Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Công tác xã hội đối với thương binh từ thực tiễn xã pơng drang, huyện krông búk, tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.26 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ VÂN ANH
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI THƯƠNG BINH
TỪ THỰC TIỄN XÃ PƠNG DRANG,
HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Công tác xã hội về “Công tác xã hội đối với thương binh, từ thực
tiễn xã Powng Drang, huyện Kr ông Busk, tỉnh Đắk Lắk” là hoàn toàn trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Vũ Thị Vân Anh
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp, bản thân tôi
cũng gặp một số khó khăn nhất định về thời gian, xử lý số liệu mẫu thống kê, kỹ
thuật phân tích số liệu, chọn mẫu nghiên cứu, Tuy nhiên, tôi đã được sự hướng
dẫn, giúp đỡ tận tình, cũng như sự khuyến khích và tao điều kiện thuận lợi của thầy
cô, gia đình và bạn bè trong suốt quá trình nghiên cứu. Với tấm lòng biết ơn sâu
sắc, tôi xin bày tỏ lòng cám ơn chân thành đến thầy cô, bạn bè và gia đình đã hỗ
trợ tôi hoàn thành luận văn này.
- Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Võ Khánh Vinh đã hướng dẫn nghiên
cứu đề tài luận văn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.


- Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, nhà khoa học đang công tác tại
Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện về thời gian cũng như hỗ trợ
các tài liệu học tập cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
- Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các bác, các cô, các chú thương binh tại xã Pơng
Drang đã hợp tác, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
- Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các anh/chị là cán bộ Phòng Lao động-Thương
binh và Xã hội đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu.
- Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã động viên,
nhiệt tình hỗ trợ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa
học để luận văn của tôi được hoàn chỉnh.
Đắk Lắk, tháng 7 năm 2015
Tác giả
Vũ Thị Vân Anh
MỤC LỤC
1
DANH MỤC BẢNG BIỂU
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh tàn khốc và
ác liệt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân ta đã đứng dậy chiến đấu theo chân lý: “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”, với tinh thần: “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Thà hy sinh tất
cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, rất nhiều người con yêu
nước, nhiều cá nhân và gia đình đã hiến dâng cả tính mạng, xương máu, sức
lực, trí tuệ và tuổi trẻ của mình cho đất nước, để khi họ trở về với cuộc sống
đời thường lại mang trên mình những thương tật, di chứng của chiến tranh.

Chính vì thế mà Tổ quốc và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn to lớn của
những người con anh dũng ấy. Và việc quan tâm chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần cho những người có công với nước và gia đình họ là làm theo truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc ta, là trách
nhiệm của Đảng, của Nhà nước và cả xã hội. Bởi vậy, ngay sau khi giành
được chính quyền, từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, Bác Hồ đã ký sắc lệnh số 20/SL ngày 16/02/1947 về “Ưu đãi người có
công” để đền đáp những công lao, cống hiến của họ.
Theo thống kê, cả nước hiện có trên 8,8 triệu người có công, chiếm gần
10% dân số, trong đó có 1.146.250 liệt sĩ, 49.609 Mẹ Việt Nam anh hùng,
781.021 thương binh và người hưởng chính sách như thương binh, 185.00
bệnh binh, 1.253 Anh hùng Lực lượng Vũ trang, Anh hùng Lao động trong
kháng chiến, 101.138 người có công giúp đỡ cách mạng… Trên 1,47 triệu đối
tượng người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng của Nhà nước.
Tuy nhiên, do hậu quả của chiến tranh, vẫn còn một số trường hợp chưa được
xác nhận và giải quyết chế độ. Khoảng 4% người có công với cách mạng và
gia đình vẫn còn khó khăn trong cuộc sống.
3
Pơng Drang là một vùng đất nằm trên Tây Nguyên hùng vĩ, nơi có
những con người giàu truyền thống cách mạng và trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã có biết bao nhiêu người
con Pơng Drang đã hy sinh xương máu, cống hiến cuộc đời mình cho sự
nghiệp cách mạng, họ đã phải bỏ lại gia đình, vợ con, quê hương để đi theo
tiếng gọi của Tổ quốc. Họ đã không ngại ngùng gian khổ, mất mát để đòi lại
độc lập tự do cho nhân dân, như nhà thơ Tố Hữu đã từng ca ngợi những con
người đó “ yêu người sống nên nhiều người đã chết”, những người anh dũng
còn sống lại thì họ đã kiệt quệ, không còn đủ sức lực do bị thương tật, bệnh
tật, do thiếu những hiểu biết cần thiết để làm ăn trong cơ chế mới, nên phần
lớn lâm vào hoàn cảnh khó khăn thậm chí rất khó khăn. Chính vì vậy, trong
những năm gần đây chính quyền, đảng bộ các cấp và nhân dân trên địa bàn đã

