BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ KIM PHỤNG
TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN THU NHẬP TRỒNG LÚA Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
PHẠM THỊ KIM PHỤNG
TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN THU NHẬP TRỒNG LÚA Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 603114
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Đinh Công Khải
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử
dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu
biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh
tế thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 7 năm 2012
Tác giả luận văn
Phạm Thị Kim Phụng
ii
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này, tôi xin cảm ơn đến bậc sinh thành và gia đình luôn ủng hộ, khích
lệ tôi chuyên tâm học tập. Tôi rất biết ơn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright đã tạo
cơ hội và truyền dạy kiến thức kinh tế cho tôi vốn không phải là học viên thuộc khối ngành
Kinh tế theo học chương trình sau đại học này.
Tôi xin cảm ơn các cá nhân và tổ chức đã giúp đỡ tôi rất nhiệt trình trong quá trình thực
hiện luận văn này. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các cá nhân đã giúp
tôi rất lớn trong quá trình thực hiện luận văn:
Thầy Đinh Công Khải – Viện Trưởng Viện Chính sách công, Đại học Kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn và có những góp ý rất quan trọng
cho tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn.
Ông Nguyễn Châu Thoại – Khoa Kinh tế Tài nguyên, Đại học Tài nguyên và Môi
trường thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam đã khơi nguồn ý tưởng cho tôi thực
hiện luận văn này.
Ông Salvatore Virdis – Khoa Sinh thái thực vật học và Địa chất, Đại học Sassari,
Ý và Cô Lê Thị Hạnh – chuyên viên GIS của dự án IMOLA, Huế, Việt Nam đã
giúp tôi rất nhiều trong chuyên môn về GIS.
Ông Ronald Vargas Rojas – chuyên viên quản lý đất của FAO và các người bạn
của ông đã cung cấp tài liệu và dữ liệu số bản đồ phân loại đất thế giới.
Ông Richard Williams – Khoa Xã hội học, Đại học Notre Dame, Mỹ đã giúp tôi
rất lớn về mặt kỹ thuật tính toán tác động biên và dự báo đối với mô hình hồi quy
thông thường và hồi quy phân vị trong phần mềm xử lý và phân tích số liệu Stata.
Đồng hành cùng tôi, luôn có bạn bè và đồng nghiệp, các người đã động viên, chia sẻ và
giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian vừa qua.
Chân thành cảm ơn tất cả mọi người.
iii
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Có câu nói: “Nắng mưa là chuyện của trời, nhưng lúa gạo là chuyện đời đời phải lo”
Quả vậy, việc trồng lúa gạo vốn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan như khí hậu và
điều kiện tự nhiên của vùng. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay, quả thật
BĐKH là nỗi lo đặc biệt liên quan đến việc làm và thu nhập của nông dân Việt Nam chiếm
khoảng 80% dân số. Do vậy, nghiên cứu này áp dụng tiếp cận Ricardian để đánh giá mối quan
hệ chủ yếu giữa yếu tố khí hậu (nhiệt độ và lượng mưa) tác động đến thu nhập trồng lúa
(TNTL) của nông hộ Việt Nam. Sau đó, dự báo mức thiệt hại do BĐKH gây ra cho hộ trồng
lúa Việt Nam trong tương lai. GIS được xem là công cụ hỗ trợ lớn trong việc kết nối các bộ dữ
liệu đưa vào mô hình kinh tế lượng như dữ liệu VHLSS 2008, khí hậu, loại đất, độ cao.
Kết quả nghiên cứu 4279 hộ trồng lúa từ bộ dữ liệu VHLSS 2008 cho thấy yếu tố khí hậu có
tác động tuyến tính và phi tuyến tính đến TNTL. Nếu nhiệt độ tăng 1
o
C/tháng thì TNTL của hộ
trung bình giảm 425 nghìn đồng/ha/
o
C nhưng nếu lượng mưa tăng 1mm/tháng thì TNTL của
hộ tăng 3 nghìn đồng/ha/mm. Tuy nhiên, chỉ có tăng lượng mưa vào mùa khô mới có tác động
tích cực đối với TNTL. Giả định các yếu tố khác không đổi ngoại trừ yếu tố khí hậu là thay
đổi; rõ ràng, hộ trồng lúa Việt Nam sẽ chịu thiệt hại hơn bởi BĐKH khi nhiệt độ có xu hướng
tăng cả 2 mùa và lượng mưa tăng lên vào mùa mưa nhưng giảm vào mùa khô. Dự báo vào năm
2050 và 2100, mức độ thiệt hại của hộ trồng lúa dao động trung bình từ 15 nghìn đồng/ha đến
1,6 triệu đồng/ha hay dao động từ 0,1% đến 14% so với thu nhập hộ trồng lúa vào năm 2008.
Trong đó, hai vùng ảnh hưởng nhất đối với BĐKH là vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Nam
Bộ. Ngoài ra, khu vực Trung Du và miền núi phía Bắc có thể trở thành vùng cứu cánh cho nền
nông nghiệp lúa gạo nếu Nhà nước chuyển hướng phát triển cho vùng này ở mức cao hơn.
TNTL còn phản ánh ở loại đất trồng, đặc điểm kinh tế và hành vi của hộ. Hầu hết, các loại đất
trồng lúa hiện nay có tác động tích cực đến TNTL, do đó Luật bảo vệ đất trồng lúa trở nên khả
thi trong mọi tình huống. Hộ chủ động tưới tiêu, hộ bán lẻ cho tiêu dùng và bán sỉ cho tư
thương, hộ sống trong xã có trạm khuyến nông có tác động tích cực rất lớn đến TNTL. Bên
cạnh, cần cân nhắc vấn đề hỗ trợ tín dụng cho nông hộ, quan tâm TNTL nhóm hộ dân tộc thiểu
số, nghiên cứu lại số vụ trong năm để vừa đạt hiệu quả kinh tế và đảm bảo tính mặt nông học
bởi vì đây là các yếu tố tác động tiêu cực đến TNTL. Đề tài hạn chế về dữ liệu khí hậu dài hạn
và thiếu một vài dữ liệu để phân tích sâu hơn cho ngành trồng lúa Việt Nam. Việc định vị vị trí
trồng lúa có thể nằm ngoài phạm vi bao phủ của trạm khí tượng và lệch lạc về mặt không gian,
đều có thể ảnh hưởng kết quả của đề tài.
