Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Tính chủ thể của con người trong phát triển bền vững hệ sinh thái nhân văn ở vùng đô thị mới đan phượng, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.34 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐÀO THU TRANG
TÍNH CHỦ THỂ CỦA CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG HỆ SINH THÁI NHÂN VĂN Ở VÙNG ĐÔ THỊ MỚI
ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Vũ Quang Mạnh
Hà Nội, 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội loài người ngày càng phát triển, nhờ có những thành tựu của
khoa học công nghệ con người đã có những bước tiến vượt bậc trong công
cuộc cải biến tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đạt được đã xuất hiện nhiều xu hướng tiêu cực đang ngày một ảnh hưởng
nghiêm trọng tới cuộc sống của con người, đặc biệt là vấn đề suy thoái môi
trường. Những biểu hiện của tình trạng suy thoái môi trường như: tài nguyên
thiên nhiên suy kiệt, môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng, khủng hoảng
sinh thái toàn cầu… luôn ở tình trạng báo động và là vấn đề bức xúc, mối lo
ngại của toàn xã hội.
Sự phát triển của con người, của sản xuất xã hội và các vấn đề môi
trường kể trên thể hiện mâu thuẫn giữa giữa sản xuất xã hội và môi trường tự
nhiên. Mâu thuẫn này luôn tồn tại trong mọi thời đại nhưng ngày nay nó đã
trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Nguyên nhân là do chúng ta đã phạm sai lầm
trong giải quyết mâu thuẫn. Sự phát triển nếu chỉ nhằm mục đích thỏa mãn
nhu cầu sống của mình và sự phát triển xã hội mà không quan tâm đến tự
nhiên – môi trường sống của con người và xã hội loài người sẽ làm mất cân


bằng trong mối quan hệ tương tác giữa xã hội con người với tư cách là một hệ
thống sống với môi trường xung quanh. Điều đó đòi hỏi con người cần phải
nhận thức lại vấn đề này và có những biện pháp cụ thể để khắc phục tình
trạng trên.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam cũng đang đứng trước
tình trạng suy thoái nghiêm trọng về môi trường. Việt Nam đang đẩy nhanh
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển đất nước,
nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân. Gắn liền với công cuộc công
nghiệp hóa, quá trình đô thị hóa cũng đang tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất
1
lượng. Sự phát triển nhanh quá trình đô thị hóa bên cạnh những điểm tích cực
cũng đã bộc lộ nhiều bất cập đáng lo ngại: công tác quy hoạch và quản lý quy
hoạch chưa được quan tâm đầu tư đúng mức; kết cấu hạ tầng kỹ thuật chưa
đồng bộ… điều đáng lo ngại hơn cả là những hệ quả về môi trường khiến cho
các đô thị hiện nay đang đứng trước nguy cơ phát triển không bền vững.
Thực trạng hệ sinh thái nhân văn đô thị hiện nay cũng có nhiều bức xúc
đặt ra như ô nhiễm môi trường sống, sự gia tăng bạo lực và các hành vi tội
ác… đòi hỏi chúng ta với tư cách là một yếu tố cấu thành, chủ thể xây dựng
hệ sinh thái nhân văn phải có những biện pháp để khắc phục những bất cập
của quá trình đô thị hóa nói chung, những mặt trái của hệ sinh thái đô thị nói
riêng. Chính vì vậy, vấn đề phát huy vai trò chủ thể của con người trong xây
dựng hệ sinh thái nhân văn bền vững cho các khu đô thị hiện nay là một vấn
đề cần thiết và cấp bách.