có nhiều cố gắng trong việc quan tâm, chăm lo mọi mặt đời sống vật chất và
tinh thần đối với người có công đặc biệt là thương binh và gia đình của họ
bằng nhiều việc làm thiết thực như tạo việc làm cho thương binh, giúp họ vay
vốn để phát triển kinh tế, tặng nhà tình nghĩa, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa,
chăm sóc sức khỏe…và những việc làm này bước đầu nó đã mang màu sắc
của công tác xã hội. Do vậy, đời sống của họ đã phần nào được ổn định và cải
thiện. Song, với điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, cộng thêm vào
đó là các hoạt động trợ giúp thương binh còn mang nặng tính hình thức…, bởi
vậy, việc chăm sóc, giúp đỡ thương binh mới chỉ có thể đáp ứng được những
nhu cầu thiết yếu của họ mà chưa thể đáp ứng những nhu cầu đa dạng khác.
Từ đó ta nhận thấy rằng đời sồng của thương binh còn nhều khó khăn mà các
hoạt động công tác xã hội vẫn chưa hướng tới được vì vậy chúng ta cần phải
nghiên cứu để đưa hoạt động công tác xã hội đối với thương binh vào địa
phương, đồng thời thúc đẩy hoạt động này tại địa phương được tốt hơn. Chính
vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Công tác xã hội đối với thương binh từ thực
tiễn xã Pơng Drang, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn thạc sỹ
4
của mình. Với đề tài này tác giả muốn được đóng góp một phần sức lực của
mình trong việc đưa ra một số giải pháp nâng cao hoạt động công tác xã hội
đối với thương binh để nhằm giúp cho đời sống của thương binh ngày một tốt
hơn, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trong nhiều thập
niên qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, có nhiều chủ trương chính
sách và tăng cường công tác quản lý chỉ đạo tổ chức thực hện nhằm từng
bước nâng cao đời sống người có công. Các nghành các cấp, luôn xem đây
là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên trong việc xây dựng triển
khai các chiến lược trung hạn, dài hạn và các giải pháp có tính lâu dài cũng
như trước mắt. Tuy nhiên, trong các khâu xây dựng, triển khai thì lại chưa
gắn được các hoạt động trợ giúp của công tác xã hội đối với thương binh vào

thực tiễn.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng đã có một số đề tài khoa học
liên quan đến một vài khía cạnh của lĩnh vực đời sống người có công với cách
mạng như :
Ở cấp nhà nước có đề tài nghiên cứu : ‘‘Chính sách đối với người có
công (Thực trạng và một số kiến nghị)’’ của chuyên viên Ban Nội Chính
Trung Ương Bùi Thu Huyền, đề tài đã làm rõ được công tác quản lý nhà nước
của chính quyền cơ sở trong việc thực hiện chính sách đối với người có công
còn nhiều bất cập, hạn chế; một số văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
thực hiện “Pháp lệnh ưu đãi người có công” chưa đầy đủ, thiếu thống nhất;
quy định hướng dẫn về điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình, trách nhiệm xác nhận
người có công chưa đồng bộ, thiếu hợp lý; có nội dung quá “khắt khe”, gây
khó khăn cho đối tượng; có nội dung quá “thông thoáng”, tạo kẽ hở cho phần
tử xấu lợi dụng, dẫn đến tiêu cực.
5
Ngoài ra còn một số đề tài nghiên cứu của các học viên cao học hay sinh
viên như đề tài ‘‘An sinh xã hội đối với gia đình người có công với cách
mạng và nạn nhân chiến tranh huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên’’ của học viên
cao học Nguyễn Thị Thu Hương thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội Và
Nhân văn. Đề tài phân tích và chỉ ra thực trạng đời sống cũng như khó khăn
trong việc tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội của gia đình người có công và
nạn nhân chiến tranh. Từ đó đưa ra giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội đối với gia đình người có công với
cách mạng và nạn nhân chiến tranh tại địa bàn nghiên cứu.
Đề tài ‘‘Chăm sóc sức khỏe người có công với cách mạng: thực trạng và
giải pháp (điển cứu tại huyện Hoài Ân tỉnh Bình Định)’’ của sinh viên
Nguyễn Đình Cơ và Phạm Viết Nhựt. Đề tài cũng chỉ ra được thưc trạng
chăm sóc sức khỏe và nâng cao đời sống cho người có công cách mạng vẫn
còn gặp rất nhiều khó khan, vẫn còn thiếu các nguồn lực để có thể thực hiện
một cách tốt nhất công việc này. Từ đó đề tài đã đưa ra được một số giải pháp

