Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ VIỆT NAM.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
o0o


TRẦN THỊ BÍCH NGỌC



LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ
VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ







TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
o0o



TRẦN THỊ BÍCH NGỌC


LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ
VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60.34.02.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA






TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn ‘‘LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ VIỆT NAM’’ là công trình

nghiên cứu của chính tác giả, nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và
các kết quả nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, số liệu sử dụng là trung
thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thị Liên Hoa.

Tác giả luận văn
TRẦN THỊ BÍCH NGỌC


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC PHỤ LỤC
TÓM TẮT 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 2
1.1. Lý do chọn đề tài 2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 4
1.3. Câu hỏi nghiên cứu 5
1.4. Bố cục của luận văn 5
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC
ĐÂY 6
2.1. Tổng quan lý thuyết về lạm phát và NPKC 6
2.2. Cách thức hình thành kỳ vọng trong NPKC: 8
2.3. Diễn biến lạm phát kỳ vọng theo mô hình NPKC ở Việt Nam giai
đoạn từ Khủng hoảng tài chính thế giới 2008 10
2.4. Các nghiên cứu thực nghiệm theo mô hình NPKC ở các quốc gia
Châu Á 11

2.5. Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam 13
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.1. Mô hình nghiên cứu 17
3.2. Mẫu dữ liệu nghiên cứu 20


3.3. Phương pháp nghiên cứu 21
3.3.1. Xử lý dữ liệu ban đầu 21
3.3.2. Kiểm định nghiệm đơn vị ADF và PP trước khi xây dựng mô hình
23
3.3.3. Phương pháp ARIMA để tìm độ trễ của lạm phát trong mô hình 25
3.3.4. Phương pháp OLS để xây dựng mô hình cuối cùng 28
CHƯƠNG 4: NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 31
4.1. Kết quả ước lượng của Việt Nam 31
4.1.1. Kiểm định nghiệm đơn vị ADF và PP 31
4.1.2. Ước lượng ARIMA tìm độ trễ của lạm phát 34
4.1.3. Ước lượng OLS tìm ra mô hình dự báo lạm phát kỳ vọng ở Việt
Nam 38
4.1.4. Kiểm định đồng liên kết Engle-Granger 41
4.2. Kết quả ước lượng ở tám quốc gia Châu Á 42
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN 49
5.1. Kết luận và hàm ý 49
5.2. Hạn chế của luận văn 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADF: Augmented Dickey-Fuller
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
FAO: Tổ chức lương nông thế giới
FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FII: Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
FPI: Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
IFS: International Monetary Fund’s International Financial Statistics
HP: Hodrick – Prescott
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NKPC: Mô hình đường cong Phillips mới
OECD: Organization for Economic Co-operation and Development
PP: Phillips-Perron
PPI: Chỉ số sản xuất công nghiệp
WB: Ngân hàng Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Dự báo mối quan hệ giữa các biến độc lập và lạm phát.
Bảng 2: Tóm tắt hành vi của các hệ số AC và PAC trong mô hình MA,
AR và ARMA
Bảng 3: Các giá trị đặc trưng cho kiểm định DW = 0
Bảng 4: Kiểm định ADF đối với dữ liệu Việt Nam
Bảng 5: Kiểm định PP đối với dữ liệu Việt Nam
Bảng 6: Kết quả các tham số của mô hình ARIMA, AR(4) được ước
lượng theo phần mềm Stata
Bảng 7: Kết quả các tham số của mô hình ARIMA, MA(4) được ước
lượng theo phần mềm Stata
Bảng 8: Kết quả các tham số của mô hình ARIMA, AR(4) MA(4) được
ước lượng theo phần mềm Stata

Bảng 9: Kết quả các thông số kiểm định
Bảng 10: Kết quả ước lượng mô hình lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam
Bảng 11: Kết quả kiểm định đồng liên kết theo phần mềm Stata
Bảng 12: Phân loại các quốc gia theo IMF
Bảng 13: Tóm tắt các biến có ý nghĩa trong mô hình dự báo lạm phát kỳ
vọng ở Hàn Quốc và Singapore
Bảng 14: Tóm tắt các biến có ý nghĩa trong mô hình dự báo lạm phát kỳ
vọng ở các quốc gia còn lại
Bảng 15: Chế độ Tỷ giá ở các quốc gia Châu Á




DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1: Lạm phát kỳ vọng ngắn hạn ở các quốc gia Đông Nam Á
Hình 2: Lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam
Hình 3: Số liệu dưới dạng ln của các biến của Việt Nam, 2001Q1 – 2013Q1
Hình 4: Đồ thị tương quan của dữ liệu sau khi biến đổi sai phân bằng phần
mềm Stata

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Diễn biến lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng ở tám quôc gia
Châu Á
Phụ Lục 2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị
Phụ Lục 3: Số liệu dưới dạng ln của các nước
Phụ Lục 4: Các yếu tố xác định lạm phát kỳ vọng ở các nước