Đan Phượng là một huyện nhỏ của thành phố Hà Nội, với lợi thế của
một huyện ven đô “nhất cận thị, nhị cận giang” những năm qua, Đan Phượng
đã có những nước phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, đời sống người dân
được cải thiện rõ rệt. Không chỉ có thế mạnh về nông nghiệp, chăn nuôi, Đan
phượng còn là địa phương phát triển mạnh về công nghiệp, thương mại và
dịch vụ. Các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp, khu đô thị phát triển nhanh
(cụm công nghiệp Tân Lập, cụm công nghiệp thị trấn Phùng, điểm công

nghiệp Đan Phượng, Phương Đình, Liên Hà… Khu đô thị Tân Tây Đô, khu
đô thị mới Tân Lập, khu đô thị sinh thái cao cấp Đan Phượng…). Với những
ưu thế trên, tác giả lựa chọn vùng đô thị mới Đan Phượng, thành phố Hà Nội
làm đối tượng nghiên cứu và thực hiện đề tài “Tính chủ thể của con người
trong sự phát triển bền vững hệ sinh thái nhân văn ở vùng đô thị mới Đan
Phượng, thành phố Hà Nội”.
2
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hệ sinh thái nhân văn là sự tương tác chặt chẽ, cân bằng động giữa ba
yếu tố: tự nhiên, con người và xã hội. Một hệ sinh thái nhân văn bền vững là
cơ sở để con người có điều kiện tồn tại và phát triển tốt nhất. Với vị trí và vai
trò như vậy, vấn đề sinh thái nhân văn và xây dựng hệ sinh thái nhân văn bền
vững được nhiều tổ chức và nhà nghiên cứu quan tâm.
Ăngghen trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” viết năm 1873 –
1883 và được bổ sung thêm vào những năm 1885 – 1886 đã có nhiều tư tưởng
biện chứng trong nhận thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, chỉ ra
được thực chất của sự điều khiển một cách tự giác các mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên đó là “Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự
nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác. Chúng ta nằm
trong lòng giới tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự
nhiên là ở chỗ chúng ta khác với tất cả các sinh vật khác, chúng ta nhận thức
được các quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được quy luật đó một
cách chính xác” [45].
Ở Việt Nam vấn đề sinh thái nhân văn cũng được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu ở các góc độ khác nhau như: Tác giả Nguyễn Đình Khoa viết
“Môi trường sống và con người” năm 1987 đã đề cập đến mối quan hệ giữa
loài người và môi trường sống ở một số khía cạnh: Sự sử dụng của con người
với các tài nguyên thiên nhiên như năng lượng, khoáng sản, tài nguyên phục
hồi và hệ nông nghiệp; ô nhiễm và bảo vệ môi trường; những vấn đề liên
quan đến dân số - sức khỏe – bệnh tật… [12].

Lê Trọng Cúc trong cuốn “Một số vấn đề sinh thái nhân văn ở Việt
Nam” viết năm 1995 đã bước đầu làm rõ được những khái niệm cơ bản của
sinh thái nhân văn, hệ sinh thái, sinh thái nông nghiệp, con người và đa dạng
sinh học, sinh thái nhân văn và phát triển ở Việt Nam. Trong đó tác giả tập
3
trung làm rõ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên: dân số, chính sách
kinh tế - xã hội – môi trường ở Việt Nam [7].
Trong cuốn “Sinh thái nhân văn” của tác giả Nguyễn Hoàng Trí xuất
bản năm 2007 cũng đã cho người đọc tiếp cận với sinh thái nhân văn và đặt
vấn đề “con người là công dân sinh thái”. Ở đây, tác giả đã đặt ra và giải
quyết nhiều vấn đề của sinh thái nhân văn: phân tích mối quan hệ giữa dân số,
chất thải và vấn đề ô nhiễm môi trường; nâng cao được nhận thức về xã hội
và chất lượng cuộc sống; đặc biệt, tác giả làm rõ các yêu cầu của sự phát triển
bền vững, nhất là trong kinh tế - xã hội và phân tích được mối tương quan
giữa sức khỏe hệ sinh thái và lối sống của con người [38].