như: tăng cường các hoạt động phục vụ đời sống tinh thần của người có công;
Thường xuyên tổ chức các chuyến du lịch tham quan các địa danh trong cả
nước; Xây dựng thêm trung tâm chăm sóc người có công cách mạng; Nâng
cao trình độ của đội ngũ y, bác sĩ tại các cơ sở khám chữa bệnh….
Tuy nhiên, những nghiên cứu, đề tài trên chỉ tiếp cận ở khía cạnh ảnh
hưởng và tác động của chính sách an sinh xã hội tại địa phương ảnh hưởng
đến đời sống của gia đình người có công và nạn nhân chiến tranh; tìm hiểu về
vấn đề chăm sóc sức khỏe, về thực trạng đời sống người có công, hay đánh
giá hiệu quả của việc thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng dưới góc nhìn của người làm chính sách và đối tượng là người có công
nói chung chứ không có đề tài nào đi sâu vào việc nghiên cứu sâu sắc về thực
trạng công tác xã hội với thương binh nói riêng và với người có công nói
6
chung, bên cạnh đó cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu để có thể đưa ra các
giải pháp nâng hiệu quả công tác xã hội đối với thương binh… vì thế với đề
tài này tác giả không chỉ muốn tìm hiểu thực trạng về đời sống của người
thương binh, thực trạng công tác xã hội đối với thương binh trên địa bàn mà
còn muốn góp phần tìm ra một số giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả
công tác xã hội đối với thương binh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực trạng của công tác xã hội đối với
thương binh trên địa bàn xã Pơng Drang, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk từ
đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với
thương binh trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập
trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với thương binh.
- Đi sâu vào tìm hiểu, đánh giá thực trạng đời sống của người thương

binh, thực trạng công tác xã hội đối với thương binh cũng như các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác xã hội đối với thương binh trên địa bàn xã Pơng
Drang.
- Dựa trên cơ sở phân tích đánh giá, tìm hiểu các thực trạng, các yếu tố
ảnh hưởng nói trên để đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hơn nữa
công tác xã hội đối với thương binh trên địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng hoạt động công tác xã hội đối với thương binh tại
xã Pơng Drang.
7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về đối tượng: đề tài tập trung nghiên cứu 3 hoạt
động của công tác xã hội là: hoạt động hỗ trợ kết nối nguồn lực, hoạt động
truyền thông và hoạt động hỗ trợ xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu về khách thể: đề tài nghiên cứu trên 70 thương
binh và 8 cán bộ làm việc trên địa bàn.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: ở xã Pơng Drang, huyện Krông
Búk, tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ tháng 3 đến tháng 07 năm 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ những đánh giá thực
trạng về đời sống của thương binh, thực trạng của công tác xã hội đối với
thương binh trên địa bàn rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề
xuất về biện pháp để nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với thương binh
trên địa bàn.
- Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những
lý thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan
như: dịch vụ hỗ trợ của công tác xã hội đối với thương binh, hệ thống chính

sách ưu đãi đối với thương binh
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu: là phương pháp sử dụng các kỹ thuật
chuyên môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã
được công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu những thông tin cần thiết phục
vụ cho quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để:
+ Đọc và tìm hiểu các giáo trình,tài liệu có liên quan đến CTXH như:
Nhập môn CTXH, Phát triển cộng đồng, Lý thuyết CTXH…
8
+ Phân tích những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn
đề CTXH đối với thương binh như: đề tài ‘‘An sinh xã hội đối với gia đình
người có công với cách mạng và nạn nhân chiến tranh huyện Yên Mỹ tỉnh
Hưng Yên’’, đề tài ‘‘Chăm sóc sức khỏe người có công với cách mạng: thực
trạng và giải pháp (điển cứu tại huyện Hoài Ân tỉnh Bình Định)’’
+ Đọc và phân tích các tài liệu, báo cáo của các cấp chính quyền địa
phương như: “Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với
các mạng những năm vừa qua và nhiệm vụ giải pháp trong thời gian tới”;
‘‘Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo
quốc phòng-an ninh năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015 của xã
Pơng Drang’’
+ Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu liên quan đến chính
sách hỗ trợ, ưu đãi đối với thương binh và các biện pháp can thiệp, hỗ trợ,
giúp đỡ họ.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi: là phương pháp dựa trên hình thức hởi
đáp gián tiếp dựa trên bảng các câu hỏi được soạn thảo trước. điều tra viên
tiến hành phát bảng hỏi, hướng dẫn thống nhất cách trả lời các câu hỏi, người
được hởi tự đọc các câu hởi trong bảng hỏi rồi ghi cách trả lời của mình vào
phiếu hởi rồi gửi lại cho các điều tra viên.
Với phương pháp này, đề tài sẽ phát bảng hỏi dành cho 70 thương binh

