Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

HIỆU QUẢ CÔNG TY VÀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.74 KB, 83 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH




VÕ TRẦN TRUNG



HIỆU QUẢ CÔNG TY VÀ QUẢN TRỊ DOANH
NGHIỆP TRONG CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ




CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ NGÀNH: 60340201




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS TRẦN NGỌC THƠ








TP HCM – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn ký và ghi rõ họ tên

LỜI CÁM ƠN
Lời đầu tiên cho tôi xin gởi lời cám ơn chân thành nhất đến GS.TS Trần Ngọc Thơ
đã giúp tôi chọn đề tài nghiên cứu phù hợp và định hướng khoa học cho tôi hoàn
thành bài luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang đưa ra ý kiến nhận xét
vô cùng bổ ích cho tôi thực hiện bài luận văn này.
Tôi cũng xin gởi lời cám ơn anh Hoàng Văn Thành – Trưởng phòng nhân lực –
hành chính của Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm TP Hồ Chí
Minh (CEP) – đã cho tôi những gợi ý và những đóng góp rất giá trị.
Tôi xin chân thành cám ơn anh Trần Thanh Bình – Trưởng chi nhánh Quỹ CEP, chi
nhánh Nhà Bè – đã cho tôi nhận xét bổ ích và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn
thành bài luận văn này trong thời gian tôi công tác tại Quỹ CEP, chi nhánh Nhà Bè.
Tôi cũng xin cám ơn tập thể các anh chị Quỹ CEP chi nhánh Nhà Bè chia sẽ công
việc cho tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gởi lời cám ơn đến ThS. Hà Văn Hiếu – Thạc Sĩ Toán, Trường đại học
Bordeaux Pháp – đã giúp tôi hiểu về mô hình sử dụng trong bài luận văn này.

Tôi xin chân thành cám ơn TS. Nguyễn Đức Hải - Phó Giám đốc Trung tâm Tài
chính Vi mô Học viên ngân hàng, anh Nguyễn Hải Đường - Phó giám đốc Quỹ hỗ
trợ phụ nữ nghèo Thanh Hoá, chị Nguyễn Thu Hương – Cán bộ giám sát M7 Điện
Biên, anh Nguyễn Thanh Hà – Cán bộ Quỹ VietED, chị Nguyễn Thị Hà – Kế toán
Quỹ phát triển phụ nữ Uông Bí, chị Nguyễn Thị Tiếp – Quỹ phụ nữ nghèo Sóc Sơn
và các anh chị đang công tác tại các tổ chức tài chính vi mô khác đã cung cấp thông
tin và dành thời gian trả lời email của tôi.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CGAP : Tập đoàn tư vấn hỗ trợ người nghèo (Consultative Group to Assist
the Poor)
IDB : Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ (Inter-American Development Bank)
IFAD : Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế (International Fund for
Agricultural Development)
FinP : Hiệu quả tài chính
HĐQT : Hội đồng quản trị
HTX : Hợp tác xã
MIX : Tổ chức trao đổi thông tin vi mô (Microfinance Information
Exchange, Inc)
NGO : Hình thức sở hữu bởi tổ chức phi lợi nhuận
OC : Chi phí hoạt động
Outreach : Tiếp cận cộng đồng (hiệu quả xã hội)
PY : Sản lượng danh mục đầu tư
SHF : Hình thức sở hữu công ty cổ phần
SPI : Chỉ số đo lường hiệu quả xã hội (Social Performance Indicators
Initiative)
TCVM : Tài chính vi mô
TCTCVM : Tổ chức tài chính vi mô
USAID : Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (United States Agency for
International Development)
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Bảng miêu tả các biến phụ thuộc………………………………………….22
Bảng 2: Bảng miêu tả các biến độc lập và các tác động trên lý thuyết của chúng đối
với hiệu quả tài chính (FinP) và tiếp cận cộng đồng (Outreach)………………… 23
Bảng 3: Bảng thống kê mô tả các biến trong đặc điểm hội đồng quản trị…………35
Bảng 4: Bảng thống kê mô tả các biến phụ thuộc được sử dụng trong phân tích….37
Bảng 5: Bảng thống kê miêu tả của các biến còn lại trong mô hình……………….38
Bảng 6: Bảng hồi quy ROA qua bốn năm và tỷ suất sinh lợi danh mục, chi phí hoạt
động trong năm 2012 đối với các biến độc lập…………………………………….42
Bảng 7: Bảng hồi quy mức vay trung bình qua bốn năm và số lượng khách hàng
trong năm 2012 đối với các biến độc lập………………………………………… 46
Bảng 8: Bảng hệ số tương quan giữa một số biến độc lập trong mô hình…………49
Bảng 9: Bảng hồi quy sau khi loại bỏ lần lượt phương pháp cho vay và số nhân viên
trong các hồi quy ROA và mức vay trung bình năm 2012……………………… 50

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1: Sơ đồ cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng………………………….11
Hình 2: Các chỉ số thống kê về các tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động tại Việt
Nam……………………………………………………………………………… 15
1