Bàn về vấn đề mối quan hệ giữa con người và môi trường tác giả
Nguyễn Xuân Kính trong cuốn “Con người, Môi trường và Văn hóa” đã đề
cập và giải quyết một số vấn đề: con người và môi trường; ứng xử của người
Việt đối với nước…[13] Gần đây trong cuốn “Môi trường và con người sinh
thái học nhân văn” xuất bản năm 2011 của các tác giả Vũ Quang Mạnh và
Hoàng Duy Chúc đã khảo sát, phân tích và giải quyết vấn đề mối quan hệ
tương tác của con người trong hệ thống “Con người – tự nhiên – xã hội” liên
quan đến sự phát triển bền vững của hệ sinh thái nhân văn…[22]
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên còn có một số bài viết của
các tác giả nghiên cứu về vấn đề sinh thái nhân văn và mối quan hệ của sinh
thái nhân văn với các vấn đề của con người và xã hội loài người. Tiêu biểu
như: Tác giả Vũ Minh Tâm có bài viết về “Văn hóa sinh thái, nhân văn và hệ
thống tự nhiên, con người, xã hội” đăng trên tạp chí Khoa học xã hội năm
2002 [35]. Trong bài viết này tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề sinh thái –
nhân văn và đặc biệt nhấn mạnh đến văn hóa sinh thái – nhân văn với tư cách

là cách ứng xử của chủ thể – con người đối với khách thể – tự nhiên, tức là
4
chú trọng đến đạo đức sinh thái. Bên cạnh đó, tác giả đưa ra một số định
hướng góp phần xây dựng đạo đức sinh thái mới cho con người….
Nhìn chung, trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã đề
cập và trình bày một cách khái quát và hệ thống thực trạng và các vấn đề của
sinh thái nhân văn. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu, lí giải những vấn đề cơ bản của sinh thái nhân văn mà chưa đề
cập một cách trực tiếp đến vấn đề phát huy tính chủ thể của con người trong
xây dựng hệ sinh thái bền vững. Với tính cấp thiết của đề tài và sự thôi thúc
tìm tòi nghiên cứu khoa học, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Tính chủ
thể của con người trong sự phát triển bền vững hệ sinh thái nhân văn ở vùng
đô thị mới Đan Phượng, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của mình
nhằm góp phần làm rõ tính chủ thể của con người trong xây dựng hệ sinh thái
nhân văn; đề xuất giải pháp góp phần phát huy tính chủ thể của cộng đồng
dân cư vùng đô thị mới Đan Phượng, thành phố Hà Nội trong việc phát triển
bền vững hệ sinh thái nhân văn của vùng.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu tính chủ thể của con người trong hệ
sinh thái nhân văn trên cơ sở khảo sát cộng đồng dân cư vùng đô thị mới Đan
Phượng, thành phố Hà Nội. Từ các phân tích đó đề tài đề xuất một số giiar
pháp góp phần phát huy tính chủ thể của con người trong việc phát triển bền
vững hệ sinh thái nhân văn ở vùng nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là cấu trúc sinh thái nhân
văn và tính chủ thể của của cộng đồng dân cư vùng đô thị mới Đan Phượng,
thành phố Hà Nội.
4. Luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
Để đạt được mục đích đề ra của luận văn, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu trên các luận điểm cơ bản sau:
5

- Nghiên cứu tính chủ thể của con người trong hệ sinh thái nhân văn.
- Khảo sát tính chủ thể của con người trong cấu trúc của hệ sinh thái
nhân văn ở vùng đô thị mới Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp góp phần phát huy tính chủ thể của cộng đồng dân cư
vùng nghiên cứu trong xây dựng hệ sinh thái nhân văn bền vững của vùng.
Đóng góp mới của luận văn: luận văn làm rõ tính chủ thể của con người
trong hệ sinh thái nhân văn nói chung, ở vùng đô thị mới Đan Phượng, thành
phố Hà Nội nói riêng và qua đó đề xuất các giải pháp phát huy tính chủ thể
của cộng đồng dân cư ở vùng nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biên chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn sử dụng kết hợp
các phương pháp sau:
Phương pháp lí luận:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
- Phương pháp logic – lịch sử.
- Phương pháp cụ thể - trừu tượng
Phương pháp thực tiễn:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, thống kê.
- Phương pháp khảo sát thực địa.