tại xã Pơng Drang để tìm hiểu, thu thập thông tin chung về thực trạng đời
sống của thương binh như điều kiện về nhà ở, kinh tế gia đình, các nhu cầu
của thương binh…, tìm hiểu về thực trạng hoạt động công tác xã hội đối với
thương binh trên địa bàn như các hoạt động hỗ trợ xã hội, liên kết các nguồn
lực, hoạt động giáo dục, tuyên truyền… của nhân viên công tác xã hội đối với
thương binh.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: là một phương pháp thu thập thông tin
xã hội học thông qua việc tác động tâm lý học xã hội trực tiếp giữa người đi
phỏng vấn và người được phỏng vấn trên cơ sở mục tiêu của đề tà nghiên cứu.
9
Tác giả sử dụng phương pháp này với mục đích nhằm tìm hiểu, thu thập
thông tin chuyên sâu về thực trạng đời sống của thương binh, thực trạng hoạt
động công tác xã hội đối với thương binh trên địa bàn cũng như việc triển
khai thực hiện chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với thương binh của cán bộ địa
phương các cấp, đề tài tiến hành phỏng vấn sâu 10 thương binh tại xã Pơng
Drang, một số vị lãnh đạo tai địa phương, người đảm nhiệm công tác chính
sách người có công cách mạng tại xã và các ban nghành có liên quan như cán
bộ phòng LĐTB và XH huyện Krông Búk…
- Phương pháp quan sát: là phương pháp thu thập thông tin của nghiên
cứu xã hội học thực nghiệm thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập
các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Trong đề tài này tác giả sử dụng phương pháp này nhằm thu thập, bổ
sung thông tin còn thiếu và kiểm tra đối chiếu, so sánh các thông tin từ việc
quan sát để đánh giá độ tin cậy của các thông tin thông qua việc quan sát bối
cảnh sống, thái độ, thể trạng của người được điều tra. Cũng thông qua đó
hình thành được câu trả lời đầy đủ và có được những thông tin chính xác cho
bảng hỏi cũng như bảng phỏng vấn sâu. Cụ thể đề tài tập trung quan sát: quan
sát các hoạt động công tác xã hội hoặc các hoạt động mang tính chất công tác
xã hội. Quan sát về môi trường, không gian sống của người thương binh.
Quan sát về thể chất, thái độ giao tiếp và trạng thái tâm lý của đối tượng khảo

sát với người điều tra, nhằm xác định xem họ có gặp phải những vấn đề khó
khăn về sức khỏe, tâm lý hay không…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Những thông tin thu thập được từ luận văn sẽ góp phần làm phong phú
thêm hệ thống cơ sở dữ liệu cho việc phân tích lý luận về người có công cách
mạng, thương binh nói riêng và lý luận về chính sách xã hội nói chung.
10
Là nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về lĩnh vực
người có công cách mạng, chính sách xã hội và chính sách chăm sóc sức khỏe
cho người có công cách mạng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Chính sách xã hội dành cho người có công cách mạng là một việc làm vô
cùng cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng thể hiện tinh thần nhân văn
sâu sắc. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức, thực hiện, công tác này gặp rất
nhiều khó khăn, bất cập ở nhiều địa phương. Với luận văn này tôi mong muốn
sẽ cung cấp những thông tin cụ thể về thực trạng công tác xã hội đối với
thương binh trên địa bàn xã Pơng drang, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk;
gợi mở một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hơn nữa công tác xã hội đối
với thương binh. Đồng thời, cũng như là một thông điệp hướng sự quan tâm
và chung tay góp sức của cộng đồng, nhất là những người trẻ tuổi ở địa
phương để cùng thực hiện có hiệu quả hơn công tác thực thi chính sách xã hội
cho người có công cách mạng.
Giúp cho nhân viên công tác xã hội nói riêng và các nghành khác nói
chung hiểu biết thêm vế các chính sách, chế độ ưu đãi, các dịch vụ hỗ trợ của
công tác xã hội đối với thương binh.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và công tác xã hội đối với thương binh

Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với thương binh từ thực tiễn
xã Pơng Drang, huyện Krông Búk, Tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác xã
hội đối với thương binh
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI THƯƠNG BINH
1.1. Những vấn đề lý luận về thương binh
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm người có công
Mặc dù chính sách ưu đãi NCC đã được thực hiện gần 6 thập kỉ qua,
nhưng cho đến ngày nay cũng chưa có một văn bản nào nêu rõ khái niệm
NCC.
Theo tập bài giảng Ưu đãi xã hội, NCC với nước “ là người có cống hiến
đặc biệt hoặc hy sinh cao cả cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước bảo vệ
hạnh phúc, cuộc sống bình yên của nhân dân”.
Cũng theo tài liệu này, NCC với cách mạng là “ người có đóng góp công
lao hoặc hy sinh tính mạng, hy sinh một phần thân thể trong thời kì trước cách
mạng tháng 8/1945, trong các cuộc giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
nghĩa vụ quốc tế được cơ quan tổ chức có thẩm quyền công nhận”.
- Ở nước ta trong Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm
2005 (sửa đổi năm 2012) có quy định: Người có công với cách mạng bao
gồm:
a) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
b) Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;
c) Liệt sĩ;
d) Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
đ) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;

e) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;
12
g) TB, người hưởng chính sách như TB;
h) Bệnh binh;
i) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
k) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
l) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế;
m) Người có công giúp đỡ cách mạng.” [23,tr.1]
* Khái niệm thương binh
Theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-
UBTVQH11(sửa đổi , bổ sung năm 2012) thì khái niệm TB được thể hiện ở
điều 19 như sau:
1. TB là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm khả năng
lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp “Giấy
chứng nhận TB” và “Huy hiệu TB” thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
b) Bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh,
để lại thương tích thực thể;
c) Làm nghĩa vụ quốc tế;
d) Đấu tranh chống tội phạm;
đ) Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc
phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân;
e) Làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn;
g) Khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ
quan có thẩm quyền giao;
h) Trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu hoặc diễn tập phục vụ
quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm.
13