Tóm tắt
Bài luận văn này xem xét mối quan hệ giữa hiệu quả công ty và quản trị doanh
nghiệp trong các tổ chức tài chính vi mô được điều tra ở Việt Nam. Trong đó, bài
luận văn đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng quản trị, hình thức sở
hữu doanh nghiệp và khuôn khổ pháp lý đối với việc đo lường hiệu quả của 29 tổ
chức tài chính vi mô ở Việt Nam. Kết quả cho thấy rằng, trong đặc điểm hội đồng
quản trị, việc phân quyền giữa người quản lý và chủ sở hữu doanh nghiệp (phân
quyền giám đốc điều hành/thành viên hội đồng quản trị) cho hiệu quả xã hội tốt hơn
nhưng không mang lại hiệu quả tài chính. Bên cạnh đó, giám đốc điều hành là phụ
nữ cũng mang lại hiệu quả xã hội nhưng đối với hiệu quả tài chính thì không. Kết

quả tiếp theo đưa ra rằng, các tổ chức tài chính vi mô sở hữu bởi các tổ chức phi lợi
nhuận sẽ hoạt động tốt hơn trong lĩnh vực này. Và cuối cùng, khuôn khổ pháp lý
quy định phù hợp hơn đối với các tổ chức tài chính vi mô, làm gia tăng khả năng
mở rộng hoạt động và tiếp cận những người nghèo của các tổ chức này.
Từ khóa: tài chính vi mô, tổ chức tài chính vi mô, quản trị, hiệu quả

2

Giới thiệu
Việt Nam đã xác định ba vấn đề cốt lõi để đảm bảo con đường phát triển bền vững
của đất nước là: tăng trưởng cao về kinh tế gắn với công bằng xã hội, xóa đói giảm
nghèo và bảo vệ môi trường. Với mục tiêu này, hoạt động tài chính vi mô của Việt
Nam đã và đang thể hiện vai trò quan trọng, tăng cường hỗ trợ tài chính cho khu
vực nông thôn và các hộ gia đình thu nhập thấp. Vấn đề đặt ra là, chúng ta không dễ
đo lường hiệu quả của các tổ chức tài chính vi mô. Thật vậy, chúng ta xem xét tính
bền vững tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chỉ cho thấy một trong những
đặc điểm trong hiệu quả hoạt động. Các tổ chức tài chính vi mô được thành lập để
giúp đỡ những người nghèo nhất, đó là khía cạnh tiếp cận cộng đồng trong hoạt
động của các tổ chức này. Vì vậy, hiệu quả của một tổ chức tài chính vi mô có thể
xem là đa chiều.
Trong bài luận văn này, tập trung vào các mối quan hệ giữa hiệu quả công ty và
quản trị doanh nghiệp trong các tổ chức tài chính vi mô. Hầu hết, các tổ chức tài
chính vi mô tuyên bố có một nhiệm vụ kép là: tiếp cận khách hàng là những người
nghèo và bền vững về tài chính. Do đó, hiệu quả của các tổ chức tài chính vi mô
nên được đo lường theo cả hai khía cạnh này.
Quản trị doanh nghiệp tốt được xác định là một nút thắt quan trọng trong việc tăng
cường hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô và gia tăng tiếp cận cộng
đồng (Rock và các cộng sự, 1998; Labie, 2001; Helms, 2006; United Nations, 2006;
Otero và Chu, 2002). Tuy nhiên, chúng ta mới chỉ có nghiên cứu của Hartarska
(2005) ở các tổ chức tài chính vi mô Đông Âu, xét đến ảnh hưởng của quản trị

doanh nghiệp đối với hiệu quả của các tổ chức tài chính vi mô. Do đó, bài nghiên
cứu của Roy Mersland và Reidar Oystein Strom “Performance and corporate
governance in microfinance institutions” năm 2007, đã phân tích rõ hơn mối quan
hệ giữa hiệu quả công ty và quản trị doanh nghiệp trong các tổ chức tài chính vi mô.
Trong đó, Mersland và Strom (2007) đã khai thác dữ liệu công bố gần đây của các
tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới, để thiết lập dữ liệu bảng cho các tổ chức tài
3

chính vi mô ở 57 quốc gia. Bài luận văn này, dựa trên những nghiên cứu của hai tác
giả trên, xem xét mối quan hệ giữa hiệu quả công ty và quản trị doanh nghiệp trong
các tổ chức tài chính vi mô được điều tra ở Việt Nam.
Trong năm 2005, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức nhiều chương trình nghị sự về tài
chính vi mô. Thêm vào đó, giải Nobel Hòa Bình cho Mohammed Yunus và Ngân
hàng Grameen trong năm 2006, đã chứng tỏ thế giới ngày càng quan tâm đến hoạt
động và lợi ích mang lại của tài chính vi mô. Báo cáo của Christen và các cộng sự
(2004) cho thấy con số đáng kinh ngạc 500 triệu lượt vay, chủ yếu là với các tài
khoản tiết kiệm. Trong khi đó, Hội nghị Thượng đỉnh Tín dụng vi mô trong các
cuộc họp năm 2006 tại Halifax kỷ niệm cột mốc 100 triệu người vay. Tuy nhiên,
lĩnh vực tài chính vi mô vẫn chỉ đạt một phần nhỏ của người nghèo trên thế giới
(Robinson, 2001; Christen và cộng sự, 2004). Do đó, việc cung cấp các sản phẩm và
dịch vụ của lĩnh vực tài chính vi mô vẫn còn nhiều thách thức (Helms, 2006;
CGAP, 2004, 2006).
Chúng ta thấy rằng có một sự khác biệt trong quản trị giữa các công ty trong lĩnh
vực ngân hàng và các công ty sản xuất. Trong đó, mối quan hệ giữa chủ sở hữu và
người quản lý gần như tìm thấy trong tất cả các công ty. Tuy nhiên, mối quan hệ
giữa công ty và khách hàng trong ngành ngân hàng thì quan trọng hơn trong ngành
sản xuất. Đặc biệt, trong các tổ chức tài chính vi mô, điều này càng trở cần thiết, bởi
vì các tổ chức này không chỉ quan tâm đến quá trình hoàn trả vốn vay của các khách
hàng, mà còn đến đời sống cá nhân của họ.
 Mục tiêu nghiên cứu

