghiệp sẽ vẫn
không thay đổi trong khi tổng sản phẩm công nghiệp tăng lên do việc bổ sung thêm
lao động.
Theo thời gian, việc tăng thêm lao động sẽ làm cho năng suất lao động và
mức tiền lương cận biên trong lĩnh vực sản xuất chế biến dần dần giảm xuống trong
khi đó năng suất cận biên và tiền lương trong sản xuất nông nghiệp dần tăng lên do
lao động kém hiệu quả bị rút bớt. Kết quả là năng suất lao động cận biên trong nông
nghiệp tiến tới cân bằng với năng suất lao động cận biên của các ngành sản xuất
khác, mức lương trong ngành nông nghiệp cân bằng với mức lương trong các ngành
sản xuất khác, người lao động nông nghiệp không còn động cơ tiền bạc để chuyển
dịch, quá trình di cư chấm dứt.
Từ quan điểm này người ta gọi lí thuyết của Lewis là mô hình cân bằng. Mô
hình hai khu vực đã tỏ ra thành công trong việc lý giải quá trình dịch chuyển lao
động từ khu vực nông thôn vào thành thị tại các nước phát triển. Tuy nhiên, hạn chế
của mô hình này không lý giải được hiện tượng dòng người nhập cư vẫn ào ạt đổ về
thành phố trong khi tình trạng thất nghiệp đang diễn gay gắt tại các nước đang phát
triển.
10
2.1.2.3 Lý thuyết của Harris- Todaro
Đóng góp lớn nhất trong lĩnh vực nghiên cứu di cư từ nông thôn ra thành thị
thuộc về Harris-Todaro (1970). Nghiên cứu này tập trung vào các nước đang phát
triển, nơi diễn ra quá trình đô thị hoá nhanh và dòng di cư từ nông thôn ra thành thị
rất lớn, do chênh lệch tiền lương và cơ hội việc làm ngày càng lớn. Những vùng đô
thị thiếu lao động có mức lương cao sẽ thu hút dòng di cư từ các vùng nông thôn có
thu nhập thấp.
Khác với mô hình khu vực kép của Arthur Lewis lý giải nguồn gốc của việc
di cư dựa vào giả định “dư thừa lao động” trong khu vực nông thôn, mô hình Harris
– Todaro giải thích quyết định của người lao động di cư từ khu vực nông thôn ra
thành thị dựa trên sự khác biệt về thu nhập kỳ vọng giữa nông thôn và đô thị. Điều
này ngụ ý rằng, sự di cư từ nông thôn ra đô thị trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở đô
thị cao, có thể được lý giải về mặt kinh tế, nếu thu nhập kỳ vọng từ khu vực đô thị
cao hơn.
Mô hình này giả định rằng, tỷ lệ thất nghiệp là không tồn tại trong lĩnh vực
nông nghiệp nông thôn. Ngoài ra, nó còn giả định rằng thị trường sản xuất và thị
trường lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn cạnh tranh hoàn hảo. Kết
quả là, tiền lương của các công nhân nông nghiệp ở nông thôn bằng với năng suất
cận biên trong nông nghiệp. Mô hình cũng cho rằng, trạng thái cân bằng sẽ được
thiết lập khi mức lương kỳ vọng tại khu vực đô thị bằng với sản phẩm cận biên của
một công nhân nông nghiệp. Tại trạng thái cân bằng, tỷ lệ lao động các vùng nông
thôn di chuyển đến đô thị sẽ bằng không khi thu nhập kỳ vọng ở nông thôn bằng với
thu nhập kỳ vọng ở đô thị.
Các điều kiện cân bằng của mô hình Harris – Todaro như sau:
Gọi:
• Wr là mức lương (năng suất lao động biên) trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.
11
• Le là tổng số công ăn việc làm có sẵn trong khu vực đô thị, cần được cân bằng với
số lượng công nhân làm việc ở đô thị.
• Lus là tổng số người đang làm việc, cần tìm việc và thất nghiệp trong khu vực đô
thị.
• Wu là mức lương trong khu vực đô thị (có thể được thiết lập bởi quy định mức
lương tối thiểu của pháp luật).