2. Người hưởng chính sách như TB là người không phải là quân nhân,
công an nhân dân, bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên
thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này được cơ quan
có thẩm quyền cấp "Giấy chứng nhận người hưởng chính sách như TB".
3. TB loại B là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm khả
năng lao động từ 21% trở lên trong khi tập luyện, công tác đã được cơ quan,
đơn vị có thẩm quyền công nhận trước ngày 31 tháng 12 năm 1993.
4. TB, người hưởng chính sách như TB và TB loại B quy định tại Điều
này được gọi chung là TB.
5. TB có vết thương đặc biệt tái phát được khám và giám định lại tỷ lệ
suy giảm khả năng lao động theo quy định của Chính phủ.” [23,tr6]
1.1.2. Tâm lý và nhu cầu của thương binh
* Đặc điểm tâm lý
TB là những người luôn có ý thức tự hào về quá khứ cống hiến của mình
cho cách mạng, có tinh thần trách nhiệm giữ gìn những phẩm chất và truyền
thống cách mạng. Đại bộ phận những người TB luôn gương mẫu trong đời
sống và công tác, thể hiện thái độ trung thành với chế độ mà mình đã đem
xương máu, sức lực ra chiến đấu, bảo vệ. Khi hoà bình lập lại cho đến nay
nhiều trong số họ dù mang trong mình những thương tích, thương tật, bệnh tật
nhưng vẫn nỗ lực cố gắng vươn lên tìm cho mình một công việc phù hợp để
vượt qua cái đói nghèo, góp phần xây dựng tổ quốc. Nhiều người trở thành tấm
gương lao động giỏi, chiến sỹ thi đua, nhà khoa học, nhà quản lý có uy tín.
Mặt khác họ cũng thích được mọi người quan tâm chăm sóc hơn so với
người bình thường. Do có tâm trạng mặc cảm thấy thua thiệt những người có
điều kiện thuận lợi hơn trong công tác, học tập, cuộc sống vì vậy họ cảm thấy
mất mát quá lớn, nhất là các thương nặng.
Ngoài những đặc điểm tâm lý chung nói trên TB trong mỗi thời kỳ kháng
chiến có những đặc điểm tâm lý riêng.
14
Đối với TB nặng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp: hiện nay số còn

sống còn rất ít, còn sống thì tuổi đã cao, họ sống khiêm tốn, giản dị ít đòi hỏi
quyền lợi cá nhân. Nhu cầu vật chất giản dị, nhưng nhu cầu tinh thần thông
tin thời sự, chính trị lại khá cao, họ thích tìm hiểu và tham gia bình luận tình
hình thế giới và trong nước. Họ muốn có nhiều bạn bè để cùng nhau ôn lại kỉ
niệm về tháng năm hào hùng đã qua.
Đối với TB thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: đại đa số họ ở độ tuổi trung
niên, có trình độ văn hoá và chính trị, nhạy cảm với các chính sách, chế độ
của Đảng và Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan tới họ. Họ có ý thức tự
chủ, tự kiềm chế, đúng đắn, hăng hái nhiệt tình tham gia các hoạt động xã hội
cũng như các công tác khác được giao.
Bên cạnh đó có một số ít đối tượng có tư tưởng công thần, ỷ vào công
lao cống hiến để đòi hỏi, thậm chí một số ít còn lợi dụng chính sách ưu đãi
của Đảng và Nhà nước để làm trái pháp luật.
Đối với tâm lý của TB từ 1975 trở lại đây: chủ yếu là những người bị
thương tật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phần lớn tuổi còn trẻ,
trình độ văn hoá cao. Một số cũng khá lớn vẫn nặng nề về tâm lý thấy thua
thiệt người cùng trang lứa có điều kiện sống tốt hơn nên có tâm lý bi quan,
thiếu tin tưởng, nhất là số TB nặng và một số TB còn gặp khó khăn trong
cuộc sống, chưa tìm được việc làm.
* Nhu cầu
Cũng như mọi người, những người TB rất cần có một cuộc sống vật chất
và tinh thần đầy đủ, no ấm và hạnh phúc, họ có nhu cầu được cải thiện chỗ ở,
được tạo công ăn việc làm và được tiếp cận các nguồn vốn, tiếp cận quyền sử
dụng đất. Mặt khác họ đã có nhiều cống hiến hy sinh, chịu nhiều thiệt thòi
mất mát vì sự nghiệp chung của dân tộc, do đó họ cần được mọi người tôn
vinh, kính trọng, quan tâm chăm sóc, chia sẻ, được lắng nghe, thấu hiểu, động
15
viên; được nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe; được học tập, cung cấp thông tin
nhiều hơn để họ vơi đi nỗi đau mất mát, quên đi bệnh tật và mất người thân.
1.2. Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với thương binh