- Phương pháp điều tra
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 2 chương, 5 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍNH CHỦ THỂ
CỦA CON NGƯỜI TRONG HỆ SINH THÁI NHÂN VĂN
6
1.1. Hệ sinh thái nhân văn và phát triển bền vững

1.1.1. Hệ sinh thái nhân văn
1.1.1.1. Khái niệm hệ sinh thái nhân văn
Hệ sinh thái là một hệ thống bao gồm các sinh vật tác động qua lại với
môi trường bằng các dòng năng lượng tạo nên cấu trúc dinh dưỡng nhất định
đa dạng về các loài và các chu trình vật chất. Nó là một hệ chức năng bao
gồm các nhân tố vô sinh và sinh vật luôn luôn tác động tương hỗ với nhau
làm thành một hệ thống thống nhất. Hoạt động của hệ sinh thái tuân theo các
quy luật chung của lý thuyết hệ thống. Nó được xác định như một tập hợp các
đối tượng hoặc các thuộc tính liên kết bằng nhiều mối tương tác và có xu
hướng tự điều chỉnh để tiến tới cân bằng làm cho các thành phần của hệ nằm
trong sự tác động hài hòa và ổn định. Hệ sinh thái được chia thành hệ sinh
thái nhân tạo và hệ sinh thái tự nhiên trong đó, hệ sinh thái nhân văn là một
dạng của hệ sinh thái nhân tạo.
Hệ sinh thái nhân văn có thể hiểu là hệ sinh thái chịu ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp của loài người. Nó “là một hệ sinh thái bao gồm các hệ sinh
thái nông nghiệp, công nghiệp; hệ sinh thái vùng núi, đại dương, thảo nguyên,
vùng cực, vũ trụ… Như vậy, tính chất của hệ sinh thái nhân văn là nó gắn liền
với sự có mặt, với hoạt động của loài người và phụ thuộc vào đặc điểm của
mỗi vùng địa lý cụ thể” [22, tr. 175].
Xét về bản chất, hệ sinh thái nhân văn là một kiểu hệ thống đặc biệt
được cấu tạo từ các hệ xã hội và hệ sinh thái, giữa các hệ này có mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau dựa trên nguyên tắc quan hệ có tính hệ thống giữa
xã hội loài người và tự nhiên. Hệ sinh thái là đối tượng nghiên cứu chính của
sinh học, hệ xã hội là đối tượng nghiên cứu chính của các ngành khoa học xã
hội. Trong hệ sinh thái nhân văn có sự kết hợp phức tạp của một tập hợp các
yếu tố nhân văn (kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, tâm lý…) và các yếu tố
7
sinh học – vật lí của môi trường. Tiếp cận hệ sinh thái nhân văn là tiếp cận
đồng thời cả hai hệ trong quá trình chúng tương tác với nhau và thông qua đó
tự tổ chức, sắp xếp thành một thể thống nhất. Như vậy, thực chất “hệ sinh thái

nhân văn là tổng thể của hai hệ thống, bao gồm hệ xã hội của loài người và hệ
tự nhiên mà hai hệ thống đó tác động qua lại với nhau trong sự thống nhất
tương hỗ của tự nhiên và xã hội” [40, tr.15].
Giống như hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái nhân văn cũng bao gồm
quần xã sinh vật và môi trường sống, trong đó con người là một sinh vật trong
quần xã nhưng là một sinh vật có vị trí và vai trò đặc biệt. Sự xuất hiện của
con người đã làm biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên, làm phá vỡ sự cân bằng
của chúng. Không giống với các sinh vật khác trong các hệ tự nhiên (thường
phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên), con người có trí tuệ, có khoa học công
nghệ, họ sáng tạo ra các hệ giá trị văn hóa, đạo đức, hình thành các tổ chức xã
hội… nên quần thể người khác với quần thể sinh vật và được gọi là quần thể
nhân văn. Việc quần thể người thích nghi một cách chủ động và khai thác môi
trường sinh thái để nhằm đạt được những mục đích riêng của mình đã tác
động vào cân bằng sinh thái của hệ sinh thái tự nhiên. Thời nguyên thủy, khi
loài người mới xuất hiện, con người đã bước đầu biết khai thác tự nhiên,
nhưng do mức độ còn thấp nên chưa gây ảnh hưởng, tác động nhiều tới sự cân
bằng của môi trường sống. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người
hình thành và phát sinh năng lực sáng tạo văn hóa với nhịp độ ngày càng tăng.