1

TÓM TẮT

Bài nghiên cứu này theo đuổi cách thức xác định lạm phát trong tương lai ở
tám quốc gia Châu Á – Hàn Quốc, Singapore, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia,
Philippine, Indonesia và quan trọng là ở Việt Nam trong giai đoạn từ những
năm 1991 đến đầu năm 2013, thông qua việc tìm hiểu các nhân tố gây ra lạm
phát kỳ vọng ở các nước này bằng việc ước lượng theo mô hình đường cong
Phillip mới (NKPC) từ các nhân tố vĩ mô chính như lạm phát trong quá khứ,
chính sách tiền tệ, chi phí biên và các cú sốc sung.
Các kết quả thực nghiệm cho thấy lạm phát trong quá khứ, đặc biệt là lạm
phát trước đó một năm có ảnh hưởng rất lớn đến lạm phát hiện tại và là dự
báo tốt nhất cho lạm phát kỳ vọng trong ngắn hạn. Một điểm thú vị khác là
bài nghiên cứu còn tìm thấy mức ý nghĩa thống kê của biến giá lương thực thế
giới ở sáu trên tám quốc gia – giá này được lấy từ tổ chức FAO. Điều này
khác với các nghiên cứu trước đây và khẳng định rằng, giá lương thực thế
giới vẫn có ảnh hưởng, tác động lên kỳ vọng và lạm phát sau đó ba tháng.
Từ khóa: Lạm phát, lạm phát kỳ vọng, chính sách tiền tệ, khe hở sản lượng,
khe hở cung tiền thực, mô hình ARIMA, kiểm định ADF, kiểm định PP, kiểm
định đồng liên kết Enger-Granger


2

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt hai thập kỷ gần đây, các nền kinh tế Châu Á mới nổi có tốc độ
tăng trưởng rất cao và nhanh. Điều này đã và đang khiến các vấn đề liên quan
đến việc kiểm soát lạm phát trở nên gay gắt và bức thiết hơn bao giờ hết. Vì
vậy, muốn điều hành lạm phát một cách hiệu quả, Chính phủ mỗi quốc gia
phải hiểu và nắm được các áp lực chính gây ra lạm phát trong chính quốc gia
đó. Các áp lực này đã trở nên căng thẳng hơn từ sau năm 2008 – hậu quả của
khủng hoảng tài chính toàn cầu – lạm phát gia tăng rất nhanh từ tháng

10/2009 – thời điểm các gói kích thích kinh tế của các nước trên thế giới được
tung ra để cứu kinh tế. Từ đó, các yếu tố tiền tệ tích lũy từ các gói kích thích
kinh tế cùng với giá lương thực và dầu mỏ tăng cao đã đẩy lạm phát tăng quá
nhanh. Những yếu tố về kỳ vọng trong thời gian này trở nên mất kiểm soát
khiến các nhà hoạch định chính sách không thể thành công với các chính sách
tiền tệ của mình. Kỳ vọng về lạm phát là yếu tố rất quan trọng đối với các nhà
hoạch định chính sách. Bởi việc neo thành công những kỳ vọng này sẽ tạo
dựng niềm tin của dân chúng đối với ngân hàng trung ương, từ đó giúp chính
sách tiền tệ phát huy tác dụng của mình, tạo ra một không gian tương đối cho
các chính sách tiền tệ trở nên linh hoạt hơn trong ngắn hạn. Những kỳ vọng
về lạm phát trong tương lai có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình ra quyết định
của các đại diện trong nền kinh tế. Bên cạnh yếu tố lạm phát kỳ vọng, các yếu
tố liên quan đến chính sách tiền tệ như cung tiền và lãi suất cũng có vai trò
quan trọng không kém trong việc hình thành lạm phát ở các quốc gia Châu Á,
đặc biệt là các quốc gia đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á.
3


Hình 1: Lạm phát kỳ vọng ngắn hạn ở các quốc gia Đông Nam Á
(Nguồn: Economic Consensus, BIS Papers No 70, năm 2012)
Mức độ kỳ vọng lạm phát của người dân phụ thuộc vào diễn biến lạm phát
trong quá khứ. Từ năm 2005 đến nay chỉ số lạm phát của Việt Nam luôn ở
mức cao so với hai quốc gia có thể xem là tương tự như nước ta là Thái Lan
và Trung Quốc. Chính mức độ cao và dai dẳng đó đã dần hình thành mức độ
kỳ vọng lạm phát cao trong người dân và có thể dẫn đến khả năng kiểm soát
của Chính phủ sẽ rất khó khăn.