Bài luận văn này xem xét đặc điểm hội đồng quản trị tác động đến hiệu quả của các
tổ chức tài chính vi mô được điều tra ở Việt Nam. Các đặc điểm này bao gồm: việc
phân quyền giám đốc điều hành/thành viên hội đồng quản trị, giám đốc điều hành là
nữ, hình thức sở hữu doanh nghiệp tác động đến hiệu quả trên hai khía cạnh của các
tổ chức tài chính vi mô. Bên cạnh đó, bài luận văn cũng xem xét các nhân tố tác
4

động đến hiệu quả tài chính và tiếp cận cộng đồng trên phương diện lý thuyết và
thực nghiệm. Trong đó nổi bật lên các nhân tố như: phương pháp cho vay (cho vay
theo cá nhân hay theo nhóm), thị trường tiếp cận (thành thị hay nông thôn), khuôn
khổ pháp lý và số lượng nhân viên trong một tổ chức tài chính vi mô ảnh hưởng như
thế nào đến việc đo lường hiệu quả của các tổ chức tài chính vi mô.
 Câu hỏi nghiên cứu
Bài luận văn đi vào lý giải hai câu hỏi quan trọng trong lĩnh vực tài chính vi mô mà
còn có nhiều tranh luận trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng là:
Câu hỏi thứ nhất: Các nhân tố nào tác động đến hiệu quả của các tổ chức tài chính
vi mô được điều tra tại Việt Nam?
Câu hỏi thứ hai: Quản trị doanh nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính và tiếp
cận cộng đồng của các tổ chức tài chính vi mô được điều tra ở Việt Nam như thế
nào?
 Bố cục luận văn
Bố cục bài luận văn gồm 5 phần. Phần 1 nêu lên tổng quan về tài chính vi mô, cũng
như lịch sử hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính vi mô trên thế giới và
Việt Nam. Phần 2 xem xét một số nghiên cứu có liên quan và phát triển giả thuyết.
Sau đó, phần 3 đưa ra cách thu thập dữ liệu và những thống kê mô tả. Phần 4 trình
bày các kết quả chính của bài luận văn cũng như các kiểm định thống kê, và cuối
cùng kết luận ở phần 5.

5


1. Tổng quan về tổ chức tài chính vi mô
1.1. Tài chính vi mô là gì?
Tài chính vi mô – theo nghị định 165/2007/NĐ - CP – được định nghĩa là khoản
cho vay có giá trị nhỏ, có hoặc không có tài sản bảo đảm đối với các hộ gia đình, cá
nhân có thu nhập thấp để sử dụng vào các hoạt động tạo thu nhập và cải thiện điều
kiện sống.
Như vậy, định nghĩa tài chính vi mô thường bao gồm 2 yếu tố: trung gian tài chính
và trung gian xã hội. Tài chính vi mô không đơn giản chỉ là công cụ ngân hàng, nó
còn là một công cụ phát triển.
Tài chính vi mô thường đề cập đến:
 Các khoản vay nhỏ, đặc biệt là các khoản vay để làm vốn luân chuyển.
 Thẩm định phi chính thức về người vay và các hoạt động đầu tư của họ.
 Các hình thức ký quỹ thay thế tài sản thế chấp như bảo lãnh nhóm và tiết
kiệm bắt buộc.
 Vay nhiều lần và số tiền vay lớn dần dựa trên quá trình hoàn trả vốn vay, giải
ngân nhanh gọn và có sự giám sát.
 Các sản phẩm tiết kiệm an toàn và tạo sự tin tưởng cho người gửi tiền.
Theo điều 4 khoản 5 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 quy định:
“Tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số
hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu
nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.”
Các tổ chức tài chính vi mô là các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân
hàng, với chức năng chủ yếu là sử dụng vốn tự có, vốn vay và nhận tiết kiệm để cung
cấp một số dịch vụ tài chính - ngân hàng nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình và cá nhân có
6

thu nhập thấp. Sự phát triển của các tổ chức tổ chức tài chính vi mô thường được đánh
giá qua hai nhóm chỉ tiêu chính: mức độ tiếp cận cộng đồng và tính bền vững của tổ
chức.
 Mức độ tiếp cận cộng đồng là khả năng khách hàng có thể sử dụng dịch vụ có