1.2.1. Một số khái niệm
* Khái niệm công tác xã hội
Có nhiều khái niệm về CTXH được đưa ra ở các góc độ khác nhau:
Theo từ điển Bách khoa ngành CTXH (1995) có ghi “CTXH là một khoa
học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra
những chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội”.
[16,tr.12]
CTXH ở Việt Nam cũng được các tác giả xem xét từ những khía cạnh
khác nhau điển hình có tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng: CTXH là hoạt
động thực tiễn, mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các
nguyên tắc, phương pháp hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn
đề. CTXH theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã
hội’’. [17,tr.26]
CTXH tại Việt Nam cũng được xem như là sự vận dụng các lý thuyết
khoa học về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các
chức năng xã hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng
đồng người yếu thế hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đây là lĩnh vực
cung cấp các dịch vụ chuyên môn góp phần giải quyết những vấn đề xã hội
liên quan tới con người để thỏa mãn những nhu cầu căn bản, mặt khác góp
phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai trò xã hội của mình. [16, tr.17]
Và như vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất theo như định nghĩa của
PGS.TS. Bùi Thị Xuân Mai: “CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên
nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực
đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi
16
trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia
đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần
đảm bảo an sinh xã hội”. [16,tr.19]
* Công tác xã hội đối với thương binh
Hiện nay, CTXH trên thế giới chủ yếu hướng đến các đối tượng như

người nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người
nhiễm HIV/AIDS, mại dâm… Tuy nhiên, Việt Nam là một đất nước đã phải
trải qua những cuộc chiến tranh tàn khốc với nhiều sự hy sinh, mất mát và đau
thương nên ngoài những đối tượng chủ yếu của CTXH ở trên thì Việt Nam
còn có nhóm đối tượng quan trọng nữa của CTXH đó là người có công mà
trong nhóm này đối tượng chiếm phần khá lớn là TB. Đây là nhóm đối tượng
cũng luôn cần sự trợ giúp của CTXH. Với đối tượng này CTXH không chỉ
can thiệp giải quyết vấn đề cá nhân do những hạn chế về sức khoẻ thể chất,
tinh thần mà còn có thể cung cấp, kết nối họ tiếp cận những nguồn lực nhằm
giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Những trợ giúp của
NVCTXH được thực hiện bằng các phương pháp chuyên môn như CTXH cá
nhân, CTXH nhóm hay CTXH với cộng đồng cùng với các kỹ năng như: giao
tiếp, tham vấn, vãng gia, đánh giá vấn đề, biện hộ, can thiệp khủng hoảng, kết
nối, truyền thông…
Và như vậy chúng ta có thể hiểu môt cách ngắn gọn nhất thì CTXH đối
với TB là một hoạt động chuyên nghiệp của CTXH nhằm trợ giúp TB giải
quyết các vấn đề khó khăn mà họ đang gặp phải từ đó giúp họ phục hồi,
phòng ngừa hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra
những thay đổi về vai trò, vị trí của họ để giúp họ hòa nhập xã hội, đồng thời
thúc đẩy các điều kiện xã hội để họ tiếp cận được với chính sách, nguồn lực
và dịch vụ xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản và quyền của họ để
góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
17
1.2.2. Các lý thuyết tiếp cận trong công tác xã hội với thương binh
Lý thuyết là “công cụ” tư duy khoa học khi thực hiện các hoạt động khoa
học nhất định. Trong hệ thống lý thuyết có rất nhiều lý thuyết khác nhau. Mỗi
lý thuyết đều có những ưu nhược điểm nhất định và được các nhà khoa học,
nhà nghiên cứu ứng dụng một cách linh hoạt vào đề tài của mình. Trong đề tài
“ Công tác xã hội đối với thương binh từ thực tiễn xã Pơng Drang, huyện
Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” tác giả sẽ vận dụng lý thuyết nhu cầu và lý thuyết