Hình 2: Lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam
4


(Nguồn: Economic Consensus, BIS Papers No 70, năm 2012)
Ba năm gần đây, ổn định vĩ mô là một trong bốn vấn đề quan trọng trong định
hướng chính sách ở Việt Nam, trong đó lạm phát là vấn đề nổi bật nhất. Sau
khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam dần chuyển sang nền kinh tế mở, sự
ảnh hưởng của kinh tế thế giới lên kinh tế Việt Nam ngày càng rõ nét. Khác
với giai đoạn Khủng hoảng năm 1997, Việt Nam là một ngoại lệ thì nay Việt
Nam đang bị cuốn vào dòng xoáy của Khủng hoảng tài chính thế giới 2008 và
khủng hoảng nợ công ở Mỹ và Châu Âu. Từ 2011 đến nay, Việt Nam vẫn
đang rất chật vật xoay sở trong việc kiềm chế sự gia tăng của lạm phát, các
yếu tố kỳ vọng và tìm cách đưa kinh tế thoát khỏi suy thoái. Nhiều thách thức
mới cho việc quản lý kinh tế vĩ mô được đặt ra. Hàng loạt những thay đổi
trong mô trường vĩ mô và chính sách kinh tế đã đặt ra yêu cần mới trong việc
tiếp cận một cách có hệ thống và toàn diện nhằm xác định những nhân tố vĩ
mô quyết định lạm phát trong bối cảnh mới.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ VIỆT NAM” để đánh giá tác
động của các nhân tố vĩ mô chính lên lạm phát ở Châu Á và quan trọng là ở
Việt Nam, trong đó xem xét ảnh hưởng của yếu tố kỳ vọng của các nhân tố
lên lạm phát hiện tại. Từ đó, đưa ra khả năng dự báo của các nhân tố này đối
với sự hình thành lạm phát trong tương lai.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn này nghiên cứu, đánh giá và kiểm định lại các các nhân tố vĩ mô
chính tác động lên lạm phát ở các quốc gia Châu Á nói chung và ở Việt Nam
nói riêng trong giai đoạn 1996 – 2013, giai đoạn mà hầu hết các quốc gia
Châu Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hai cuộc khủng hoảng năm 1997 và
5

2008, trong đó đánh giá tác động của nhân tố mới là chính sách tiền tệ trong
mô hình NKPC. Từ đó, tác giả xây dựng mô hình dự báo lạm phát kỳ vọng ở
các quốc gia này, đồng thời luận văn còn tìm hiểu sự khác biệt về vai trò của

từng nhân tố này đối với lạm phát kỳ vọng giữa nhóm các quốc gia phát triển
và đang phát triển.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu trên, tác giả đưa ra một số câu hỏi nghiên
cứu như sau:
 Lạm phát trong quá khứ ảnh hưởng như thế nào đến lạm phát hiện tại và
việc hình thành lạm phát kỳ vọng ở các quốc gia Châu Á và Việt Nam ?
 Vai trò của chính sách tiền tệ qua hai nhân tố tăng trưởng cung tiền và lãi
suất thực có tác động như thế nào đối với lạm phát ở các quốc gia Châu Á
và đặc biệt là ở Việt Nam ?
 Khả năng dự báo của các nhân tố này đối với việc hình thành lạm phát
trong tương lai ?
1.4. Bố cục của luận văn
Luận văn này gồm có 5 chương : chương 1 giới thiệu trình bày tổng quan các
nội dung chính của luận văn và giải thích lý do tác giả chọn đề tài này để
nghiên cứu. Chương 2 trình bày tổng quan lý thuyết, nội dung, phương pháp
và kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan trước đây. Chương 3
mô tả mẫu dữ liệu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, mô hình nghiên cứu
và giải thích các biến được sử dụng để phân tích. Chương 4 thảo luận về
những kết quả thực nghiệm. Chương 5 kết luận của luận văn.
6

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC
ĐÂY
2.1. Tổng quan lý thuyết về lạm phát và NPKC
Các lý thuyết hiện đại về lạm phát của Samuelson và Nordhaus (2005) trong
cuốn sách của mình “Kinh tế vĩ vô, bản thứ 18” cho thấy có ba nguyên nhân
chính dẫn đến lạm phát: cầu đẩy, chi phí đẩy và các kỳ vọng lạm phát trong
tương lai cũng như lạm phát trong quá khứ.
 Lạm phát cầu đẩy diễn ra khi tổng cầu tăng không ổn định dẫn đến việc

gia tăng các áp lực lên nguồn lực kinh tế và GDP thực lớn hơn GDP tiềm
năng, tức là khe hở sản lượng dương. Một sự gia tăng trong tổng cầu có
thể đến từ nhiều nguyên nhân như người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn,
hoặc cũng có thể do lãi suất giảm, thuế bị cắt hay đơn giản là niềm tin của
người tiêu dùng gia tăng… Và một nguyên nhân khác không kém phần
quan trọng là sự gia tăng trong cung tiền mở rộng – tổng tiền trong nền
kinh tế trong một thời điểm làm gia tăng tổng cầu, từ đó làm giá cả tăng
lên. Điều này sẽ dẫn đến lạm phát nếu cầu tăng nhanh hơn cung.
 Lạm phát chi phí đẩy: cách tiếp cận này dựa trên nguyên nhân là sự gia
tăng trong chi phí các nhân tố sản xuất. Khi chi phí sản xuất tăng cao, sản
lượng giảm sút. Cung bị giảm dẫn đến giá tăng. Theo đó, người lao động
yêu cầu mức lương cao hơn và điều này lại dẫn đến tăng chi phí. Mà
nguyên nhân chi phí các nhân tố sản xuất tăng cao có thể do giá dầu, sự
phá giá đồng tiền dẫn đến giá nhập khẩu các nguyên liệu tăng cao, lãi suất
tăng khiến chi phí vay nợ tăng cao…
 Kỳ vọng lạm phát thời gian gần đây được xem là một nhân tố quan trọng
trong việc dự báo lạm phát và luôn được các nhà kinh tế, các nhà chính
7