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
TÓM TẮT ĐỀ TÀI iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC CÁC HÌNH viii
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC ix
Chương 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1
1.1 Bối cảnh và vấn đề nghiên cứu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3
1.3 Câu hỏi nghiên cứu 4
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
1.5 Phương pháp nghiên cứu 4
1.6 Bố cục bài nghiên cứu 4
Chương 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT 5
2.1 Tiếp cận Ricardian về đánh giá tác động biến đổi khí hậu 5
2.1.1 Vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh trong sử dụng đất nông nghiệp 5
2.1.2 Mô hình Ricardian 6
2.2 Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước 8
2.2.1 Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng đến thu nhập ròng 8
2.2.2 Các nhóm đất ảnh hưởng đến thu nhập ròng 11
2.2.3 Các đặc điểm kinh tế hộ ảnh hưởng đến thu nhập ròng 12
Chương 3:
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP TRỒNG LÚA Ở
VIỆT
NAM VÀ MÔ HÌNH ƯỚC LƯỢNG 14
3.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập trồng lúa ở Việt Nam 14
3.1.1 Các yếu tố về khí hậu 14
3.1.2 Các yếu tố về loại đất 16
3.1.3 Các yếu tố liên quan đặc điểm kinh tế - xã hội của hộ 17
3.2 Mô hình ước lượng, chiến lược ước lượng và dữ liệu nghiên cứu 19
3.2.1 Mô hình ước lượng 19
3.2.2 Chiến lược ước lượng mô hình 20
3.2.3 Dữ liệu nghiên cứu 20
v
Chương 4:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 22
4.1 Thống kê mô tả 22
4.2 Ma trận tương quan 23
4.3 Kết quả hồi quy các mô hình 23
4.3.1 Các biến khí hậu tác động đến thu nhập trồng lúa 25
4.3.2 Các nhóm đất tác động đến thu nhập trồng lúa 25
4.3.3 Các biến đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến thu nhập trồng lúa 26
4.4 Tác động biên của các biến khí hậu tác động đến thu nhập trồng lúa 27
4.5 Dự báo ảnh hưởng biến đổi khí hậu đến thu nhập trồng lúa 29
Chương 5:
KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 32
5.1 Kết luận chính của đề tài 32
5.2 Gợi ý chính sách 33
5.2.1 Giảm thiểu BĐKH 33
5.2.2 Thích ứng với BĐKH 34
5.3 Đóng góp của nghiên cứu 37
5.4 Hạn chế của nghiên cứu 38
5.5 Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
PHỤ LỤC 44
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
ANLT : An ninh lương thực
BĐKH : Biến đổi khí hậu
FAO Food and Agriculture Organization
of the United Nations
: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên
Hiệp Quốc
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
GIS Geographic Information System : Hệ thống thông tin địa lý
GSO General Statistics Office : Tổng cục Thống kê
IMHEN Institute Of Meteorology,
Hydrology and Environment
: Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi
trường
MARD Ministry of Agriculture and Rural
Development
: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
MONRE Ministry of Natural Resources and
Environment
: Bộ Tài nguyên và Môi trường
TNR : Thu nhập ròng
TNTL : Thu nhập ròng từ trồng lúa
UBND : Ủy ban nhân dân
VHLSS Vietnam Household Living
Standard Survey
: Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam
WB World Bank : Ngân hàng thế giới
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1 Thời gian của các mùa theo phân vùng khí hậu 15
Bảng 3.2 Số lượng mẫu nghiên cứu theo các nhóm đất 16
Bảng 3.3 Các biến giải thích sử dụng trong mô hình 19
Bảng 4.1 Kết quả hồi quy của mô hình hiệu chỉnh 24
Bảng 4.2 Kết quả phân tích tác động biên của mô hình hiệu chỉnh 27
Bảng 4.3 Mức biến đổi TNTL theo các khả năng của kịch bản BĐKH 29
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1 Giá trị của đất đối với sự thay đổi nhiệt độ 7
Hình 3.1 Tổng lượng mưa tháng theo mùa của các vùng khí hậu 16
Hình 3.2 Nhiệt độ trung bình tháng theo mùa của các vùng khí hậu 16
Hình 3.3 Các yếu tố ảnh hưởng TNTL 18
Hình 4.1 Tác động biên của nhiệt độ và lượng mưa đến TNTL theo vùng khí hậu 28
Hình 4.2 Dự báo mức độ thiệt hại của hộ TNTL do BĐKH theo vùng khí hậu 30
ix
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1 Tình hình sản xuất cây lúa ở Việt Nam, giai đoạn 1990 – 2010 44
Phụ lục 2 Nhiệt độ trung bình giai đoạn 2001 – 2010 45
Phụ lục 3 Tổng lượng mưa giai đoạn 2001 – 2010 45
Phụ lục 4 Các mốc nhiệt độ đối với các giai đoan sinh trưởng và phát triển cây lúa 46
Phụ lục 5 Bản đồ phân bố điểm trồng lúa và các nhóm đất 47
Phụ lục 6 Các mùa vụ trồng lúa của các vùng trong năm 48
Phụ lục 7 Kịch bản phát thải trung bình B2 49
Phụ lục 8 Các bước xây dựng mẫu nghiên cứu cho đề tài 50
Phụ lục 9 Bản đồ chọn điểm nghiên cứu theo vùng khí hậu 53
Phụ lục 10 Bảng thống kê mô tả các biến trong mô hình hồi quy 54
Phụ lục 11 Bảng ma trận tương quan giữa các biến hồi quy 55
Phụ lục 12 Bảng kết quả hồi quy mô hình ước lượng 56
Phụ lục 13 Bảng kết quả hồi quy mô hình hiệu chỉnh 56
Phụ lục 14 Xu hướng tác động của các yếu tố khí hậu đến TNTL 57
Phụ lục 15 Dự báo TNTL của hộ theo các khả năng của kịch bản BĐKH 58
Phụ lục 16 Bản đồ dự báo tác động BĐKH vào năm 2100 đến TNTL của hộ 59
1
Chương 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1 Bối cảnh và vấn đề nghiên cứu
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự thay đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc
dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc
dài hơn (IMHEN, 2011). BĐKH có thể là do các quá trình tự nhiên lâu dài hoặc do hoạt
động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng
đất. Tuy nhiên, trong vòng 150 năm qua sự thay đổi về khí hậu phổ biến rộng trên các
vùng trên toàn thế giới, nguyên nhân là do hoạt động của con người. Biểu hiện của BĐKH
là sự nóng lên toàn cầu, mực nước biển dâng, các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, áp
thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, lốc xoáy, xâm nhập mặn xảy ra với tần suất bất thường, khó
lường trước được (WB, 2010).
BĐKH đe dọa đến mọi nơi trên thế giới; 5/6 dân số thế giới mà phần lớn các nước đang
phát triển sẽ dễ bị tổn thương nhiều hơn mặc dù 2/3 lượng khí thải nhà kính có trong khí
quyển có nguyên nhân chính gây ra BĐKH chủ yếu do các nước phát triển (WB, 2010).