chất lượng của các tổ chức tài chính vi mô, đặc biệt là đối với khách hàng nghèo
và dễ bị tổn thương (tiếp cận những người nghèo và nghèo nhất).
 Tính bền vững của các tổ chức tài chính vi mô là khả năng các tổ chức đó cung
ứng cho khách hàng các dịch vụ tài chính – ngân hàng một cách có lợi nhuận và
phát triển lâu dài. Tính bền vững của các tổ chức tài chính vi mô được đo bằng
các tỷ lệ tự bền vững và các hệ số sinh lời. Có ba mức độ bền vững là: tự bền
vững về hoạt động OSS (Operation Self – Sustainability), tự bền vững về tài
chính FSS (Financial Self – Sustainability) và tự bền vững về thể chế ISS
(Institutional Self – Sustainability). Và hai hệ số sinh lời là: ROA (Return on
Asset) và ROE (Return on Equity).
1.2. Đối tượng của các tổ chức tài chính vi mô
Đối tượng của ngành tài chính vi mô là người nghèo. Một đối tượng mà dưới góc
nhìn của khu vực tài chính chính thức, mà cụ thể là các ngân hàng thương mại là
nhóm người có đặc điểm sau:
 Đối tượng cho vay có rủi ro tín dụng rất cao (tỷ lệ vỡ nợ rất cao). Họ là
những người có thu nhập thấp, người nghèo, các nông dân không có tài sản
thế chấp, thậm chí không có đất sản xuất. Rồi họ được phác họa như những
người không có khả năng làm ăn, phát triển sản xuất, thậm chí có những
nhận thức ngược chiều hơn là những người lười biếng.
 Người nghèo là những người không có khả năng tiết kiệm và khả năng trả nợ
của họ rất hạn chế. Theo góc nhìn này, người nghèo là những người đáng
thương và cần những sự giúp đỡ mang tính chất từ thiện nhiều hơn. Việc cho
7

họ vay chỉ mang ý nghĩa phúc lợi và nhân đạo là chính, chứ không được coi
là đối tượng vay (khách hàng thực sự) một cách sòng phẳng.
 Đối tượng cho vay có chi phí cấp xét tín dụng rất cao. Với những quy trình
cấp xét tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại, các hợp đồng tín dụng
5 tỷ và 10 tỷ thì các thủ tục cấp xét là như nhau. Nhân viên ngân hàng có tâm
lý và xu hướng muốn cho vay những khoản vay lớn nhằm tăng hiệu quả kinh

tế theo quy mô, giảm thiểu chi phí thủ tục trên một đơn vị tiền cho vay. Điều
này làm cho khu vực này không mấy để tâm đến những khoản vay vi mô
(khoản vay nhỏ) cho các doanh nghiệp nông thôn quy mô nhỏ, các hộ gia
đình thu nhập thấp, người nghèo, các nông dân không có đất thế chấp. Chính
vì vậy, các đối tượng này không có cơ hội tiếp cận những dịch vụ tài chính
để họ phát triển sản xuất, tạo thu nhập, cải thiện cuộc sống gia đình. Rõ ràng
rằng, vấn đề như vậy sẽ làm trầm trọng thêm những khó khăn của người
nghèo, làm cho thực trạng nghèo đói khó có thể được cải thiện.
Với sự thành công của mô hình tài chính vi mô, mà điển hình là ngân hàng
Grameen đã thay đổi nhận thức về người nghèo một cách triệt để:
 Người nghèo có các kỹ năng mà chưa được tận dụng hết, họ hoàn toàn có
khả năng phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh. Từ đó, họ có thể gia tăng
cuộc sống gia đình khi được tiếp cận các nguồn vốn với một cơ chế cho vay
thích hợp và linh hoạt (thuộc về mô hình hoạt động của các tổ chức tài chính
vi mô). Họ coi trọng việc được tiếp cận tín dụng và họ chấp nhận cơ chế lãi
suất sòng phẳng như các đối tượng vay khác, thậm chí họ tự nguyện trả thêm
để được vay.
 Ý thức vươn lên thoát nghèo của họ là rất mãnh liệt, tiềm năng của họ nếu
như được khai thác và có cơ chế cung cấp dịch vụ tài chính thích hợp thì nhất
định họ sẽ thoát nghèo thành công và tiến đến cuộc sống trung bình và khá
giả trong tương lai.
 Với tỉ lệ thu hồi nợ gần 100% của ngân hàng Grameen và các tổ chức tài
chính vi mô khác trên thế giới, người nghèo không phải là những người hạn
8

chế về khả năng trả nợ. Mặt khác, nếu xem xét tỷ trọng tiết kiệm trên mức
thu nhập thì khả năng tiết kiệm của họ là rất phi thường và thậm chí cao hơn
rất nhiều so với một số đối tượng khác.
Rõ ràng là, không phù hợp nếu xem người nghèo là những người đáng thương và
cần những sự giúp đỡ mang tính chất từ thiện. Chúng ta cần xem họ như những

khách hàng thực sự, đối tượng vay bình đẳng về lãi suất.