sách theo dõi. Bởi những kỳ vọng này ảnh hưởng lên hành vi của người
dân theo nhiều cách khác nhau và có ảnh hưởng lâu dài lên lạm phát.
Trong khi đó, khi nghiên cứu về lạm phát theo hướng của Phillips (1958) và
Lipsey (1950) phát triển dựa trên mô hình đường cong Phillips, việc bổ sung
vai trò kỳ vọng về lạm phát vào mô hình của Friedman (1960) và Edmund
Phelps (1967) và những cải biên, chỉnh sửa gần đây của Fischer (1977) và
Taylor (1979) đã khẳng định vai trò quyết định lớn đến lạm phát hiện tại và
tương lai của lạm phát kỳ vọng. Các kết quả của Calvo (1983) và Gali và
Gertler (1999) cũng góp phần khẳng định thêm điều này. Vì vậy, việc xác
định các nhân tố kỳ vọng này sẽ giúp các nhà hoạch định dự báo được lạm
phát trong tương lai. NPKC mô tả mối quan hệ giữa lạm phát và kỳ vọng của

các đại diện trong nền kinh tế về lạm phát tương lai, chi phí biên hay khe hở
sản lượng. Thông qua NPKC, lạm phát sẽ có xu hướng tăng khi khe hở sản
lượng tăng, vì lúc này, chi phí cao được chuyển vào giá cả và khi lạm phát kỳ
vọng tăng cao, các đại diện kinh tế sẽ tăng giá hôm nay để phản ánh mức giá
cao hơn ở hôm sau. Gali và Gertler (1999), Whelan, Karl (2005) đã phát triển
mô hình NKPC thành dạng sau:


= 

+ 

Ε

{
π

}
+ γ

π


 Ε

{
π

}
= (−


+ π

− γ

π

)/


Từ mô hình trên, có thể thấy lạm phát kỳ vọng chịu sự tác động rất lớn từ lạm
phát quá khứ và hiện tại. Các nghiên cứu của Woodford (2003) và Christiano,
Eichenbaum và Evans (2005) bổ sung thêm vai trò của lạm phát quá khứ vào
mô hình NPKC. Đây là nhân tố có vai trò rất quan trọng quyết định đến lạm
phát hiện tại và tương lai. Nhân tố này giúp xác định yếu tố kỳ vọng của lạm
phát.
8

2.2. Cách thức hình thành kỳ vọng trong NPKC:
Kỳ vọng về lạm phát của dân chúng có được thông qua các tổ chức điều tra
độc lập như Michigan, Reuters hoặc các cuộc điều tra hộ gia đình của
“Survey of Profession Forecasters”. Dân chúng có thể đưa ra những dự đoán
của mình về lạm phát trong năm tới bằng với lạm phát của năm vừa qua hoặc
là trung bình của vài năm gần đây. Nếu dự đoán như vậy thì gọi là kỳ vọng
thích nghi. Họ có thể không chỉ dựa vào quá khứ để đoán tương lai mà còn sử
dụng những thông tin hiện tại để giúp mình dự đoán. Với cách này, các nhà
kinh tế học gọi là kỳ vọng hợp lý. Giữa những nhà kinh tế có quan điểm khác
nhau về sự hình thành kỳ vọng thích nghi hay hợp lý.
Có ba trường hợp cơ bản cho việc hình thành kỳ vọng:
 Khi lạm phát ở mức thấp trong suốt một khoảng thời gian dài, kỳ vọng sẽ

“tĩnh” – nói cách khác, các tổ chức cá nhân (hộ kinh doanh và doanh
nghiệp) sẽ không còn lo lắng về lạm phát và làm ngơ trước sự thật rằng
mức lạm phát có thể thay đổi.
 Khi lạm phát ở mức tương đối cao, người ta đã không thể làm ngơ được
nữa. Nếu sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát diễn ra chậm, mức lạm phát của
năm sau có thể dự tính được trên cơ sở mức lạm phát của năm trước – hay
nói cách khác, khi đó kỳ vọng có khả năng thích ứng, tức là phụ thuộc vào
các giá trị quá khứ của lạm phát. Đường cong Phillips trong trường hợp
này có công thức: 

= 

+ . + 
Đường cong sẽ dịch chuyển lên hoặc xuống tùy thuộc vào mức lạm phát
của năm ngoái cao hay thấp hơn mức lạm phát của năm kia. Theo kỳ vọng
thích ứng, tỷ lệ lạm phát sẽ tăng (giảm) theo thời gian nếu  > 0
(
 < 0
)
,
tức là 