Cùng với sự gia tăng dân số và sự phát triển của khoa học, tài nguyên thiên
nhiên bị con người khai thác một cách triệt để dẫn đến mất cân bằng sinh thái.
Bắt đầu từ cuộc cách mạng kĩ thuật đầu tiên trong lịch sử - cách mạng nông
nghiệp thời đại Đồ đá mới, loài người đã nước vào nền văn minh của mình và
quan trọng hơn, những tác động của loài người vào tự nhiên lúc này đã tác
động mạnh mẽ vào hệ sinh thái tự nhiên làm cho các hệ sinh thái tự nhiên
8
chuyển dần thành các hệ sinh thái nhân văn. Ngày nay, với sự phát triển của
khoa học công nghệ, sự ảnh hưởng, tác động của con người đến tự nhiên là vô
cùng lớn. Loài người không chỉ biết tác động làm biến đổi hệ sinh thái và môi
trường tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu phát triển ngày càng cao của mình mà
còn chủ động xây dựng nên những hệ sinh thái nhân tạo theo những mục đích

riêng. Nhìn tổng thể, hiện nay không một hệ sinh thái nào lại không chịu tác
động ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp của loài người, toàn bộ trái đất là một phức
hệ sinh thái nhân văn khổng lồ luôn chịu tác động của loài người. Điều đó thể
hiện vai trò quyết định của loài người trong sự hình thành và phát triển của các
hệ sinh thái nhân văn.
Trong hệ sinh thái nhân văn, quần thể người được gọi là quần thể nhân
văn và theo đó môi trường sống của con người cũng được gọi là môi trường
sinh thái nhân văn. Đối với con người, môi trường sinh thái nhân văn là tổng
hòa tất cả các yếu tố vô cơ và hữu cơ, tự nhiên và xã hội, liên quan đến sự
sống của con người và liên quan đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con
người là hệ thống vật chất sống, tồn tại như một cơ thể sống hoàn chỉnh trong
môi trường tự nhiên giống như các loài sinh vật khác. Song con người không
chỉ tồn tại trong môi trường tự nhiên mà còn tồn tại trong những mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau giữa người với người trong quá trình sản xuất gọi là
môi trường xã hội. Sự tương tác giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội tạo thành môi trường sinh thái nhân văn. Do đó, môi trường sinh thái nhân
văn chính là môi trường sống của con người. Ở đó, con người vừa đóng vai
trò là một loài sinh học, vừa đóng vai trò là thực thể xã hội. Như vậy, trong
quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người đã tạo ra một môi trường
sống mới – môi trường xã hội, khác về chất với môi trường tự nhiên, song sự
sống của con người và sự tồn tại, phát triển của xã hội không thể tách rời khỏi
môi trường tự nhiên. “Nếu theo cách hiểu truyền thống, môi trường sinh học
9
là tập hợp toàn bộ những vấn đề có liên quan đến sự tác động qua lại giữa thế
giới sinh vật tự nhiên trong đó bao gồm con người, với môi trường sống thì
vấn đề sinh thái nhân văn lại bao gồm tất cả các vấn đề có liên quan đến mối
quan hệ tương tác, giữa xã hội con người với tư cách là một hệ thống sống với
môi trường xung quanh” [22, tr. 175]. Như vậy, xét về mặt cấu trúc hệ sinh
thái nhân văn là một hệ thống thống nhất bao hàm sự tương tác chặt chẽ và
cân bằng động giữa ba nhóm yếu tố tự nhiên, con người và xã hội. Trong đó,

tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan, còn con người và xã
hội loài người là những thành phần cấu trúc đặc thù, gắn bó chặt chẽ với thế
giới tự nhiên.