Hai vùng sẽ phải chịu sự tác động tiêu cực rộng lớn của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp
là Châu Á và Châu Phi. Ở Châu Á, sản xuất lúa gạo có thể sẽ giảm 4% trong thế kỷ này. Ở
Ấn Độ, nếu nhiệt độ không khí tăng lên 2
o
C, năng suất lúa sẽ giảm 0,75 tấn/ha. Ở Trung
Quốc năng suất lúa nước trời sẽ giảm từ 5 đến 12% vào cuối thế kỷ này. Ở Việt Nam, tuy
chưa có nhiều số liệu khoa học như những nước khác nhưng có lẽ sẽ không khác biệt nhiều
so với Ấn Độ và Trung Quốc (Dương Văn Chín, 2011).
Việt Nam có diện tích đất khoảng 33 triệu ha với trên 9 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp
nhưng trong số đó trên 4,1 triệu ha đất sử dụng cho trồng lúa
.
Việc sản xuất lúa trong 20
năm gần đây mang đến nhiều thành quả cho kinh tế đất nước nhưng đi kèm theo các nỗi lo.
Phụ lục 1 cho thấy tốc độ tăng của sản lượng sản xuất lúa và năng suất trung bình mỗi năm
trong giai đoạn 2001 – 2010 lần lượt là 2,3%, 2,1% giảm đi so với giai đoạn 1991 – 2000
với tốc độ tăng lần lượt là 2,9% và 5,4%. Riêng về diện tích gieo trồng, giai đoạn 10 năm
trước đó tăng 2,4% nhưng 10 năm gần đây giảm trung bình 0,2%. Sự suy giảm diện tích
trồng lúa là do một phần diện tích đất sử dụng trong nông nghiệp chuyển sang phục vụ
công nghiệp, công trình xây dựng, đô thị hóa. Về mặt lâu dài, điều này sẽ ảnh hưởng đến
2
khả năng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam. Hơn thế, nước ta nằm trong vùng
khí hậu nhiệt đới, một vấn đề cũng không kém phần quan trọng tác động đến khả năng sản
xuất lúa gạo là BĐKH. WB (2010) đưa ra lời cảnh báo “những loài cây trồng, vật nuôi
nhiệt đới hiện tại sẽ giảm năng suất ngay khi nhiệt độ gia tăng; hiện nay chúng đã trồng
trọt trong điều kiện gần đến giới hạn trên của sự chống chịu nhiệt độ cao”. Theo các kịch
bản BĐKH, xu hướng nhiệt độ ở nước ta đang tăng dần lên và thay đổi lượng mưa không
mong đợi giữa các mùa sẽ gây bất lợi đến năng suất lúa và ảnh hưởng sinh kế của người
trồng lúa. Do vậy, chúng ta cần đo lường tác động kinh tế của BĐKH đến nông hộ trồng
lúa ở Việt Nam và qua đó tìm ra giải pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại cho nông hộ trồng lúa
do BĐKH gây ra.
Qua nghiên cứu nông học, chúng ta có thể đo lường tác động BĐKH và dự báo sản lượng
ngành nông nghiệp theo điều kiện thay đổi của môi trường, tuy nhiên nó trở nên tốn kém
và khó khăn cho phần lớn các nước đang phát triển (Kurukulasuriya và Rosenthal, 2003).
Ngoài ra, một phương pháp khác có thể dự báo sản lượng tiềm năng của loại cây trồng
dưới tác động BĐKH là mô hình mô phỏng. Yu và đ.t.g (2010) ước tính sản lượng lúa Việt
Nam sẽ giảm đi 4,3% vào năm 2030 và 7,5% vào năm 2050 dựa theo kịch bản BĐKH của
MONRE. Tiếp cận của họ đầu tiên dựa theo mô hình WOFOST
1
và sau đó định lượng sản
lượng lúa với các yếu tố đặc điểm kinh tế - xã hội bằng cách sử dụng hàm sản xuất Cobb-
Douglas. Nếu bước làm đầu tiên dành cho các nhà nông học thì bước thứ 2 đặc biệt quan
trọng cho các nhà làm chính sách nhằm tìm ra giải pháp cải thiện sản lượng lúa trong
tương lai. Do đó, phương pháp nghiên cứu này là dựa theo 2 bước (two-pronged approach)
để kết nối điều kiện biến động môi trường và đặc điểm kinh tế - xã hội nhằm đo lường sự
biến đổi sản lượng lúa. Tuy nhiên, những mô hình thế này có xu hướng ước tính quá mức
và chưa tính tới khả năng thích ứng của nông hộ (Kurukulasuriya và Rosenthal, 2003).
Mô hình Ricardian lấy nền tảng giá trị đất đai phản ánh qua năng suất cây trồng và đất đai
nhạy cảm với khí hậu. Nếu điều kiện khí hậu vùng A trong tương lai có khả năng giống
điều kiện khí hậu vùng B hiện nay thì nông hộ ở vùng A trong tương lai sẽ thích ứng và
thực hành giống như nông hộ ở vùng B (Mendelsohn và đ.t.g, 2004). Nhiều nghiên cứu
1
WOFOST viết tắt từ chữ World Food Sutdies (nghiên cứu thực phẩm thế giới) là mô hình mô phỏng sự phát
triển của cây trồng hàng năm. Mô hình có thể phân tích sản xuất và sản lượng dự báo ở quy mô khu vực,
quốc gia và lục địa bằng cách lập trình các thông số môi trường như loại đất, chế độ nước, các loại thời tiết
đại diện cho khu vực nghiên cứu.
3
thực nghiệm đã dự báo sự ấm lên trái đất sẽ làm giảm TNR trong sản xuất nông nghiệp.
Điển hình là các nghiên cứu như Maddison và đ.t.g (2007) ở 11 nước Châu Phi, Seo và
Mendelsohn (2007) ở 7 nước Châu Mỹ La-tinh, Benhin (2008) ở Nam Phi, cho thấy nông
nghiệp đặc biệt bị tổn thương đối với BĐKH. Ở Trung Quốc, nghiên cứu của Wang và
đ.t.g (2008) cho thấy sự nóng lên của khí hậu toàn cầu dù có chỉ chút thiệt hại nhưng
không hẳn là vấn đề quan ngại đến khả năng tự cung lương thực cho người dân nước họ. Ở
Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Châu Thoại (2011) xác định ảnh
hưởng BĐKH tác động lên ngành trồng trọt có thể làm giảm 0,6 – 1,3% tổng sản phẩm
quốc nội vào cuối thế kỷ 21.
Trong đề tài này, tác giả cũng dựa theo tiếp cận mô hình Ricardian nhưng khác với nghiên
cứu của Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Châu Thoại (2011): đề tài nghiên cứu cho lúa gạo
thay vì cho trồng trọt nói chung. Hơn nữa, đề tài đưa thêm các yếu tố về loại đất, bổ sung
thêm một vài đặc điểm kinh tế của hộ gắn liền hoạt động nông nghiệp nói chung như tiếp
cận tín dụng, khuyến nông và nói riêng cho lúa gạo như bàn về số vụ, đầu ra cho lúa gạo.