− 


= . > 0.
9

 Khi những điều kiện cơ bản và chính sách của chính phủ thay đổi nhanh
chóng, kỳ vọng thích ứng sẽ dẫn tới những sai lầm to lớn và đắt giá. Trong

những tình huống như vậy, các tổ chức cá nhân sẽ điều chỉnh kỳ vọng
không phải dựa vào quá khứ, mà dựa trên cơ sở nhìn về phía trước và cố
đoán biết các chính sách mà chính phủ sẽ ban hành trong tương lai. Hay
theo cách khác, các tổ chức cá nhân sẽ bỏ qua kỳ vọng thích ứng và
chuyển sang kỳ vọng hợp lý. Một điều thú vị là, khi các chính sách của
chính phủ được tiên đoán m ột cách hoàn hảo thì chúng sẽ chẳng còn tác
dụng gì cho nền kinh tế thực khi kỳ vọng được hình thành m ột cách hợp
lý. Vì vậy, nếu chính phủ tuyên bố rằng sẽ tăng chi tiêu để tăng tỷ lệ việc
làm, các tổ chức các nhân sẽ ngay lập tức điều chỉnh tăng tỷ lệ lạm phát kỳ
vọng (đường cong Phillips dịch chuyển lên trên) và chính sách sẽ không
có hiệu quả gì ngoài việc làm tỷ lệ lạm phát tăng cao hơn.
Quá trình hình thành kỳ vọng cũng ảnh hưởng khác nhau lên hiệu quả của
chính sách kinh tế. Nếu dân chúng hành động theo kiểu kỳ vọng thích nghi thì
chính sách sẽ có công hiệu hơn là kỳ vọng hợp lý. Trong thực tế, doanh
nghiệp và người lao động sẽ thực hiện mặc cả tiền lương của mình trong giai
đoạn làm việc bằng cách hình dung giá cả của giai đoạn đó như thế nào. Một
khi người lao động dự đoán rằng vào lúc vào lúc mà mình nhận lương giá cả
sẽ tăng gấp đôi thì chắc chắn rằng ngày đặt bút ký hợp đồng lao động hôm
nay là cơ hội tốt nhất để họ yêu cầu doanh nghiệp phải tăng tiền lương của
mình, ít nhất là gấp đôi, nếu không muốn sắp tới phải ăn chỉ bằng một nửa
của ngày hôm nay.
Và nếu chủ doanh nghiệp cũng đồng ý chuyện này, nghĩa là sẽ trả lương tăng
gấp đôi, thì không có lý do gì họ không tăng giá bán sản phẩm để bù vào phần
chi phí tăng lương (và cả những nguyên liệu đầu vào mà họ cũng nghĩ là
10

tăng). Như vậy, khi cả hai bộ phận này trong dân chúng cùng có một kỳ vọng
về giá cả trong tương lai tăng gấp đôi thì chắc chắn nó sẽ tăng ít nhất là gấp
đôi. Rõ ràng là, sự tăng giá này chẳng phải bắt nguồn từ tăng tiền quá mức,
biến động giá tương đối như tỷ giá hay sự thay đổi cấu trúc của nền kinh tế

mà bắt nguồn từ yếu tố kỳ vọng. Các chính sách chống lạm phát sẽ khó khăn
hơn khi mà yếu tố kỳ vọng chưa ổn định.

2.3. Diễn biến lạm phát kỳ vọng theo mô hình NPKC ở Việt Nam giai
đoạn từ Khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Vào đầu năm 2007, nền kinh tế Việt Nam lúc này còn rất lạc quan, thị trường
chứng khoán, bất động sản có giá tăng rất nhanh, FDI và FPI tăng rất mạnh và
lớn nên dù cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt nặng nhưng Ngân hàng nhà
nước (NHNN) vẫn có thể âm thầm mua vào ngoại tệ mà không gây sức ép lên
tỷ giá. Lúc này nền kinh tế vẫn rất ổn định trên đường Phillips có lạm phát kỳ
vọng thấp. Chỉ sau đó ít lâu đến quý 4 năm 2007, lạm phát ở Việt Nam, lần
đầu tiên sau nhiều năm, vượt qua ngưỡng một con số. Cũng trong năm 2007,
chính sách tiền tệ của NHNN thể hiện qua các biện pháp hành chính vào lãi
suất và tăng trưởng tín dụng đã có tác dụng không nhỏ lên lãi suất. Thực tế là
lãi suất liên ngân hàng một tháng trung bình cho cả quý giảm từ 8.26% trong
quý 1 xuống 5.55% trong quý 3, điều này cho thấy nền kinh tế đã được nới
lỏng một cách gián tiếp. Trong quý 4 năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện siết
thanh khoản làm lãi suất liên ngân hàng tăng trở lại lên 6.75%. Nhưng lần thắt
chặt này đã khiến nền kinh tế rời khỏi đường Phillips rất nhanh. Vì vậy đầu
năm 2008, NHNN nâng tất cả các loại lãi suất chính sách, phát hành 20,000 tỷ
tín phiếu bắt buộc để rút thanh khoản về, đặt trần tăng trưởng tín dụng và
chấm dứt tích lũy dự trữ ngoại tệ. Lãi suất liên ngân hàng một tháng đã tăng
vọt lên 8.97% và đạt đỉnh 19.31% vào quý 3 năm 2008. Đồng thời, lãi suất cơ
11

bản lúc này tăng lên 14% từ ngày 11/06/2008. Lần thắt chặt đã diễn ra rất
nhanh và quyết liệt. Điều này khiến nền kinh tế phản ứng như lý thuyết với
đường Phillips mới có lạm phát kỳ vọng cao hơn. Quý 1 năm 2009, tăng
trưởng GDP chỉ còn 3.1% so với năm ngoái đến từ hai nguyên nhân chính là
tiền tệ bị thắt chặt và ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008.