9

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của tài chính vi mô
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính vi mô trên thế
giới
Cách đây 200 năm, quỹ tín dụng vi mô đầu tiên được Jonathan Swift lập ra tại
Ailen. Đầu tiên ông bỏ ra 500 bảng tiền túi để xoay vòng cho các chủ của hàng vay
trong lúc khó khăn với điều kiện là có hai người hàng xóm đứng ra bảo lãnh rằng:
ông ta là người tốt bụng, chăm chỉ và không nghiện ngập (Aidan Hollis, 1999). Mô
hình này sau đó phát triển thành quỹ Irish Loan fund, được nhân rộng và phát triển
rất mạnh tại Ailen trong thời kỳ này.
Trong thế kỷ 19, các nhóm tiết kiệm và tín dụng đã phát triển khắp các khu vực
nông thôn và các thành phố nghèo đói ở Châu Âu dưới các hình thức: ngân hàng
nhân dân (People’s Bank), liên hiệp tín dụng (Credit Unions), và hợp tác xã tín
dụng (Savings and Credit Cooperatives).
Friedrich Wilhelm Raiffeisen và cộng sự của ông đã phát triển hình thức liên hiệp
tín dụng. Họ đã thúc đẩy sự quan tâm đến việc hỗ trợ người dân ở khu vực nông
thôn thoát khỏi sự phụ thuộc vào người cho vay và tăng cường phúc lợi cho người
nghèo. Từ năm 1870, các liên hiệp tín dụng phát triển mạnh, mở rộng ra khỏi vùng
Rhine và các bang khác của nước Đức và phát triển nhanh chóng sang các nước
Châu Âu và Bắc Mỹ, cuối cùng được nhân rộng sang các nước đang phát triển. Tại
Indonesia ngân hàng Perkreditan Rakyat (BPR) được lập ra năm 1895. BPR trở
thành mạng lưới tài chính vi mô lớn nhất Indonesia với gần 9,000 thành viên.
Đầu những năm 1900, hàng loạt các ngân hàng tương tự BPR ra đời tại khu vực
nông thôn ở Châu Mỹ Latinh, với mục tiêu là hiện đại hóa nông thôn. Họ đưa ra các
tiêu chí như sau: phát triển thương mại khu vực nông thôn; tập trung các nguồn tiết
kiệm nhàn rỗi; gia tăng đầu tư thông qua tín dụng; và xóa bỏ các tập tục lạc hậu. Đa
số các ngân hàng cho ngời nghèo này thì không thuộc sở hữu của người nghèo như

10

ở Châu Âu mà được sở hữu bởi chính phủ hoặc tư nhân. Qua một thời gian hoạt
động thì các ngân hàng này càng không hiệu quả.
Giai đoạn những năm 1950 đến năm 1970, chính phủ và các nhà tài trợ quan tâm
đến việc hỗ trợ tín dụng cho các nông dân với mục tiêu tăng năng suất và thu nhập
cho họ. Các chương trình này cố gắng hỗ trợ cho người nghèo tiếp cận các khoản
vay bằng việc tài trợ lãi suất. Tuy nhiên, các chương trình tài trợ này hiếm khi thành
công. Các ngân hàng nông nghiệp bị tổn thất lớn về vốn do lãi suất thấp và khả
năng hoàn trả kém của người nghèo, nên nguồn vốn này nhiều khi không đến tay
người nghèo thực sự mà tập trung vào các đối tượng khá giả.
Trong khi đó, vào những năm 1970, tại Bangladesh, Brazil và một vài nước khác đã
thực hiện chương trình cho vay nhỏ đối với nhóm phụ nữ nghèo để đầu tư sản xuất
nhỏ. Cơ sở của mô hình này là sự đoàn kết trong nhóm, cả nhóm sẽ phải đứng ra
bảo đảm việc chi trả cho từng thành viên trong nhóm. Các chương trình cho vay
theo nhóm nhỏ này đặt trọng tâm vào tín dụng cho các hoạt động tạo thu nhập (đôi
khi bao gồm cả tiết kiệm bắt buộc) cho các đối tượng rất nghèo, thường là phụ nữ.
Các tổ chức tín dụng vi mô tiêu biểu trong giai đoạn này là: ACCION, SEWA
Bank, Grammeen Bank.
Trong suốt những năm 1980, chính sách bao cấp tín dụng nông nghiệp đã bộc lộ các
điểm yếu trong các chương trình tín dụng, đặc biệt là khả năng thu hồi nợ và chi phí
quản lý cao. Các ngân hàng nông nghiệp bị vỡ nợ, hướng tiếp cận tín dụng trực tiếp
bị thất bại, thay thế đó là phương pháp tiếp cận một cách hệ thống hơn và cách thức
giám sát phù hợp hơn.
Đến những năm 1990, khái niệm tài chính vi mô (microfinance) đã bắt đầu xuất
hiện và thay thế cho khái niệm tín dụng vi mô (microcredit). Hệ thống tài chính vi
mô phát triển mạnh mẽ tại nhiều quốc gia, nó không chỉ cung cấp các dịch vụ tín
dụng mà còn cung cấp các dịch vụ tài chính khác như: tiết kiệm, bảo hiểm và
11


chuyển tiền. Dưới đây là sơ đồ cung cấp các dịch vị tài chính – ngân hàng trên thế
giới.
Hình 1: Sơ đồ cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng

Các tổ chức tài chính vi mô ra đời với mục tiêu và sứ mệnh là cung cấp dịch vụ tài
chính cho hơn 4 tỷ người trên thế giới. Đây có thể xem là một thách thức lớn đối
với các tổ chức tài chính vi mô.