Ngoài ra, đề tài sử dụng phương pháp hồi quy phân vị nhằm hạn chế các vấn đề mà hồi
quy bình phương tối thiểu thông thường (OLS) gặp phải đối với dữ liệu chéo. Cuối cùng,
tác giả cũng dựa theo kịch bản BĐKH của MONRE nhưng đưa ra các khả năng về tác
động của nhiệt độ và lượng mưa ở các mùa cùng xảy ra hoặc chỉ một yếu tố xảy ra ở một
mùa nào đó bởi vì như chúng ta biết là yếu tố khí hậu khó lường trước được, dường như
nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá tác động của BĐKH đến TNTL ở Việt Nam
trong tương lai. Từ kết quả nghiên cứu, đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm giảm thiểu sự
thiệt hại của hộ trồng lúa dưới tác động của BĐKH.
Mục tiêu nghiên cứu này đồng thời gắn liền với hai trong tám nhiệm vụ mà Chương trình
mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH năm 2008 đặt ra cho các ngành dự báo tác động
BĐKH. Riêng đối với ngành lúa gạo, lúa gạo gắn liền với đảm bảo ANLT quốc gia, Chính
sách hỗ trợ người sản xuất lúa vừa mới cụ thể hóa trong Nghị Quyết số 42 ban hành ngày
11/5/2012. Do đó, các kết quả phát hiện trong đề tài, tác giả hy vọng góp phần đề xuất
thêm vào các chính sách nhằm cải thiện TNTL cho nông dân chúng ta.
4
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Với các mục tiêu trên, đề tài đặt ra câu hỏi nghiên cứu như sau:
- Tác động của khí hậu thông thường hiện nay đến thu nhập của hộ trồng lúa là như
thế nào?
- Dự báo mức độ thiệt hại đối với hộ trồng lúa bị ảnh hưởng bởi BĐKH dựa theo
kịch bản BĐKH là bao nhiêu?
- Giải pháp nào nhằm giảm thiểu mức độ thiệt hại đối với hộ trồng lúa?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tác động BĐKH lên TNTL trên một hecta đất canh tác.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung vào đánh giá về khía cạnh kinh tế do ảnh hưởng
BĐKH lên hộ trồng lúa Việt Nam.
Đơn vị nghiên cứu: ở cấp hộ trồng lúa tại các tỉnh thành cả nước từ bộ dữ liệu VHLSS
2008 được gọi là mẫu nghiên cứu.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp định lượng hồi quy phân vị thông qua tiếp cận Ricardian để
đánh giá tác động kinh tế của BĐKH đến TNTL. Nhằm định lượng tác động này, GIS được
xem như công cụ hỗ trợ kỹ thuật rất lớn trong việc gắn kết các dữ liệu không gian vào mẫu
nghiên cứu ở cấp hộ. Chi tiết về cách thức thực hiện nghiên cứu được đề cập tiếp theo
trong Chương 3 và phần Phụ lục.
1.6 Bố cục bài nghiên cứu
Đề tài được chia làm 5 chương. Chương 1 trình bày bối cảnh, vấn đề và câu hỏi nghiên
cứu. Chương 2 đề cập đến lý thuyết nền tảng cho tiếp cận mô hình Ricardian nhằm đánh
giá kinh tế của BĐKH tác động lên nông nghiệp nói chung (lý thuyết này cho rằng giá trị
đất đai phản ánh qua năng suất nông nghiệp). Chương 3 trình bày các yếu tố ảnh hưởng
đến TNTL ở Việt Nam, mô hình ước lượng, chiến lược ước lượng và nguồn dữ liệu.
Chương 4 chủ yếu tiến hành phân tích, giải thích những kết quả nghiên cứu. Chương 5
tóm lược những kết quả chính của luận văn. Qua đó, đưa ra những gợi ý chính sách nhằm
ứng phó với BĐKH. Cuối cùng, đề tài đề cập một số hạn chế trong nghiên cứu này và đề
xuất ra hướng nghiên cứu trong tương lai.
5
Chương 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 Tiếp cận Ricardian về đánh giá tác động biến đổi khí hậu
2.1.1 Vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh trong sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại của mọi hoạt động, là cơ sở không gian
lưu trữ, cư trú của chúng ta. Trong nông nghiệp, đất có chức năng đặc biệt cung cấp cho
cây trồng: nước, không khí và các chất dinh dưỡng cần thiết để cây trồng sinh trưởng và
phát triển. Dân ta có câu “người sinh nhưng đất không sinh” - đất còn có đặc tính là cố
định và không thể di chuyển trong khi vốn và lao động có thể di chuyển. Do vậy, đất có
tính bền vững, là công cụ sản xuất không thể thay thế trong nông nghiệp. Ở các vùng khác
nhau thì lợi thế từ đất đem lại sẽ khác nhau do năng suất và chất lượng của nông sản phụ
thuộc rất nhiều vào chất lượng của đất. Đất thường gắn với một giá trị kinh tế được thể
hiện bằng giá tiền trên một đơn vị diện tích đất (Đỗ Thị Lan và Đỗ Anh Tài, 2007).
David Ricardo (1772-1823), cha đẻ của trường phái kinh tế cổ điển, đã đề cập tới khái
niệm về “đặc lợi kinh tế đất”. Đặc lợi kinh tế đất có thể hiểu giá trị chênh lệch về mặt năng
suất được tạo ra giữa một mảnh đất này với một mảnh đất kém sinh lợi nhất đối với cùng
một đối tượng sử dụng (ví dụ đất trồng lúa) với cùng yếu tố đầu vào như nhau là lao động,
vốn, phương thức canh tác …. Năng suất được hiểu là khả năng sinh lợi từ đất trong việc
tối đa hóa sử dụng lao động và vốn sẵn có hiện tại. Một trong các chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp được thể hiện qua phương trình sau:
VA = GO – IE (2.1)
trong đó:
VA là giá trị tăng thêm hay giá trị sản phẩm mới tạo ra trong quá trình sản xuất
trên 1 hecta (ha) đất
GO là giá trị sản xuất được tính bằng sản lượng sản phẩm trên một ha đất sản
xuất ra nó nhân với giá bán sản phẩm
IE là chi phí trực tiếp trên 1 ha đất bao gồm: giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật, nước và các dịch vụ sản xuất khác như vận tải, thuê đất, dịch vụ khuyến
nông, lãi vay ngân hàng, thuê lao động ngoài v.v
6
Tiếp cận Ricardian lấy nền tảng rằng giá trị đất đai phản ánh qua năng suất nông nghiệp.
Với giả định rằng đất nhạy cảm với khí hậu, tiếp cận này đo lường khả năng thay đổi giá trị
đất khi các yếu tố môi trường thay đổi thông qua thay đổi giá trị TNR hiện tại
(Reinsborough, 2003). Nếu năng suất của một loại cây trồng cho thấy khả năng sinh lợi tối
ưu từ đất thì “đặc lợi kinh tế đất” sẽ tương đương TNR/ha đất.