Giá các loại nguyên liệu thô và giá dầu giảm mạnh, kéo lạm phát ở Việt Nam
giảm theo. Nhờ vậy, lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam giảm mạnh trong năm
2009 và giúp nền kinh tế trở về đường Phillips ban đầu.
Từ tháng 10/2008, NHNN bắt đầu cắt giảm lãi suất và đến quý 1 năm 2009,
lãi suất cơ bản chỉ còn 7%, thấp hơn năm 2007. Lãi suất liên ngân hàng lúc
này giảm xuống còn 6.73%, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng quá nhanh.
Gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất, tăng đầu tư công và giảm thuế lên lến
8% GDP đã được giữ quá lâu trong giai đoạn này và lãi suất cơ bản chỉ được
nâng lên 8% vào cuối năm 2009 và đạt 8.78% vào quý 4 năm 2010 đã khiến
lạm phát một lần nữa quay trở lại 2 con số. Lạm phát kỳ vọng tăng rất nhanh
khiến các nỗ lực thắt chặt tiền tệ trong năm 2011 của NHNN trở nên chật vật
trong hai năm 2011 và 2012.

2.4. Các nghiên cứu thực nghiệm theo mô hình NPKC ở các quốc gia
Châu Á
Trong hầu hết các mô hình NPKC đo lường cho các quốc gia phát triển, khe
hở sản lượng được ứng dụng như một chỉ số đo lường tổng cầu. Mối liên hệ
giữa lãi suất và mức cầu dư ở các nền kinh tế phát triển được tìm thấy rất rõ
ràng bởi tính hiệu quả cao trong cơ chế truyền dẫn từ chính sách tiền tệ vào
kinh tế thực thông qua lãi suất. Vì vậy Scheibe và Vines (2005) cho rằng
không nên đưa cung tiền cùng với khe hở sản lượng vào mô hình. Tuy nhiên,
kết quả thực nghiệm trên mười mô hình về lạm phát của Razzak (2002) lại
12

cho thấy khe hở sản lượng lại không phải là biến giải thích có ý nghĩa thống
kê đối với lạm phát, mà các biến thuộc về chính sách tiền tệ như cung tiền và
lãi suất thực mới là biến có ý nghĩa thống kê tốt hơn trong việc cung cấp
thông tin về lạm phát trong tương lai. Với các quốc gia đang phát triển, mô
hình đo lường lạm phát theo khe hở sản lượng cũng ít được ứng dụng. Nghiên
cứu của Coe và McDermott (1997) về việc sử dụng mô hình có yếu tố khe hở

sản lượng ở Châu Á cũng cho thấy mô hình này không thực sự hiệu quả ở
Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ. Một lý giải có thể chấp nhận được trong
trường hợp này là các quốc gia đang phát triển có thị trường tài chính không
thực sự phát triển, và do đó mối liên hệ giữa lãi suất và tổng cầu yếu. Vì vậy,
đối với các quốc gia đang phát triển, khe hở cung tiền thực nên được đưa vào
mô hình như là một nhân tố tiềm năng trong việc xác định lạm phát kỳ vọng
thay cho khe hở sản lượng.
Các cú sốc cung nội địa, đặc biệt là các cú sốc liên quan đến khu vực nông
nghiệp, có thể cung cấp những chỉ báo vĩ mô quan trọng đối với các quốc gia
đang phát triển. Không xét đến việc các cú sốc này là tạm thời hay lâu dài,
phạm vi ảnh hưởng lên lạm phát phụ thuộc vào tỷ trọng của khu vực ảnh
hưởng này trong chỉ số giá. Ví dụ, ở các quốc gia đang phát triển, thực phẩm
chiếm tỷ trọng lớn trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Ngoài ra, giá thực phẩm
có xu hướng không ổn định vì ảnh hưởng của thời tiết cũng như sự tồn tại của
các hàng rào thương mại. Thêm vào đó, một sự gia tăng trong giá các hàng
hóa thực phẩm không chỉ làm tăng lạm phát ngắn hạn do tỷ trọng cao trong
CPI, mà còn khiến kỳ vọng lạm phát gia tăng, từ đó có những tác động không
tốt lên tỷ lệ lạm phát.
Kết quả của Carolina và Unsal (2011) cũng cho thấy lạm phát ở Châu Á trong
suốt hai thập kỷ gần đây chủ yếu do các cú sốc tiền tệ và sốc cung, tuy nhiên
13