12

1.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính vi mô ở Việt
Nam
Các tổ chức tài chính – ngân hàng khác nhau hướng đến từng đối tượng khách hàng
mục tiêu khác nhau. Đặc biệt với sự ra đời của các tổ chức tài chính vi mô, có thể
đảm bảo gần như tất cả thành viên trong xã hội đều có thể tiếp cận với dịch vụ tài
chính – ngân hàng.
Chúng ta sẽ đi tìm hiểu một số tổ chức tài chính vi mô đang phục vụ cho người
nghèo ở Việt Nam.
 Ngân hàng chính sách xã hội (VBSP)
Đây là loại hình ngân hàng chuyên doanh ở Việt Nam, thành lập theo quyết định số
131/2002/QĐ-TTg ngày 4/10/2002 của Thủ Tướng Chính Phủ. Ngân hàng có nhiệm
vụ thực hiện chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách
khác trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ Người Nghèo được thành lập theo
Quyết định số 230/QĐ-NH5 ngày 1/9/1995 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam. Hoạt động của Ngân hàng không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước
bảo đảm khả năng thanh toán, tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%, không phải tham gia
bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.
 Quỹ trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm thành phố Hồ Chí Minh
(Quỹ trợ vốn CEP)
Quỹ trợ vốn CEP được thành lập bởi Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh

vào ngày 02/11/1991, theo mô hình Ngân hàng Grameen. Mục tiêu của quỹ trợ vốn
CEP nhằm giảm tình trạng nghèo của công nhân và người lao động, bằng việc giúp
họ tự tạo việc làm thông qua việc cung cấp các dịch vụ tài chính và phi tài chính.
Sứ mệnh của quỹ trợ vốn CEP là làm việc vì người nghèo và nghèo nhất, nhằm giúp
họ đạt được những cải thiện về an sinh lâu dài thông qua cung cấp các dịch vụ tài
chính và phi tài chính một cách thiết thực và hiệu quả. Quỹ trợ vốn CEP hoạt động
13

không vì lợi nhuận, kiên trì và nhất quán với tôn chỉ là phục vụ thành phần lao động
nghèo khó.
Về đối tượng phục vụ, quỹ trợ vốn CEP ưu tiên phục vụ người nghèo, tập trung vào
đối tượng nữ và cung cấp trực tiếp các dịch vụ tài chính và phi tài chính cho những
khách hàng sinh sống và làm việc tại các cộng đồng. Khách hàng của quỹ trợ vốn
CEP được chia làm 3 nhóm: nghèo nhất, nghèo và tương đối nghèo. Quỹ trợ vốn
CEP tập trung vào phục vụ người nghèo và những người dễ bị tổn thương, những
khách hàng tương đối nghèo có mức độ ưu tiên thấp hơn.
 Quỹ Tình Thương - Hội Liên hiệp Phụ nữ (TMY)
Tổ chức này được hình thành bắt đầu từ Dự án Quỹ Tình Thương (TYM) theo
quyết định số 11/QĐ và trình thủ tướng chính phủ cho cấp phép hoạt động thử
nghiệm trên địa bàn huyện Sóc Sơn ngoại thành Hà Nội vào ngày 7/1/1992. Ngày
20/2/1992, Chính phủ đã ban hành văn bản số 563/KTĐN cho phép Hội thực thi dự
án trên các vùng miền nghèo.
Sứ mệnh của TYM là hoạt động nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và cải thiện
địa vị cho phụ nữ nghèo, nghèo nhất và gia đình họ thông qua các dịch vụ tài chính
và phi tài chính phù hợp cho các nhóm phụ nữ ở cộng đồng. TYM tạo cơ hội cho
phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế và nâng cao vai trò của họ trong xã hội.
Với phương châm cam kết phục vụ người nghèo, TYM luôn nghiên cứu và thiết kế
các sản phẩm phù hợp với nhu cầu người nghèo về mục đích sử dụng và khả năng
hoàn trả của họ.
 Mạng lưới tổ chức tài chính vi mô M7

Ngày 05/07/2006, thành phố Điện Biên Phủ, Mạng lưới tài chính vi mô quốc gia -
nhóm M7 được thành lập, gồm 7 chương trình tài chính vi mô hợp thành mạng lưới
M7. Mạng lưới trải dài trên 52 xã thuộc địa bàn 7 huyện với 31,492 hội viên tham
gia, trong đó 7,289 người là dân tộc thiểu số. Vào tháng 12/2007, tổng doanh số cho
14

vay của M7 đạt 2,865,862 USD, giá trị bình quân mỗi khoản vay là 113 USD.
Thành viên của mạng lưới M7 gồm 7 tổ chức đang cung cấp dịch vụ tiết kiệm tín
dụng cho người nghèo. Mạng lưới M7 theo mô hình do ActionAid thiết kế và hỗ trợ
hoạt động từ năm 1993 tới năm 2003 và một tổ chức hỗ trợ kỹ thuật.
Sau đây, là một số thống kê các chỉ số của các tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam
có thể cho chúng ta thấy một cái nhìn tổng quan trong hoạt động tài chính vi mô ở
Việt Nam.