2.1.2 Mô hình Ricardian
Nhiều nghiên cứu trước sử dụng khung phân tích Ricardian thường được trình bày theo
Mendelsohn và Dinar (2004) như sau:
ܸܣ =
ܲ
ா
݁
ିఋ௧
݀ݐ =
ሾ∑
ܲ
ܳ
ሺ
ܺ,ܨ,ܼ,ܩ
ሻ
−
∑
ܴܺ
ሿ
݁
ିఋ௧
݀ݐ (2.2)
Mô hình Ricardian cơ bản được rút gọn còn lại các biến F, Z và G dưới dạng phương trình
như sau:
Các yếu tố khí hậu được đánh giá là trung bình tháng theo mùa hơn là theo năm. Theo mô
hình này, yếu tố khí hậu có tác động phi tuyến tính đối với TNR, ví dụ cho trường hợp
nhiệt độ như thể hiện Hình 2.1. Khi nhiệt độ tăng năng suất cây trồng tăng lên ሺ
డொ
డி
> 0ሻ.
trong đó:
VA là giá trị tăng thêm hay giá trị sinh lợi từ đất trồng trọt/ha
P
LE
là thu nhập ròng/ha
P
i
là giá trị thị trường của mùa vụ
Q
i
là sản lượng sản xuất
F là các biến khí hậu
Z là các biến về loại đất
G là các biến thị trường như chi phí tiếp cận thị trường và chi phí vốn
X là chi phí các yếu tố đầu vào (không tính giá trị đất)
R là chi phí giá cả đầu vào
t là thời gian theo năm
δ là suất chiết khấu trung bình năm
VA = P
LE
= b
0
+ b
1
F + b
2
F
2
+ b
3
Z + b
4
G + u (2.3)
trong đó: b
0
, b
1
, b
2
, b
3
, b
4
là các hệ số hồi quy của mô hình
u: phần dư của mô hình
7
Nhiệt độ ở ngưỡng tối ưu T
1
, năng suất đạt tới giá trị tối ưu
డொ
డி
= 0. Tuy nhiên nếu nhiệt độ
vượt quá ngưỡng này thì năng suất cây trồng giảm và có thể dẫn đến TNR giảm ሺ
డொ
డி
< 0ሻ.
Hình 2.1 Giá trị của đất đối với sự thay đổi nhiệt độ
Nguồn: Amiraslany (2010)
Nhằm đo lường sự thay đổi TNR khi giá trị của yếu tố khí hậu tăng lên 1 đơn vị, thì phân
tích tác động biên là vô cùng quan trọng trong mô hình này. Từ phương trình (2.3), công
thức tính tác động biên của một yếu tố khí hậu F (nhiệt độ hoặc lượng mưa) theo mùa i (ví
dụ mùa khô hoặc mùa mưa) sẽ được xác định như sau:
ቂ
ௗ
ಽಶ
ௗி
ቃ = b
ଵ୧
+ 2 b
ଶ୧
ሾ
F
୧
ሿ
(2.4)
trong đó: F
i
: trung bình số học của yếu tố khí hậu đó.
Trong một năm, tác động biên của một yếu tố khí hậu đối với TNR sẽ bằng tổng các tác
động biên của các mùa trong năm đó.
ቂ
ௗ
ಽಶ
ௗி
ቃ =
∑
ሺb
ଵ୧
+ 2 b
ଶ୧
ሾ
F
୧
ሿ
ሻ (2.5)
Để thực hiện công tác dự báo, chúng ta đo lường mức thay đổi TNR từ yếu tố khí hậu dự
báo F so với yếu tố khí hậu hiện tại F
0
, áp dụng theo công thức sau:
∆ܲ
ா
= ܲ
ா
ሺ
ܨ
ሻ
− ܲ
ா
ሺܨ
ሻ (2.6)
Nếu ∆ܲ
ா
> 0 thì BĐKH là có lợi cho TNR; ngược lại nếu ∆ܲ
ா
< 0 thì BĐKH gây thiệt
hại cho TNR.
߲
ܳ
߲ܨ
>
0
߲ܳ
߲ܨ
<
0
Năng suất/ha hay lợi nhuận
T
1
Thay đổi về môi trường (nhiệt độ)
8
2.2 Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước
Chúng ta thấy có rất nhiều nghiên cứu thế giới áp dụng tiếp cận Ricardian để đánh giá mối
quan hệ chủ yếu giữa khí hậu và TNR từ nông nghiệp. Bên cạnh, các nghiên cứu đồng thời
đề xuất ra các giải pháp nhằm đối phó BĐKH thông qua các biến kiểm soát như loại đất
đặc điểm kinh tế và hành vi của hộ có ảnh hưởng đến nông nghiệp.
2.2.1 Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng đến thu nhập ròng
Thời tiết là trạng thái khí quyển tại một địa điểm nhất định được xác định bằng tổ hợp các
yếu tố: nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, tốc độ gió, mưa… Khí hậu thường được định nghĩa là
trung bình theo thời gian của thời tiết, thường là 30 năm theo Tổ chức Khí tượng thế giới
(IMHEN, 2011). Dựa theo các nghiên cứu thực nghiệm trước, khí hậu thông thường hiện
nay là khí hậu với dữ liệu dài hạn, thường 30 năm gần đây.
Trong số các yếu tố thuộc về khí hậu, nhiệt độ và lượng mưa là 2 yếu tố được tìm thấy
trong nhiều nghiên cứu đánh giá mối quan hệ chủ yếu giữa khí hậu và TNR từ nông
nghiệp. Trong nghiên cứu sinh học, nhiệt độ liên quan khả năng quang hợp của cây trồng,
còn lượng mưa cung cấp nước, các yếu tố không thể thiếu trong nông nghiệp. Trong
nghiên cứu địa lý, chính sự biến đổi của nhiệt độ và lượng mưa của các tháng trong năm và
chu kỳ đó được lặp lại qua các năm để người ta phân mùa khí hậu. Do đó, nông dân tận
dụng mùa có lượng mưa thích hợp để bắt đầu vụ canh tác nông nghiệp. Lược khảo các
nghiên cứu trước cho thấy sự tác động của nhiệt độ và lượng mưa theo mùa đến năng suất
nông nghiệp hay TNR từ nông nghiệp thường gắn liền với phương thức tưới tiêu và quy
mô canh tác.
2.2.1.1 Nhiệt độ
Nghiên cứu của Seo và Mendelsohn (2007) ở các nước châu Mỹ La-tinh
2
cho thấy nhiệt độ
gây bất lợi cho trang trại quy mô nhỏ nhiều hơn (quy mô nhỏ có diện tích nhỏ hơn 30 ha).
Nhiệt độ vào mùa Hè gây tác động tiêu cực đến đất nước trời nhưng có tác động tích cực
đối với đất tưới tiêu trong khi sự tác động bị đảo ngược lại giữa các loại trang trại đối với
nhiệt độ vào mùa Đông.