Ở trạng thái cân bằng:
u
us
e
r
w
l
l
W
Nói cách khác, mức lương kỳ vọng trong nông nghiệp bằng với mức lương
kỳ vọng ở đô thị nhân với số lượng việc làm có sẵn trong đô thị chia cho tổng số
người đang có việc làm và cần tìm việc làm ở đô thị.
Quá trình di cư lao động từ nông thôn ra đô thị sẽ diễn ra nếu:
u
us
e
r
w
l
l
W
Ngược lại, dòng di cư từ thành thị về nông thôn sẽ xảy ra nếu:
u
us
e
r
w
l
l
W
Vì vậy, di cư từ nông thôn đến các khu vực đô thị sẽ tăng nếu:
• Tiền lương ở khu đô thị (Wu) gia tăng trong điều kiện cơ hội tìm được công ăn
việc làm khu vực đô thị (Le) tăng, làm tăng thu nhập kỳ vọng ở khu vực đô thị.
• Năng suất lao động nông nghiệp giảm, làm giảm năng suất cận biên và tiền lương
trong lĩnh vực nông nghiệp (Wr), giảm thu nhập kỳ vọng ở khu vực nông thôn.
12
Mô hình Harris – Todaro cho phép giải thích được lý do tồn tại tình trạng
thất nghiệp ở các đô thị tại các nước đang phát triển, và tại sao người dân lại chuyển
tới các thành phố mặc dù đang tồn tại nan giải vấn đề thất nghiệp. Để giải quyết vấn
đề này, mô hình Harris – Todaro thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế phi chính
thức (Informal Sector). Đó là khu vực kinh tế bao gồm các hoạt động, không hoàn
toàn là bất hợp pháp, nhưng thường cũng không được sự thừa nhận chính thức của
xã hội và hầu hết các hoạt động này đều không đăng ký với nhà nước. Chẳng hạn
như lao động phục vụ gia đình, hành nghề tự do, xe ôm, bán hàng rong, mài dao
kéo, dịch vụ ăn uống vỉa hè, thu lượm ve chai đồng nát, đánh giày,
Việc di cư ồ ạt của lao động nông thôn vượt quá khả năng tạo việc làm ở khu
vực đô thị, kết quả là nhiều người lao động không tìm được việc làm trong khu vực
kinh tế chính thức, phải chấp nhận bổ sung vào khu vực kinh tế phi chính thức.
Sự hiện diện của khu vực kinh tế phi chính thức đã giúp giải thích cho việc
tại sao tỷ lệ thất nghiệp tại các đô thị cao nhưng vẫn có hàng dòng người từ nông
thôn đổ vào thành thị tìm việc làm. Bởi vì họ sẵn sàng bổ sung vào khu vực kinh tế
phi chính thức, nơi đồng tiền kiếm được vẫn cao hơn ở lại nông thôn. Ngay cả khi
sự di chuyển này tạo ra thất nghiệp tại các đô thị và dẫn đến sự phát triển không
mong đợi ở khu vực kinh tế phi chính thức, thì hành vi này vẫn được xem là hợp lý
xét về khía cạnh kinh tế vì nó tối đa hóa lợi ích trong các điều kiện mà mô hình
Harris – Todaro giả định.
Harris và Todaro cho rằng quyết định di chuyển kết hợp những kỳ vọng của
những người di cư tiềm năng về khả năng thu nhập cho phép họ có thu nhập cao
hơn và cuộc sống khá hơn. Hai tác giả cũng cho rằng những người di cư mong chờ
có thể nhận được việc làm tốt và có thu nhập cao nên họ chấp nhận thất nghiệp hay
thiếu việc để chờ đợi cơ hội việc làm tốt trong tương lai.