15

Hình 2: Các chỉ số thống kê về các tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động tại
Việt Nam

(Nguồn: Thông tin của Planet Rating tới tháng 12/2008: số liệu của Mix Market
dành cho các tài chính vi mô Việt Nam tới tháng 12/2008)
16

Qua hình trên, chúng ta có thể thấy được phần nào hoạt động của các tổ chức tài
chính vi mô ở Việt Nam. Và điều này sẽ được phân tích kỹ hơn ở phần sau khi đi
vào so sánh các số liệu thống kê của các tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam.
Chương tiếp theo, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các lý thuyết và các nghiên cứu
trước đây, để đo lường hiệu quả công ty và quản trị doanh nghiệp trong các tổ chức
tài chính vi mô trên thế giới.
2. Các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết về tài chính vi mô

2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm
Nếu như, việc đo lường hiệu quả tài chính trong các tổ chức tài chính vi mô có thể
đo lường như trong các tổ chức tài chính ngân hàng khác, thì hiệu quả xã hội được
các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Bài nghiên cứu của Schreiner (2002) đã đưa
ra sáu biến trong việc đo lường tiếp cận cộng đồng trong các tổ chức tài chính vi mô
là: Worth, Cost, Depth, Breadth, Length, Scope. Tác giả cũng đưa ra hai phương
pháp tiếp cận là: phương pháp tiếp cận chuẩn nghèo (poverty approach) và phương
pháp tiếp cận bền vững tài chính (self-sustainability approach) để đo lường hiệu quả
của các tổ chức tài chính vi mô. Trong đó, Worth (giá trị của phần vượt trội cho
khách hàng) được định nghĩa là việc sẵn sàng chi trả của các khách hàng; Cost (chi
phí tiếp cận khách hàng) là tổng chi phí giá cả và chi phí giao dịch; Depth (độ sâu
tiếp cận cộng đồng) là giá trị mà xã hội gắn với lợi ích ròng của một khách hàng
nhất định; Breadth (bề rộng của tiếp cận cộng đồng) là số lượng khách hàng; Length
(chiều dài của tiếp cận cộng đồng) là thời gian của việc cung cấp một sản phẩm hay
dịch vụ tài chính vi mô; Scope (phạm vi tiếp cận cộng đồng) là số lượng các loại
sản phẩm và dịch vụ mà các tổ chức tài chính vi mô cung cấp. Biến đầu tiên - biến
Worth - rất khó để đo lường giá trị phần vượt trội cho khách hàng. Lý do cho điều
này là: một phần vì, giá trị gia tăng của khách hàng phụ thuộc vào mức tăng chủ
quan mà một khách hàng nhận được từ hợp đồng tài chính vi mô; một phần vì,
17

chúng ta rất khó để biết những gì sẽ xảy ra, trong trường hợp khách hàng đó không
được phục vụ bởi các tổ chức tài chính vi mô.
Một nghiên cứu khác, Zeller và các cộng sự (2003) đã đưa ra chỉ số đo lường hiệu
quả xã hội (Social Performance Indicators Initiative – SPI), để phát triển một khung
lý thuyết nhằm xác định hiệu quả xã hội trong lĩnh vực tài chính vi mô. Các tác giả
đã phân biệt bốn khía cạnh chính của hiệu quả xã hội như sau:
 Thứ nhất, tiếp cận cộng đồng cho người nghèo và sự loại trừ. Các tổ chức tài
chính vi mô được thành lập để tiếp cận những người bị loại ra khỏi hệ thống
ngân hàng cổ điển. Lý do cho điều này bởi vì hiệu quả kinh tế theo qui mô,

nên các ngân hàng cổ điển không chú trọng vào các khoản vay nhỏ lẻ. Độ
sâu của tiếp cận cộng đồng trong các tổ chức tài chính vi mô được đo lường
dựa trên sự tập trung vào phục vụ những người nghèo và nghèo nhất.
 Thứ hai, sự phù hợp của các dịch vụ và sản phẩm cho khách hàng mục tiêu.
Các tổ chức tài chính vi mô phải thiết kế của các dịch vụ tài chính có thể phù
hợp với nhu cầu và những khó khăn của khách hàng. Chỉ số hoạt động xã hội
phân tích mức độ mà các tổ chức tài chính vi mô có thể đáp ứng những nhu
cầu này của khách hàng.
 Thứ ba, cải thiện đời sống của khách hàng và cộng đồng. Đối với các tổ chức
tài chính vi mô, sự tin tưởng của khách hàng có thể làm giảm chi phí giao
dịch và nâng cao tỉ lệ hoàn trả. Đối với các khách hàng, các dịch vụ của các
tổ chức tài chính vi mô giúp khách hàng gia tăng sự tự tin, hòa nhập tốt hơn
vào các hoạt động cộng đồng. Chỉ số hoạt động xã hội được đo lường bằng
mức độ minh bạch, sự nỗ lực của các tổ chức tài chính vi mô theo hướng
nâng cao đời sống của khách hàng.
 Thứ tư, trách nhiệm xã hội của các tổ chức tài chính vi mô. Trách nhiệm xã
hội đòi hỏi phải có một sự phù hợp của văn hóa doanh nghiệp với bối cảnh
văn hóa và kinh tế - xã hội của khách hàng. Các tổ chức tài chính vi mô chú
18