Nhìn chung, sự can thiệp, tác động của con người và xã hội loài người
vào các hệ sinh thái tự nhiên chính là điều kiện tiên quyết dẫn đến sự ra đời
của các hệ sinh thái nhân văn. Một khi sự can thiệp, tác động ấy trở thành sự
chi phối có tính quyết định đến các hệ sinh thái tự nhiên thì con người đã làm
cho hệ sinh thái tự nhiên trở thành hệ sinh thái nhân văn. Ngày nay, sự tác
động của con người vào tự nhiên đang ngày càng trở nên sâu sắc hình thành
nhiều hệ sinh thái nhân văn, căn cứ vào tác động và mức độ tham gia hoạt
động của con người mà tính nhân văn của các hệ sinh thái được biểu hiện ở
các mức độ khác nhau.
1.1.1.2. Hệ sinh thái đô thị
Đô thị là tên gọi chung của các thành phố, thị xã, thị trấn. Đây là nơi
tập trung dân cư đông đúc, là trung tâm của một vùng lãnh thổ với các hoạt
động kinh tế chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ. Con người xây dựng đô thị
do dân số tăng nhanh, kéo theo đó là nhu cầu ngày càng cao trong việc cung
cấp nơi ở, phát triển kinh tế và thỏa mãn những nhu cầu khác của con người.
Tiếp cận trên quan điểm sinh thái học thì các thành phố, thị trấn là những hệ
sinh thái đô thị. Nghiên cứu hệ sinh thái đô thị thực chất là nghiên cứu mối
10
quan hệ giữa con người và môi trường xung quanh trên địa bàn đô thị để từ đó
đưa ra các giải pháp quy hoạch đô thị, tổ chức sản xuất và đề ra các biện pháp
bảo vệ môi trường sống. Các hệ sinh thái đô thị được xây dựng theo nhu cầu
của con người từ cấu trúc sinh thái, cảnh quan đô thị, các công trình đường
xá, cầu cống, thậm chí động thực vật trong đô thị… tồn tại cũng đều do tác
động của con người, do con người can thiệp. Như vậy, trong hệ sinh thái đô
thị, hoạt động của con người có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của hệ vì vậy nó là hệ sinh thái mà trong đó tính nhân văn được biểu hiện rõ
ràng nhất.

Về đặc điểm của hệ sinh thái đô thị, tác giả Vũ Quang Mạnh và tác
giả Hoàng Duy Chúc đã cho chúng ta tiếp cận một cách khá cơ bản. Theo
tác giả, “nhìn các thành phố, các đô thị là một hệ sinh thái, với ý nghĩa
chúng được con người xây dựng và con người là thành phần ưu thế của
loại hệ sinh thái này.
Con người sống trong các khu đô thị, thành phố dường như độc lập
hoàn toàn với thiên nhiên và điều kiện môi trường xung quanh. Trong thành
phố ta gặp các công trình: nhà cửa, đường sá, phương tiện giao thông, ánh
sáng và nguồn nước nhân tạo. Trong từng căn hộ sống con người đã chế ngự
được thời tiết, luôn đảm bảo có nhiệt độ tối ưu cho hoạt động sống của con
người. Con người trong thành phố bị tách khỏi cơ sở thiên nhiên của họ.
Thành phố có rất ít sinh vật sống tự nhiên, bởi vì điều kiện sinh thái
quá nhân tạo và chỉ thích hợp cho sự sống của con người. Chó mèo do người
nuôi và chó mèo hoang dại cũng gây ra một số phiền phức cho con người.
Gián và chuột là những động vật hoang, có vai trò như những “véctơ” mang
bệnh cho người. Trong thành phần tự nhiên cũng có rất ít cây cỏ và chúng
thường được trồng nhân tạo trong các công viên.
11
Dân thành phố ít có dịp tiếp xúc với môi trường thiên nhiên, với các
sinh vật sống và với cả thế giới vô sinh. Họ chỉ tiếp xúc con người với nhau,
với nhà cửa, giao thông và với công việc.