13
Bảng 2.1: Tóm tắt các lý thuyết về nguyên nhân/động cơ của việc di cư
Tác giả và năm
Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư
Môi trường
sống
Vai trò c
ủa cá
nhân
trong gia đình
Mạng lưới xã
hội
Phong cách
năng động
Ravenstein (1885)
x
Lewis (1954)
x
Harris-Todaro (1970)
x
Lipton (1976)
x
Barnum và Sabot (1975)
x
Xiang Biao (2007)
x x
Đặng và cộng sự (2004)
x x
Massey và các cộng sự
(1993)
x
Lomnitz (1977)
x
Mitchell (1985)
x
Mullan (1989)
x
Derek Byerlee và cộng sự
(1976)
x x
Schultz (1975)
x x
Nguồn: Tổng kết từ lược khảo lý thuyết của tác giả nghiên cứu
2.1.3 Một số nghiên cứu về di cư ở Việt Nam
Đến nay đã có được sự đồng thuận rằng di cư là một quá trình, mà không
phải là sự kiện xảy ra một lần. Di cư diễn ra trong mối liên hệ với các sự kiện khác
như học tập, hôn nhân, thay đổi nghề nghiệp… (xem Ian và Điệp, 2006; Lợi, 2005).
Điều khiến cho di cư trở nên quan trọng trong các nghiên cứu khoa học không chỉ là
do tính năng động của bản thân quá trình này, mà còn ở mối liên hệ với các sự kiện
cuộc sống. Hiểu được mối liên hệ thời gian giữa di cư và các sự kiện cuộc sống,
cũng như khảo sát sự biến thiên của những mối quan hệ đó theo các dặc trưng kinh
tế xã hội, có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kế hoạch hóa phát triển trong một
số lĩnh vực như thị trường lao động, nhà ở và chiến lược giáo dục. Quyết định di cư
14
không chỉ liên quan tới các sự kiện cuộc sống, mà còn gắn chặt với các quan hệ và
mạng lưới xã hội.
Ở Việt Nam, việc di dân diễn ra từ rất sớm. Trong cuốn “Di dân của người
Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX” của Đặng Thu (1994) nguyên nhân di cư được đề
cập tới: do đời sống cơ cực, thê thảm vì chế độ tô thuế, bệnh dịch, thiên tai đã xô
đẩy hàng ngàn, hàng vạn gia đình nông dân không thể bám trụ ở quê hương. Tình
trạng di cư trở nên phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ở đó xuất hiện
mâu thuẫn tâm lí giữa tình cảm quê hương với chính sách cột chặt người nông dân
vào công điền. Do nhu cầu di cư đến vùng đất hứa (vùng đất mới và đô thị) nên đã
dẫn đến việc di cư có kiểm soát. Từ đây xuất hiện hai hình thức di cư là tự phát và
có tổ chức. Đặc điểm của di cư tự phát là vô tổ chức và đa phương nên hiện tượng
này được gọi dưới cái tên là nạn lưu tán. Đây cũng là sự di cư bất đắc dĩ đối với
người nông dân Việt Nam - là những người vốn có tâm lí bám làng không muốn rời
xa quê cha đất tổ. Di cư có tổ chức dưới thời Nguyễn chủ yếu khuyến khích di cư
vào Nam, hướng tới việc thành lập các đồn điền, khẩn hoang lập ấp. Những hình
thức di cư này đã dẫn đến sự gia tăng dân số đặc biệt ở các vùng đồng bằng ven
biển Bắc Bộ, có sự biến đổi tích cực về kinh tế, diện tích đất nông nghiệp tăng, các
đô thị không ngừng phát triển và có sự hội nhập các tộc người chung sống trên cùng
lãnh thổ.
Trong những thập kỉ gần đây khi chúng ta tiến hành chuyển đổi nền kinh tế,
đổi mới, mở cửa, quá trình đô thị hoá diễn ra khá mạnh, nhất là ở các thành phố Hà
Nội, Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng…chính các tỉnh, thành phố
này là tiêu điểm của làn sóng di cư ra thành thị để kiếm việc. Một thuật ngữ mà
chúng ta vẫn thường sử dụng trong những năm gần đây là “làn sóng của những
người lao động ngoại tỉnh”. Hiện tượng này cũng được một số các nhà nghiên cứu
Việt Nam quan tâm.