2
Nghiên cứu này bao gồm 7 nước Argentina, Brazil, Chilê, Colombia, Ecuador, Uruguay, Venezuela bao
gồm các kiểu khí hậu điển hình như kiểu khí hậu nhiệt đới, kiểu khí hậu khô và khí hậu ôn đới
9
Nghiên cứu của Benhin (2008) ở Nam Phi - nước có khí hậu vừa ẩm và khô của sa mạc và
kiểu khí hậu ôn đới cho thấy nhiệt độ có tác động tích cực lên TNR cho hầu hết các loại
trang trại ngoại trừ trang trại đất khô. Tương tự như nghiên cứu của Seo và Mendelsohn
(2007), nhiệt độ mùa Hè có tác động xấu đối với trang trại đất khô, nhiệt độ mùa Đông,
mùa Xuân mới có lợi cho đất khô.
Nếu hai nghiên cứu trên thực hiện ở Nam bán cầu thì nghiên cứu của Wang và đ.t.g (2008)
ở Trung Quốc thuộc Bắc bán cầu với câu hỏi đặt ra liệu Trung Quốc vẫn có thể tự lo đủ
lương thực trước viễn cảnh của BĐKH hay không, bởi dân số của họ chiếm gần 20% so
với thế giới. Kết quả khẳng định rằng nhiệt độ ấm lên dường như có lợi cho các nông trại
được tưới tiêu nhưng nó sẽ gây thiệt hại đến các nông trại nước trời. Nông trại nhờ nước
trời sẽ thuận lợi chỉ nhiệt độ ấm lên vào mùa Đông. Nhiệt độ cả mùa Hè và mùa Đông đều
có lợi cho nông trại tưới tiêu nhưng tác động này ngược lại vào mùa Xuân và mùa Thu.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Châu Thoại (2011) đưa ra kết
luận là tác động của nhiệt độ đến TNR từ hoạt động trồng trọt rõ rệt hơn so với tác động
của lượng mưa. Nhiệt độ mùa khô có tác động tích cực đến TNR trong đó nông trại nước
trời có tác động tích cực hơn nhiều so với nông trại tưới tiêu chủ động. Nhiệt độ mùa mưa
có tác động tiêu cực đến TNR trong đó tác động tiêu cực của nông trại tưới tiêu chủ động
lớn hơn nhiều so với nông trại nước trời. Tuy nhiên, kết quả đánh giá này cần lưu ý thêm
bởi vì cách tính toán tác động biên cho mỗi yếu tố khí hậu đến TNR có vẻ như bằng 2 lần
hệ số hồi quy của yếu tố khí hậu đó ở dạng phi tuyến tính.
Nghiên cứu của Ajetomobi và đ.t.g (2010) thực hiện ở 20 vùng trồng lúa lớn ở Nigeria,
nước cũng nằm ở Bắc bán cầu và có kiểu khí hậu nhiệt đới gần giống Việt Nam, trong đó
vùng miền Nam nằm cận xích đạo hưởng lượng mưa dồi dào hơn vùng miền Bắc với khí
hậu khô. Diện tích trồng lúa trung bình là 3,76 ha/hộ - cao gấp 5 lần so với diện tích trung
bình trồng trọt cũng như trồng lúa ở Việt Nam. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhiệt độ và
TNTL, kết quả cho thấy nhiệt độ hoàn toàn không có lợi cho TNTL trong năm đối với đất
tưới tiêu lẫn đất nước trời, trong đó đất nước trời càng thiệt hại hơn. Nhiệt độ tăng vào
tháng 2 có lợi cho đất tưới tiêu nhưng bất lợi cho đất nước trời. Nhiệt độ cao hơn ở tháng
7, và tháng 10 bất lợi cho đất tưới tiêu lẫn nước trời. Nhiệt độ tăng lên vào tháng 4 thì có
lợi cho cả đất tưới tiêu lẫn nước trời và đây cũng là thời điểm bắt đầu lịch mùa vụ lúa cho
đất tưới tiêu và đất khô (đặc biệt vùng đất thấp) - tháng làm đất và gieo cấy.
10
Như vậy, trang trại đất quy mô nhỏ sẽ là đối tượng cần quan tâm và việc sử dụng hệ thống
tưới tiêu vào mùa phù hợp sẽ làm giảm sự thiệt hại của nhiệt độ đến thu nhập của cả hai
loại trang trại. Qua đây, chúng ta thấy việc sử dụng tưới tiêu có thể mang lợi cho nông trại
trước cái nóng của mùa Hè ở một số nơi nhưng nó chưa hoàn toàn mang xu hướng chung.
2.2.1.2 Lượng mưa
Lượng mưa có tác động rất lớn đến hoạt động nông nghiệp truyền thống, bởi nó là nguồn
cung nước tự nhiên mà không cần sự can thiệp của con người. Ngày nay, hệ thống tưới tiêu
được phát triển, lấy nước từ các nguồn nước khác hoặc từ nước mưa được dự trữ để cung
cấp nước cho cây trồng vào các thời điểm cần thiết. Nếu việc canh tác mà không thể sử
dụng bất kỳ hình thức nào để cung cấp nước, thường đi cùng các vùng đất khô gọi là canh
tác nhờ vào nước trời. Lượng mưa còn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định lịch
mùa vụ cũng như canh tác thêm vụ trong năm đối với loại cây ngắn ngày.
Nghiên cứu của Seo và Mendelsohn (2007) cho thấy lượng mưa tăng lên có tác động tích
cực cho quy mô trang trại lớn và nhỏ có sử dụng hệ thống tưới tiêu tuy nhiên nếu trang trại
sử dụng nước trời thì quy mô trang trại nhỏ mới có tác động tích cực đến TNR còn quy mô
trang trại lớn bị thiệt hại.
Nghiên cứu của Benhin (2008) ở Nam Phi (tổng lượng mưa năm trung bình chưa tới 450
mm/năm trong khi tốc độ bay hơi nước tương đối cao 1500mm/năm) cho thấy lượng mưa
có tác động tích cực đến TNR cho cả trang trại sử dụng tưới tiêu và nhờ vào nước trời,
trong đó tác động tích cực ở vụ canh tác Đông Xuân cho các trang trại tưới tiêu nhưng
trang trại nhờ nước trời thì tác động tích cực vào vụ Hè Thu (nhờ mùa mưa rơi vào vụ Hè
Thu).
Nghiên cứu của Wang và đ.t.g (2008) cho thấy lượng mưa tăng lên nhìn chung có tác động
tích cực lên toàn bộ nông trại cả nông trại tưới tiêu và nhờ nước trời, nhưng trong đó tác
động tích cực chỉ thấy chủ yếu ở mùa Đông. Mặc dù hệ thống nông nghiệp Trung Quốc sử
dụng hệ thống tưới tiêu rất lớn nhưng vấn đề quan ngại lớn là vùng đất tưới tiêu có thể trở
thành vùng nhờ nước trời nếu nguồn nước khan hiếm.