ảnh hưởng của các cú sốc này trong những năm gần đây không còn mạnh nữa,
mà các áp lực từ phía cầu bắt đầu trở thành những nguyên nhân lớn đối với
lạm phát ở Châu Á. Sốc cung giải thích 45% những dao động lạm phát ở
Châu Á, trong đó ¾ đến từ sốc giá hàng hóa. Sốc cầu giải thích 55% còn lại,
¾ phản ánh tác động của sốc tiền tệ và ¼ đến từ khe hở sản lượng. Đặc biệt,
những thay đổi trong cung tiền và lãi suất chỉ giải thích 25% dao động lạm
phát; trong đó chỉ có 15% đến từ tỷ giá dù tỷ giá đóng vai trò quan trọng đối
với các quốc gia như Indonesia và Hàn Quốc. Khi phân chia nguồn gốc của

các cú sốc, Carolina và Unsal (2011) cho thấy 60% dao động lạm phát ở Châu
Á chủ yếu do các yếu tố nội địa, 30% do các nhân tố toàn cầu và 10% còn lại
do yếu tố khu vực. Kết quả của Puzon (2009) đối với ASEAN-4 cho thấy lạm
phát ở Thái Lan chủ yếu do lạm phát quá khứ gây ra; còn ở Indonesia, lãi
suất, các cú sốc giá và khủng hoảng tài chính 1997 là những nguyên chính
khiến lạm phát tăng cao; đối với Phillipines là lãi suất, tỷ giá quá khứ và tỷ lệ
thất nghiệp quá khứ. Ho và McCauley (2003) cho rằng vai trò của tỷ giá trong
quá trình hình thành xu hướng lạm phát trong nước sẽ mạnh hơn đối với các
quốc gia đang phát triển. Ito và Sato (2006) cũng tìm ra ý nghĩa thống kê của
biến tỷ giá trong việc xác định lạm phát ở Hàn Quốc và Thái Lan nhưng lại
không đúng với Singapore.
2.5. Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam
Dựa theo lý thuyết, các nghiên cứu gần đây về lạm phát ở Việt Nam đã kết
hợp nhiều nhân tố từ cả phía cầu đẩy và chi phí đẩy nhằm giải thích các biến
động của lạm phát. Các nhân tố này bao gồm CPI, cung tiền, lãi suất, tỷ giá,
sản lượng, giá dầu và giá gạo thế giới.
Jongwanich và Park (2008) khi nghiên cứu các nhân tố gây ra lạm phát ở chín
14

quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam, thông qua mô hình kết hợp các nhân
tố chi phí đẩy (lạm phát trong giá dầu và giá lương thực quốc tế) và các nhân
tố cầu kéo (CPI, PPI, tỷ giá và khe hở sản lượng) đã chỉ ra rằng giai đoạn lạm
phát gia tăng ở Châu Á năm 2007 – 2008 chủ yếu đến từ dư cung và kỳ vọng
lạm phát chứ không phải các nhân tố chi phí đẩy dù rằng lạm phát giai đoạn
này trùng hợp với sự gia tăng của giá lương thực và giá dầu thế giới.
Nguyễn Trí Thành và Võ Thu Hằng (2010) tìm thấy độ trì trệ của lạm phát
Việt Nam là cao và là một trong những nhân tố quan trọng quyết định lạm
phát của Việt nam trong hiện tại. Ngoài ra, hai tác giả này cũng cho thấy kiểm
soát lạm phát một cách có hiệu quả trở nên rất khó một khi nó đã bắt đầu tăng
lên và mức chuyển tỷ giá vào lạm phát là đáng kể trong ngắn hạn với việc phá

giá dẫn đến giá cả tăng lên trong khi thâm hụt ngân sách cộng dồn không có
ảnh hưởng nhiều đến lạm phát. Cung tiền và lãi suất khi tác động lên lạm phát
có một độ trễ nhất định.
Các kết quả nghiên cứu về vai trò của tiền tệ thì trái ngược nhau, có thể do
các giai đoạn nghiên cứu khác nhau cũng như dữ liệu và phương pháp ước
lượng khác nhau. Một nghiên cứu của IMF (2006) sử dụng dữ liệu quý trong
giai đoạn 2001 – 2006 cho thấy tồn tại vai trò quan trọng của tiền tệ đối với
lạm phát. Nghiên cứu đã khẳng định tốc độ tăng cung tiền và tín dụng bắt đầu
có mối quan hệ với lạm phát từ năm 2002. Bên cạnh đó còn chỉ ra rằng trong
khi kỳ vọng lạm phát và khe hở sản lượng có tác động đến lạm phát thì các cú
sốc giá dầu và tỷ giá có ít vai trò trong việc giải thích biến động của lạm phát
trong giai đoạn nghiên cứu. Lạm phát ở Việt Nam thường kéo dài hơn những
nước khác trong khu vực. Điều này một lần nữa cho thấy một khi người dân
đã có kỳ vọng về lạm phát, việc kiểm soát trở nên khó khăn hơn. Võ Trí
Thành và cộng sự (2000) và Carmen (2005) khẳng định tồn tại mối quan hệ
15