15
Theo Đinh Văn Thông (2010), trong bài nghiên cứu “Di dân ngoại tỉnh vào
thành phố Hà Nội: Vấn đề đặt ra và giải pháp’’ đã đưa ra hai nguyên nhân cơ bản
của hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị sau:
Thứ nhất, đó là nguyên nhân kinh tế: Nguyên nhân kinh tế bao gồm lực đẩy
từ nơi xuất cư như: thiếu đất canh tác, thiếu việc làm, thu nhập thấp…, và lực hút
từ những nơi nhập cư: cơ hội việc làm có tính ổn định, thu nhập cao hơn so với nơi
ở cũ… Ông cho rằng tiền lương, thu nhập, việc làm, mức độ thất nghiệp… đều ảnh
hưởng đến việc đưa ra quyết định di cư của người dân.
Thứ hai, là nguyên nhân phi kinh tế như: vấn đề chất lượng cuộc sống,
những người di dân muốn sống ở thành thị, nơi có ánh đèn rực rỡ, nơi đó có các
phương tiện giao thông, phương tiện thông tin đại chúng… được hiện đại hoá, nơi
có hệ thống giáo dục, y tế, dịch vụ phát triển, vấn đề về phong tục tập quán và các
nhân tố xã hội khác cũng tác động sâu sắc tới quá trình di dân từ nông thôn ra thành
thị, ví dụ như những người di dân muốn thoát khỏi những ràng buộc truyền thống,
những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu ở nông thôn, vấn đề đi học của con cái và
đoàn tụ gia đình cũng là những lực hút của dòng di dân từ nông thôn ra thành thị.
Theo Lê Văn Thành (2008) trong bài “Đô thị hóa và vấn đề dân nhập cư tại
TP. HCM’’: những năm trước đây, nhập cư vào thành phố vì lý do phi kinh tế (đoàn
tụ gia đình, cưới hỏi ) chiếm một tỷ lệ khá cao, gần như một nửa, thì bây giờ động
lực kinh tế chiếm vị trí quan trọng áp đảo. Những người nhập cư vào thành phố tìm
việc không chỉ vì bản thân mình mà còn có chiến lược quan trọng của các hộ gia
đình ở quê quán.
Lê Văn Thành (2008) cũng đề cập đến lý do di chuyển: Lý do di chuyển gồm
có những nguyên nhân ở nơi đến và nơi đi. Ở nơi đi vấn đề thất nghiệp ở nông thôn,
việc làm thu nhập thấp là nguyên nhân thúc đẩy người di cư đến thành phố. Điệu
kiện sinh hoạt của nông thôn quá thấp, có sự chênh lệch so với thành phố như điều
kiện học tập, vui chơi giải trí, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, giao thông… Ở nơi đến,
động lực nhập cư vì lý do kinh tế ngày càng được khẳng định vì người nhập cư tìm
16
việc làm ở thành phố tương đối dễ dàng. Hơn 80% có thể tìm việc làm trong tháng
đầu tiên đến thành phố, những người nhập cư chấp nhận làm việc khó khăn hơn, thu
nhập ít hơn người dân tại chỗ.
Theo Bùi Việt Thành (2011) trong bài “Một số vấn đề về di cư nông thôn- đô
thị, thách thức và cơ hội cho thành phố Hồ Chí Minh” thì môi trường tự nhiên là tác
nhân đã và đang tác động đến xu thế di cư. Người dân tại các vùng chịu nhiều thiên
tai khắc nghiệt có số lượng người di cư lớn, nhất là khu vực Miền Trung. Người ta
đánh giá rằng tác động lớn nhất của sự thay đổi khí hậu đối với con người chính là
việc khiến họ phải di chuyển. Điều kiện khí hậu ven biển, tình trạng bão lụt, hiện
tượng xói mòn ven biển gia tăng và mùa màng thất bát là nguyên nhân khiến hàng
triệu người phải rời khỏi nơi cư trú của mình. Các số liệu khoa học cho thấy sự thay
đổi về khí hậu toàn cầu, Việt Nam sẽ là một trong những nước chịu nhiều thiệt hại
nặng nề nhất của sự thay đổi khí hậu, trong đó người nghèo, người dân tộc thiểu số,
phụ nữ nông thôn, người già và trẻ em chịu sự tác động nặng nề hơn các đối tượng
khác. Di cư sẽ trở thành phương thức giúp người dân đương đầu và thích nghi với
những thay đổi này bằng cách di cư tạm thời hoặc di cư lâu dài nhằm bảo đảm sự an
toàn và ổn định cuộc sống.