trọng xây dựng văn hóa tổ chức trên cơ sở tôn trọng, đồng cảm và chia sẻ đối
với khách hàng.
Tiếp đến, Hartarska (2005) đã xem xét mối quan hệ giữa cơ chế quản lý và hiệu quả
của các tổ chức tài chính vi mô ở các nước Đông Âu trong giai đoạn từ năm 1998
đến năm 2002. Trong đó, hiệu quả tài chính và tiếp cận cộng đồng là các biến phụ
thuộc, và cơ chế quản lý bao gồm các đặc điểm hội đồng quản trị và hình thức sở
hữu là các biến độc lập. Tác giả phát hiện ra rằng, trong một tổ chức tài chính vi mô
có một hội đồng quản trị tách biệt với người quản lý có ROA tốt hơn. Nhưng một tổ
chức tài chính vi mô với giám đốc là một thành viên trong hội đồng quản trị, cho
hiệu quả tài chính thấp hơn và tiếp cận cộng đồng cũng thấp hơn. Bên cạnh đó, sự

khác biệt giữa các loại hình sở hữu trong các tổ chức tài chính vi mô đối với hiệu
quả tài chính và tiếp cận cộng đồng là không đáng kể.
Trong khi đó, Luzzi và Weber (2006) đã cung cấp những hiểu biết mới và phương
pháp luận về chủ đề quan trọng trong việc đo lường hiệu quả của các tổ chức tài
chính vi mô. Theo đó, các tổ chức tài chính vi mô có hai khía cạnh trong đo lường
về sự hiệu quả là: hiệu quả tài chính và tiếp cận cộng đồng. Luzzi và Weber (2006)
còn sử dụng phân tích nhóm, để chia các tổ chức tài chính vi mô thành 4 nhóm:
nhóm đạt được cả hai hiệu quả tài chính và tiếp cận cộng đồng; nhóm chỉ đạt hiệu
quả tài chính nhưng tiếp cận cộng đồng thì không; nhóm đạt được tiếp cận cộng
đồng nhưng không đạt hiệu quả tài chính và nhóm không đạt được trên cả hai đo
lường.
Một nghiên cứu nữa của Cull và các cộng sự (2007) cũng xem xét hiệu quả tài
chính và tiếp cận cộng đồng của các tổ chức tài chính vi mô. Nhưng khác với các
nghiên cứu trước, các tác giả chú trọng vào phương pháp cho vay, kiểm soát vốn và
chi phí lao động cũng như các đặc điểm về thể chế của từng quốc gia, tác động đến
hiệu quả của các tổ chức tài chính vi mô. Cull và các cộng sự (2007) sử dụng dữ
liệu từ 124 tổ chức tài chính vi mô được xếp hạng đánh giá. Trong đó, bài nghiên
19

cứu này đã đưa ra một kết quả quan trọng, hiệu quả tài chính được cải thiện khi sử
dụng phương pháp cho vay theo cá nhân hơn là phương pháp cho vay theo nhóm.
Bài nghiên cứu của Nghiêm Hồng Sơn và các cộng sự (2010) phân tích hiệu quả
của chương trình tài chính vi mô ở miền bắc và miền trung Việt Nam sử dụng kỹ
thuật DEA. Bài nghiên cứu dùng phương pháp tiếp cận sản xuất (production
approach) để đo lường hiệu quả chương trình tài chính vi mô. Điểm hiệu quả của
chương trình là 76%. Để có thể so sánh, bài nghiên cứu cũng sử dụng kỹ thuật SFA
và PLP. Điểm hiệu quả trung bình ước tính lần lượt là 69% và 78%. Hệ số tương
quan của 3 cách tính này cũng được xác định là tương tự nhau.
Qua những nghiên cứu trên, chúng ta thấy được rằng có nhiều nhân tố để đo lường
hiệu quả tài chính và tiếp cận cộng đồng của các tổ chức tài chính vi mô. Và vấn đề,

thống nhất nhân tố nào là cần thiết và quan trọng trong việc đo lường này vẫn đang
còn nhiều tranh luận. Tương tự như vậy, việc xem xét hiệu quả công ty và quản trị
doanh nghiệp trong các tổ chức tài chính vi mô cần có nhiều những nghiên cứu
trong tương lai để có thể làm rõ được điều này. Chương tiếp theo, bài luận văn trình
bày những hiểu biết sâu hơn trong lĩnh vực tài chính vi mô.
2.2. Lý thuyết về tài chính vi mô
2.2.1. Thách thức của tài chính vi mô
Trước khi thảo luận về cơ chế quản lý, chúng ta cần phải xem xét tính chất đặc biệt
của các tổ chức tài chính vi mô. Như một nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng, các tổ
chức tài chính vi mô là đối tượng lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức từ các khách
hàng tín dụng. Thêm vào đó, Stiglitz và Weiss (1981) chỉ ra rằng lựa chọn bất lợi
phát sinh kể từ khi các tổ chức tài chính vi mô không có đủ thông tin để xác định rủi
ro tốt và xấu. Lý do là vì khách hàng của các tổ chức tài chính vi mô thường có một
lịch sử tín dụng ngắn hoặc là khách hàng lần đầu tiên, với ít hoặc không có tài sản

×