cùng chiều giữa tốc độ tăng trưởng cung tiền và lạm phát ở Việt Nam. Tuy
nhiên, nghiên cứu của IMF (2003) và Lê Việt Hùng và Pfau (2008) lại cho
thấy tiền tệ hầu như không có tác động gì đến lạm phát.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Liên Hoa và Trần Đặng Dũng (2013)
trong khuôn khổ phương pháp SVAR cho thấy chính sách tiền tệ có ảnh
hưởng đáng kể đến lạm phát, đặc biệt là cung tiền M2 và độ trễ của tác động
này là khoảng 6 tháng, còn tỷ giá không tác động nhiều mà chủ yếu thể hiện
vai trò kênh truyền dẫn. Đồng thời, vai trò của yếu tố kỳ vọng lên việc tăng
giá trong nước, sự kỳ vọng này bắt nguồn từ nhiều nguồn nhưng chủ yếu vẫn
là do sự ảnh hưởng của lạm phát cao trong quá khứ và vấn đề điều hành của
người làm chính sách.
Trương Văn Phước và Chu Hoàng Long (2005) sử dụng phương pháp ước
lượng Granger cho giai đoạn từ tháng 7 năm 1994 đến tháng 12 năm 2004 và

chứng minh rằng các nhân tố quyết định lạm phát trong giai đoạn này là lạm
phát của các kỳ trước và khe hở sản lượng. Cung tiền không có ý nghĩa đối
với lạm phát và tác động của giá dầu, giá gạo quốc tế cũng như mức chuyển
tỷ giá và lạm phát là rất thấp.
Nguyễn Thùy Vinh và Fujita (2007) sử dụng cách tiếp cận VAR để nghiên
cứu tác động của tỷ giá đối với sản lượng và lạm phát ở Việt Nam trong giai
đoạn từ 1992 đến 2005. Các tác giả cho thấy rằng nguyên nhân chủ yếu khiến
sản lượng và mức giá thay đổi là các biến động của các biến này trong quá
khứ và tỷ giá có ảnh hưởng nhiều đến cán cân thương mại và sản lượng hơn
đến lạm phát. Mô hình VAR của tác giả bao gồm sản lượng công nghiệp, CPI,
tỷ giá, cung tiền, thâm hụt thương mại và lãi suất của Mỹ. Mô hình này tập
trung chủ yếu vào mức chuyển của tỷ giá và do vậy bỏ qua các nhân tố quyết
16

định lạm phát khác.
Phạm Thế Anh (2008) đã sử dụng các số liệu truyền thống cho giai đoạn
tháng 1/1994 đến tháng 8/2008 trong mô hình SVAR và chỉ ra rằng những
biến động trong quá khứ của các biến có vai trò giải thích cho hầu hết các
biến được nghiên cứu với các cú sốc cung tiền M2 và lãi suất đóng vai trò rất
nhỏ. Tác giả còn nghiên cứu các nhân tố quyết định lạm phát cho giai đoạn
này với dữ liệu quý của CPI, cung tiền, lãi suất, tỷ giá, sản lượng công nghiệp
và sai số ECM từ các kiểm định tự tương quan cho mối quan hệ PPP và mối
quan hệ về cầu về tiền. Nghiên cứu đã khẳng định vai trò của lạm phát quá
khứ và sản lượng đối với lạm phát đồng thời khẳng định giá dầu quốc tế
không có ảnh hưởng đến lạm phát hiện tại. Một phát hiện khác của nghiên
cứu là vai trò quan trọng của tốc độ tăng trưởng cung tiền đến lạm phát (sau 3
kỳ) trong khi lãi suất đóng vai trò bị động.
Có thể thấy, tổng quan các nghiên cứu đã có về các nhân tố quyết định đến
lạm phát ở Việt Nam đều cho thấy lạm phát quá khứ có vai trò rất quan trọng
quyết định lạm phát hiện tại và tương lai. Chính yếu tố này tác động đến kỳ

vọng của người dân. Các kết quả về vai trò của tiền tệ thông qua hai biến
cung tiền và lãi suất trái ngược nhau. Trong khi đó, vai trò của tỷ giá và giá cả
quốc tế rất nhỏ khá đồng nhất ở các nghiên cứu trước đây.

17

CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu
Bài nghiên cứu kết hợp mô hình của Pami Dua (2009) áp dụng cho tám quốc
gia Châu Á và Patra và Ray (2010) đã từng áp dụng ở Ấn Độ để tìm ra các
nhân tố tác động lên lạm phát và xây dựng mô hình dự báo lạm phát kỳ vọng.
Mô hình sử dụng để thực hiện nghiên cứu:



=  +




ln

+



(


− 


)

+



(
2

− 2

)
+







+




(

)



+






+







+







+ 


Mỗi quốc gia có những giai đoạn phát triển khác nhau, vì vậy cũng sẽ có
những đặc điểm riêng biệt mà có thể tác động lên lạm phát. Bài nghiên cứu
này không thể bao quát hết toàn bộ các đặc điểm đó mà chủ yếu tập trung vào

các nhân tố phổ biến nhất có tiềm năng ảnh hưởng lớn lên lạm phát. Và các
yếu tố này được chia làm hai mảng lớn dựa trên các lý thuyết phía trên khi đề
cập đến nguyên nhân gây ra lạm phát: do cầu đẩy, do chi phí đẩy và do yếu tố
kỳ vọng.
Trong đó, lạm phát kỳ vọng 


được xác định bởi các yếu tố:

×