Do TP. HCM và thành phố Hà Nội có nhiều đặc điểm giống nhau: cả hai đều
là những thành phố trực thuộc trung ương, đều là những trung tâm kinh tế lớn nhất
Việt Nam. Cả hai thành phố đều tập trung nhiều trường đại học lớn trên địa bàn, đều
có hiện tượng dân nhập cư di dân đến rất đông, đều xảy ra tình trạng kẹt xe, ô
nhiễm… Do những đặc điểm khá tương đồng giữa hai thành phố, nên trong bài
nghiên cứu này có sự kế thừa, áp dụng một số nguyên nhân của hiện tượng di dân
vào thành phố Hồ Chí Minh để xây dựng mô hình nghiên cứu cho trường hợp TP.
Hà Nội.
Bên cạnh đó, hiện nay việc nghiên cứu mạng lưới xã hội trở thành nghiên
cứu chuyên sâu để lí giải vấn đề di cư. Mạng lưới xã hội không chính thức như họ
hàng, bạn bè, đồng hương đóng vai trò quan trọng trong việc di cư, mạng lưới xã
17
hội giúp cho người di cư tiềm năng về thông tin trước khi di chuyển. Sau khi di
chuyển mạng lưới xã hội giúp cho người di chuyển về việc làm, nhà ở và sự giúp đỡ
khác. Những người di cư có xu hướng sống tập trung ở những khu vực có bà con họ
hàng hoặc là người thân.
Phân tích các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về hiện tượng di cư
từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm cho thấy vấn đề này được các nhà nghiên cứu
rất quan tâm, và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhưng cho đến nay, đối
tượng sinh viên ngoại tỉnh học tập và ở lại thành thị làm việc vẫn chưa được quan
tâm nghiên cứu đúng mức. Số liệu về tỷ lệ sinh viên ngoại tỉnh tốt nghiệp ở lại
thành thị hầu như còn khan hiếm và chưa có một thống kê chính thức nào thực hiện.
Trường hợp một đô thị lớn như TP. HCM cũng không ngoại lệ. Một nghiên cứu 360
sinh viên ngành quản trị kinh doanh chuẩn bị tốt nghiệp tại TP. HCM được thực
hiện bởi Trần Văn Mẫn và Trần Kim Dung (2010) về các yếu tố chọn nơi làm việc
cho thấy có tám thành phần ảnh hưởng đến quyết định chọn nơi làm việc, đó là:
việc làm, thông tin và thủ tục thông thoáng, tình cảm với quê hương, chính sách ưu
đãi, vị trí và môi trường, con người, điều kiện giải trí, chi phí sinh hoạt. Với góc độ
là là một người nghiên cứu đã từng học tập và hiện nay làm việc tại thành phố Hà
Nội, tôi rất muốn khám phá những yếu tố ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn thành
phố Hà Nội là nơi làm việc của các sinh viên ngoại tỉnh trên địa bàn. Với phương
pháp nghiên cứu định lượng thông qua bản câu hỏi khảo sát, sử dụng phần mềm
SPSS 16.0 để phân tích dữ liệu và phân tích hồi quy, tôi hi vọng sẽ tìm ra được câu
trả lời cho vấn đề trên.
2.2 XÂY DỰNG CÁC GIẢ THUYẾT
Những người di cư có quyết định ở lại nơi đến làm việc phụ thuộc vào các
yếu tố khác nhau. Nghiên cứu xây dựng các giả thuyết chính về các yếu tố ảnh
hưởng và đưa ra khung phân tích ở nội dung tiếp theo.
Nghiên cứu dựa vào định nghĩa người di cư của TCTK và UNFPA (2005) để
đưa ra định nghĩa về người di cư cho nghiên cứu. Theo đó, người di cư là những