Nghiên cứu của Ajetomobi và đ.t.g (2010) cho thấy nhìn chung lượng mưa tăng lên có đất
tưới tiêu trong khi đó thiệt hại đối với đất khô. Đối với nông trại tưới tiêu, chỉ lượng mưa
tăng lên vào tháng 2 mới có tác động tích cực TNTL trong khi đó thì thời điểm này lại có
tác động tiêu cực đối với nông trại nhờ nước trời.
11
Như vậy, qua các nghiên cứu trên cho thấy tác động lượng mưa đến TNR mỗi nơi mỗi
khác tùy vào loại đất tưới tiêu và đất nhờ nước trời. Nhìn chung TNR từ đất nhờ nước trời
sẽ thuận lợi nếu canh tác rơi vào thời điểm có lượng mưa tự nhiên.
2.2.1.3 Biến đổi các yếu tố khí hậu
Xu hướng BĐKH nhìn chung trên thế giới là nhiệt độ tăng và lượng mưa biến đổi bất
thường, có thể tăng và giảm không mong đợi ở một số nơi.
Ở vùng xứ nóng, đặc biệt Châu Phi, Maddison và đ.t.g (2007) cho thấy năng suất nông
nghiệp dự báo vào năm 2050 giảm từ 1,3 – 30,5% trong đó Burkina Faso và Nigeria là các
nước xứ nóng hơn sẽ chịu tổn thất nhiều hơn các nước ở xứ mát như Ethiopia và Nam Phi.
Nghiên cứu của Benhin (2008), nếu nhiệt độ tăng 3,9
o
C và lượng mưa giảm 8% vào năm
2050 thì TNR của trang trại Nam Phi có thể giảm 5%; nếu nhiệt độ tăng 9,6
o
C và lượng
mưa giảm 15% vào năm 2100 thì ước tính mức thiệt hại lên đến 31%. Ajetomobi và đ.t.g
(2010) thực hiện nghiên cứu chỉ riêng cho ngành trồng lúa ở Nigeria cho thấy nếu nhiệt độ
tăng 2
o
C và lượng mưa giảm 5% vào năm 2100 thì TNTL giảm 8,5%, đất nhờ nước trời sẽ
thiệt hại nhiều hơn lên đến 52%; tuy nhiên đất tưới tiêu có lợi từ BĐKH lên đến 21%.
Ở vùng khí hậu ôn đới, nghiên cứu của Wang và đ.t.g (2008) diễn giải rằng ấm lên của khí
hậu toàn cầu chỉ gây chút ít thiệt hại. Bởi vì, phần lớn các trang trại Trung Quốc sử dụng
hệ thống tưới tiêu (60% so diện tích đất canh tác), còn lại đất canh tác nhờ nước trời phần
lớn nằm ở vùng có khí hậu ôn hòa và mát mẻ.
Ở vùng khí hậu lục địa mát lạnh gần cực, nghiên cứu của Reinsborough (2003) dự báo nền
nông nghiệp Canada vẫn hưởng từ BĐKH lên đến 1.5 triệu đô-la CND/ha nếu nhiệt độ
tăng 2,38
o
C còn lượng mưa tăng 3,4% vào năm 2020.
Như vậy, các nghiên cứu trên cho thấy BĐKH đang gây bất lợi đến TNR trong nông
nghiệp cho các nước càng gần xích đạo với mức độ ảnh hưởng xấu càng cao hơn. Các
vùng ở vĩ độ cao hơn đặc biệt nằm ở Bắc bán cầu mức độ thiệt sẽ giảm thậm chí chuyển
sang hướng có lợi từ BĐKH.
2.2.2 Các nhóm đất ảnh hưởng đến thu nhập ròng
Qua lý thuyết lợi thế so sánh trong sử dụng đất nông nghiệp, cho rằng giá trị đất đai phản
ánh qua năng suất nông nghiệp. Như vậy, các loại đất khác nhau sẽ ảnh hưởng đến TNTL
cũng khác nhau. Đặc tính của loại đất thường dựa theo hệ thống phân loại đất, trong đó hệ
12
thống phân loại đất FAO-UNESCO được đánh giá hệ thống phân loại mới nhất dựa vào lý
thuyết quá trình hình thành và kế thừa hệ thống phân loại trước đây của Mỹ - Soil
Taxonomy. Công tác nghiên cứu và phân loại đất trong hệ thống này hiện đang cập nhật và
hoàn thiện dần, cơ bản hệ thống bao gồm bốn cấp: phân theo nhóm đất chính, dưới nhóm
là đơn vị đất, dưới đơn vị là đơn vị phụ và sau cùng là pha đất
.
Ở một phạm vi nghiên cứu
lớn như vùng, quốc gia, khu vực, đánh giá các loại đất dựa theo nhóm đất chính là chủ yếu
hoặc chi tiết hơn là theo đơn vị đất.
Nghiên cứu của Seo và Mendelsohn (2007) ở châu Mỹ La-tinh đánh giá các nhóm đất
chính như Cambisols, Ferralsols, Phaeozems, Luvisols, Arenosols, Vertisols và Yermosols
mang lại lợi ích cho canh tác trang trại. Nghiên cứu của Benhin (2008) ở Nam Phi thì
Acrisols, Arenosols có tác động tích cực đến TNR còn Vertisols và Xerosols thì ngược lại
.
2.2.3 Các đặc điểm kinh tế hộ ảnh hưởng đến thu nhập ròng
Một trong những thuận lợi lớn của tiếp cận Ricardian là bao gồm khả năng thích ứng của
nông hộ phù hợp với điều kiện tự nhiên. Khả năng thích ứng này một phần đã thể hiện qua
giá trị TNR. Rõ ràng, nông hộ muốn tối đa lợi nhuận thì họ hẳn phải chọn loại cây trồng,
vật nuôi thích hợp và tính toán sao cho giá trị đầu ra là cao nhất và chi phí đầu vào là thấp
nhất có thể được. Bên cạnh, sự có mặt các biến kiểm soát thể hiện qua đặc điểm kinh tế -
xã hội nhằm đo lường những hành vi nào của nông hộ nên khuyến khích, những chính sách
của Chính phủ liệu có phù hợp hay không. Dưới đây nhiều biến được tìm thấy trong nhiều
nghiên cứu trước cũng như nhấn mạnh một số biến có tác dụng cải thiện TNR đáng kể.
Trình độ giáo dục của chủ hộ được đánh giá như khả năng tiếp cập, áp dụng công nghệ
canh tác tiên tiến và thông tin về giá cả thị trường tốt hơn (Mendelsohn và đ.t.g, 2004).
Kinh nghiệm của nông hộ kỳ vọng tỷ lệ thuận với thu nhập nông hộ.