về quyền con người.
* Lý thuyết nhu cầu
Là con người xã hội, mỗi người cần có những nhu cầu, nhu cầu về vật
chất và nhu cầu về tinh thần. Các nhu cầu của con người thường rất đa dạng,
phong phú và phát triển. Nhu cầu con người phản ánh mong muốn chủ quan
hoặc khách quan tùy theo hoàn cảnh sống, yếu tố văn hóa, nhân thức và vị trí
xã hội của họ.
Để tồn tại, con người cần phải được đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cơ
bản cần cho sự sống như ăn mặc, nhà ở, chăm sóc y tế… để phát triển con
người cần được đáp ứng các nhu cầu cao hơn, như: nhu cầu được an toàn,
được học hành, được yêu thương, được tôn trọng và khẳng định. Xét cho
cùng sự vận động và phát triển của xã hội loài người nhằm mục đích đáp ứng
ngày càng cao nhu cầu của con người. Việc đáp ứng các nhu cầu con người
chính là động cơ thúc đẩy con người tham gia hoạt động sản xuất, hoạt động
xã hội.
Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow được xem là cha đẻ của lý
thuyết nhu cầu. Theo Maslow, nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ
tự bậc thang từ thấp tới cao - từ các nhu cầu thiết yếu nhất tới các nhu cầu thứ
18
yếu, cao hơn. Khi con người thoả mãn được nhu cầu cấp thấp rồi thì sẽ tiến
tới thoả mãn các nhu cầu cấp cao hơn. [1,tr.17]
Theo đó, ông chia nhu cầu của con người thành 5 thang bặc từ thấp đến
cao đó là: nhu cầu sống, nhu cầu an toàn, nhu cầu thuộc về một nhóm nào đó,
nhu cầu được tôn trọng và cuối cùng là nhu cầu hoàn thiện.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu tác giả tìm
hiểu nhu cầu của những TB theo năm bậc thang về nhu cầu. Từ đó xem xét
các nhu cầu nào đã được đảm bảo, nhu cầu nào chưa được đảm bảo, đảm bảo
ở mức độ nào, có ưu tiên đáp ứng nhu cầu nào trước, nhu cầu nào sau hay
theo trình tự các bậc nhu cầu của nhà tâm lý học A.Maslow.
Dựa theo thang nhu cầu của Maslow thì tác giả nhận thấy hiện nay TB

đang có những nhu cầu như sau:
- Đầu tiên là về nhu cầu sống thì sau những năm tháng tham gia chiến
đấu, công tác ở những nơi gian khổ trở về với cuộc sống đời thường những
người TB họ gặp nhiều khó khăn hơn để theo kịp nhịp sống thay đổi từng
ngày. Bởi hầu hết họ tuổi đã cao, sức khỏe suy giảm nhiều vì thương tật, thiếu
thốn kinh nghiệm trong làm ăn, không có nguồn vốn để đầu tư, trình độ tay
nghề thấp hoặc không có, chính vì vậy đời sống của họ hầu hết còn gặp nhiều
khó khăn, mức sống của họ đa phần chưa thể bằng so với mức sống người dân
nơi cư trú. Cuộc sống của bản thân và gia đình chỉ có thể trông chờ vào khoản
trợ cấp hàng tháng ít ỏi so với những khoản chi tiêu hàng ngày. Hơn thế nữa
một số TB đang còn phải sống trong những căn nhà tạm bợ, dột nát…
- Nhu cầu an toàn: hơn ai hết, những người TB luôn là người hiểu được
sự tàn khốc, mất mát do chiến tranh gây ra, vậy nên bây giờ họ luôn mong
muốn được sống trong khung cảnh hòa bình, được gia đình, người thân và
cộng đồng đùm bọc, yêu thương, quan tâm, chăm sóc và chia sẻ những niềm
vui, nỗi buồn cùng họ. Và bên cạnh đó họ còn muốn được khám chữa bệnh,
19
được cung cấp các trang thiết bị y tế phù hợp với thương tật của họ để giúp
cho vấn đề sinh hoạt hàng ngày được tốt hơn.
- Nhu cầu thuộc về một nhóm nào đó: TB phần lớn là những người tuổi
đã cao vì vậy họ luôn có nhu cầu giao tiếp, nhu cầu về sự yêu thương chia sẻ,
họ không muốn sự cô đơn, bị bỏ ra ngoài lề xã hội, họ mong muốn có hạnh
phúc gia đình, được tham gia và thuộc vào một nhóm, một hội nào đó như là
Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi…
- Nhu cầu được tôn trọng: đối với TB thì đây là một nhu cầu cực kì quan
trọng bởi lẽ họ là những người có nhiều công lao, đóng góp cho cách mạng,
cho tổ quốc vì vậy họ luôn muốn được cộng đồng mà đặc biệt là thế hệ trẻ tôn
vinh, kính trọng, xem họ là tấm gương để noi theo và thừa nhận những giá trị
mà họ đã làm nên cho lịch sử nước nhà.
- Nhu cầu hoàn thiện: Trong cuộc sống những người TB cũng mong