Giới tính của chủ hộ cũng ảnh hưởng đến TNR trong vài nghiên cứu. Chủ hộ là nam có thể
mang lại TNR cao hơn do giảm chi phí thuê lao động bên ngoài. Một giải thích khác cho
rằng chủ hộ là nữ giới, phần đông có thể xem như mất đi một lao động tiềm năng
(Kurukulasuriya và Ajwad, 2004).
Sức lao động rất quan trọng đối với các nước đang triển khi nông nghiệp vẫn còn phụ
thuộc nhiều vào lao động tay chân. Các hộ nhiều thành viên có thể cung cấp nhiều lao
động cho hoạt động canh tác của họ do đó kỳ vọng sẽ làm tăng TNR.
13
Chăn nuôi gia súc là hoạt động kết hợp với trồng trọt để tăng thu nhập. Đặc biệt ở các
nước Châu Phi chăn nuôi gia súc ở vùng đất khô có đặc lợi kinh tế từ đất cao hơn so với
đất có tưới tiêu (Seo và Mendelsohn, 2008).
Việc làm phi nông nghiệp cũng là cách để đa dạng hoạt động sinh kế của mình đối với
nông dân do đó kỳ vọng sẽ làm tăng TNR trong nông nghiệp.
Diện tích canh tác tỷ lệ thuận với TNR. Nhiều nghiên cứu trước cho kết quả ngược lại
(Mano và Nhemachena, 2007, Wang và đ.t.g, 2008 và Ajetomobi và đ.t.g, 2010).
Hệ thống tưới tiêu là yếu tố rất quan trọng trong mô hình, là yếu tố được tìm thấy nhiều
nhất trong các nghiên cứu tiếp cận Ricardian. Do đó, mô hình nghiên cứu thường phân
theo mô hình đất tưới tiêu và mô hình đất nhờ nước trời, để cho thấy lợi ích đáng kể của
đất chủ động được nước hơn đất nhờ vào nước tự nhiên.
Tiếp cận điện nhằm nâng cao việc sử dụng máy móc do đó kỳ vọng sẽ tỷ lệ thuận với TNR
Tiếp cận thị trường mua bán, sự có mặt các điểm mua bán sẽ làm thuận tiện cho nông hộ
mua sắm vật dụng cần thiết cho sản xuất cũng như cơ hội để nông sản được bán và có thể
bán giá cao được. Ngoài ra, Bán sản phẩm cho ai được xem là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến TNR trong nghiên cứu (Kurukulasuriya và Ajwad, 2004). Trong số các đối
tượng liệt kê như chợ ở địa phương, chợ ở đô thị, tư thương, doanh nghiệp nhà nước và đối
tượng khác thì kết quả cho thấy việc bán cho tư thương có lợi nhuận cao nhất, sau đó là
chợ ở đô thị và chợ ở địa phương.
Tiếp cận khuyến nông có lợi cho nông dân trong việc tiếp nhận thông tin và các dịch vụ
công tốt nhất để phục vụ nông nghiệp.
Tiếp cận tín dụng thường liên quan tới hoạt động nông nghiệp đặc biệt ở các nước đang
phát triển. Sự trợ giúp của Chính phủ trong hoạt động cấp vốn và tín dụng để giúp người
nông dân đầu tư vào hoạt động nông nghiệp có hiệu quả vì thế kỳ vọng sẽ làm tăng sản
lượng nông nghiệp và TNR cho người nông dân.
Bên cạnh đó, một số chiến lược thích ứng hiện nay mà nhiều nghiên cứu đề cập liên quan
nhận thức nông dân trong điều kiện khí hậu đang thay đổi là rất quan trọng nhằm thực hiện
nhiều hành động kết hợp tức thời. Các hành động đó là trồng cây ngắn ngày, cây chịu hạn,
thay đổi mùa vụ và luân canh hợp lý, dịch vụ khuyến nông hiệu quả, và tiếp cận thông tin
dự báo thời tiết sớm.
14
Chương 3
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP TRỒNG LÚA Ở
VIỆT NAM VÀ MÔ HÌNH ƯỚC LƯỢNG
3.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập trồng lúa ở Việt Nam
Ở Việt Nam, TNTL cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố đã đề cập ở chương trước. Do vậy,
đề tài chú trọng việc mô tả cách chọn các yếu tố phù hợp với đặc điểm về tự nhiên và kinh
tế - xã hội của nước ta liên quan tới ngành lúa gạo. Bên cạnh, bàn về diện tích đất cho lúa,
số vụ trồng lúa, đặc điểm dân tộc, đầu ra cho lúa gạo là các vấn đề quan tâm hiện nay sẽ
được nhấn mạnh trong đề tài này.
3.1.1 Các yếu tố về khí hậu
Người Việt có câu: “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”. Qua đó, chúng ta thấy nhiệt độ và lượng
mưa có tác động rất lớn đến khả năng sinh trưởng cây trồng cũng như cây lúa. Quan sát dữ
liệu khí hậu 10 năm gần đây, nhiệt độ nước ta dao động khoảng 23,5 – 24,5
o
C/tháng (Phụ
lục 2: Hình 1) còn lượng mưa trung bình khoảng 1700 – 2200 mm/năm (Phụ lục 3: Hình
1), gấp hai lần lượng mưa trung bình thế giới là 860mm/năm. Đối với trồng lúa, nhiệt độ
tối ưu cho các giai đoạn phát triển của nó dao động khoảng 18 – 33
o
C, riêng giai đoạn nảy
mầm có thể chịu được 40
o
C (Phụ lục 4) còn lượng mưa trên 1200mm/năm có thể xem như
cung cấp đủ nước (Nguu Nguyen Van, 2004).
Ngoài ra, lúa có thể trồng nhiều vụ gắn với các mùa kết hợp trong năm như Đông Xuân,
Hè Thu, Thu Đông. Tuy nhiên việc phân biệt 4 mùa Xuân, Hạ, Thu và Đông thường thích
hợp cho các nước có kiểu khí hậu ôn đới khi mà sự biến động nhiệt độ các tháng đáng kể
hơn nhiều so với sự biến động lượng mưa các tháng trong năm (Wikipedia, 2012). Nước ta
nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, lượng mưa có sự khác biệt giữa các tháng là rất lớn, lớn
hơn so với sự khác biệt của nhiệt độ (Phụ lục 2: Hình 2 và Phụ lục 3: Hình 2). Do đó,
người ta dựa theo thời lượng mưa để phân thành 2 mùa là mùa mưa và mùa khô.
Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Châu Thoại (2011) đã xác định các yếu tố khí hậu là nhiệt
độ và lượng mưa của mùa khô từ tháng 11-2007 đến tháng 4-2008, và mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 10-2008, riêng từ Thừa Thiên Huế đến Khánh Hòa mùa mưa từ tháng 6 đến
tháng 11-2008. Theo cách xác định này, tác giả áp dụng tính toán và kết quả cho thấy
nhiều tháng được xác định tháng vào mùa mưa có tổng lượng trên 100mm/tháng. Theo