muốn tự khẳng định mình và được xã hội tạo điều kiện để hoàn thiện và phát
triển cá nhân. Cụ thể họ muốn được nói lên tiếng nói của họ, được tham gia
vào xây dựng Đảng, Nhà nước, tham gia vào các hoạt động xã hội…
* Lý thuyết về quyền con người
Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khung lý thuyết có chứa đựng
các nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ thống quyền con người trong
quá trình lập kế hoạch và tiến trình thực hiện hoạt động CTXH. [16,tr.167]
Cách tiếp cận này lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền con người
đã được pháp luật quốc tế bảo vệ. Nhân viên xã hội cần dựa trên hệ thống
quyền con người để xây dựng các phương pháp và hoạt động của những mô
hình phát triển xã hội. Cách tiếp cận này luôn đưa ra đối tượng tác động cụ
thể, đó chính là con người với quyền cơ bản của mình.
Trên phương diện vĩ mô, cách tiếp cận dựa trên quyền con người có bàn
đến tầm quan trọng của nhà nước và chính phủ trong mối quan hệ tương quan
20
với công dân của họ về mặt quyền và nghĩa vụ. Cách tiếp cận theo quyền lôi
kéo sự chú ý của nhà nước về mặt chăm lo đồ sống của những người dân dễ
bị tổn thương kể cả những người dân không thể tự mình đứng lên đòi quyền
lợi cho mình.
Cũng giống như cách tiếp cận khác, tiếp cận quyền con người nhằm
hướng đến việc cải thiện hoàn cảnh của con người, tập trung vào nhu cầu, vấn
đề và tiềm năng của họ. Theo cách này, cách tiếp cận dựa trên quyền có đề
cập đến những vấn đề luôn được coi là trọng yếu đối với sự phát triển, như là
thực phẩm, nước, nhà ở, y tế. Vì vậy, quyền con người vượt lên trên ý niệm
về nhu cầu cơ bản mà chứa đựng một cái nhìn nhân đạo hơn về con người, về
khía cạnh công dân, chính trị, xã hội, kinh tế và vai trò văn hóa. Đồng thời,
nhắc đến quyền con người là nói đến nghĩa vụ và trách nhiệm, trong khi đó
cách tiếp cận theo nhu cầu sẽ không đề cập đến.
Tiếp cận quyền con người là cách tiếp cận mang tính nhân văn. Coi trọng
con người với những quyền mà họ được hưởng, đó là quan điểm hướng tới

giá trị nhân văn cao đẹp về con người. Với cách tiếp cận này, đối tượng dù
đang gặp phải vấn đề khó khăn cũng được tôn trọng như là một con người với
đầy đủ các giá trị. Tiếp cận dựa trên quyền con người là trung tâm, tập chung
vào nhu cầu và tiềm năng của họ để đi tới giải quyết vấn đề. Tiếp cận dựa trên
quyền con người giúp nhân viên xã hội hướng đến các giải pháp mang tính
bền vững.
Và như vậy theo thuyết này thì người TB cần phải có quyền được chăm
sóc về thể chất, về tinh thần, có quyền được được phát triển, quyền được tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước; tham gia các hoạt động xã hội.
Vận dụng lý thuyết này, tác giả sẽ đóng vai trò là người biện hộ, người
tập huấn để trợ giúp TB nâng cao nhận thức, giúp họ tự nhận ra và quyết định
việc tham gia của họ với vai trò là chủ động vào quá trình tìm kiếm sự công
21
bằng cho bản thân và cho nhóm những người cùng hoàn cảnh với họ, để họ
nhận thức rõ được quyền và lợi ích hợp pháp mà họ lẽ ra phải được hưởng.
Đồng thời giúp họ nói lên tiếng nói của mình đối với những cấp chính quyền
cao hơn.
1.2.3. Các nội dung công tác xã hội với thương binh
CTXH được xem là một lĩnh vực hoạt động nhằm giúp đỡ các cá nhân,
gia đình và cộng đồng gặp khó khăn để họ có thể thực hiện tốt các chức năng
xã hội. CTXH triển khai các hoạt động cung cấp dịch vụ cho con người, một
mặt giúp đỡ những người gặp khó khăn, nâng cao năng lực, khả năng ứng phó
và giải quyết các vấn đề khó khăn của họ. Mặt khác, hoạt động CTXH giúp
những người khó khăn tiếp cận các nguồn lực xã hội để đáp ứng các nhu cầu
cá nhân, ngăn ngừa, phòng chống các vấn đề xã hội có thể xảy ra. Trong đề
tài này tác giả xin trình bày 3 hoạt động chính của CTXH đối với TB bao
gồm:
* Hoạt động hỗ trợ nguồn lực cho thương binh
- Thúc đẩy, phục hồi, duy trì, nâng cao năng lực và tăng cường khả năng
tự giải quyết vấn đề của TB thông qua hoạt động trợ giúp, phòng ngừa và phát

huy nguồn lực trong xã hội. Bằng các kiến thức kỹ năng chuyên môn,
NVCTXH trợ giúp đối tượng giải quyết vấn đề thông qua các hoạt động kết
nối nguồn lực, giới thiệu dịch vụ, phát huy tiềm năng, nội lực và ngoại lực
của các nhóm đối tượng để giúp họ tự giải quyết vấn đề của mình. Như vậy
trong hoạt động trợ giúp cụ thể, NVCTXH có thể là người tham vấn giúp TB
thay đổi cảm xúc, suy nghĩ và thay đổi hành vi. NVCTXH còn có thể là người
tập huấn với vai trò định hướng, cung cấp cho TB kiến thức, kỹ năng để tự
phân tích, xác định vấn đề và có khả năng đưa ra quyết định đúng đắn.
- Nối kết TB với hệ thống nguồn lực, dịch vụ và những cơ hội trong xã
hội. Người NVCTXH giới thiệu cho TB những nguồn lực mà họ không biết
22

×