Hệ sinh thái đô thị luôn cần cây xanh để làm giảm nhiệt độ, làm sạch
không khí, làm dịu tiếng ồn. Nhưng ngay cả khi có nhiều cây xanh, thành phố
vẫn là một hệ sinh thái không tự duy trì được. Nó luôn cần được cung cấp
lương thực, tài nguyên và năng lượng từ các môi trường xung quanh và giải
phóng các loại phế thải ra môi trường bên ngoài.
Thành phố cần có nguồn vào là nguyên vật liệu và năng lượng. Nguyên
vật liệu là tất cả các vật chất được cấu tạo từ các thành phần như các kim loại,
hay nhiều thành phần như gỗ. Các vật liệu còn có thịt, lương thực, áo quần…
Loại nguồn vào thứ hai là năng lượng. Năng lượng ở đây có thể kể như

năng lượng tích trữ cho các hoạt động máy móc (xăng, dầu, than đá); hay
năng lượng cung cấp cho các hoạt động của cơ thể người (lương thực, thức
ăn). Năng lượng của hệ sinh thái đô thị dưới nhiều dạng như điện lực, gió, hơi
nước, ánh sáng mặt trời, chất đốt… Năng lượng còn đến dưới dạng các liên
kết hóa học cần cho người và động vật trong thành phố. Cho dù ở dạng nào
thì năng lượng luôn tuân theo các quy luật nhiệt động học. Mà cụ thể là: Năng
lượng không bị mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác và trong tất
cả các biến hóa của năng lượng luôn có một phần năng lượng được sử dụng
có ích.
Thông thường các nguyên liệu thu vào của thành phố được chuyển
thành một số dạng khác. Chẳng hạn sắt thép được chế biến thành các sản
phẩm xây dựng nhà cửa, các công trình kiến trúc. Còn lương thực và thực
phẩm được tạo thành những mô cấu trúc của cơ thể. Nói chung các sản phẩm
của đầu vào hệ sinh thái đô thị được chế biến thành những sản phẩm cần thiết
12
cho hoạt động của nó. Nhưng cũng có một phần đáng kể trong số đó trở thành
những phế liệu và rác thải của hệ sinh thái này.
Các hệ sinh thái tự nhiên có khả năng tự duy trì, còn hệ sinh thái đô thị
sẽ sụp đổ nếu nó không được liên tục tiếp nhận các nguồn nguyên liệu và
năng lượng vào từ các vùng quê xung quanh.
Khi xem xét thành phố như một hệ sinh thái thì phải đánh giá nguồn vật
liệu là năng lượng vào cũng như các vật liệu ra của đầu ra một cách kĩ càng
và chính xác. Nhiều chuyên gia có tay nghề cao phải làm việc trên nhiều
lĩnh vực chuyên môn, phục vụ các hoạt động bình thường của các thành
phố. Các nhóm sinh vật sống ở trong thành phố và ở các môi trường xung
quanh thành phố cũng phải hoạt động nhịp nhàng để cung cấp các sản
phẩm, đảm bảo cho sự sống của thành phố”. [22, tr. 247]
Qua đó, chúng ta có thể thấy, với vai trò quyết định của hoạt động con
người đối với sự tồn tại và phát triển của hệ thì tính nhân văn của hệ sinh thái
đô thị được biểu hiện rõ ràng hơn cả. Chính vì vậy, trong nghiên cứu, tìm hiểu

hệ sinh thái đô thị cần đánh giá đúng mức vai trò của hoạt động của con người
tác động vào môi trường sinh thái theo những nguyên lí của sinh thái học.
1.1.2. Phát triển bền vững
Xã hội ngày càng phát triển, loài người hiện nay đã có những bước tiến
vượt bậc trong công cuộc cải biến giới tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu tồn
tại và phát triển của mình. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, loài người
đã và đang phải đứng trước các vấn đề tiêu cực của xã hội và đặc biệt là nguy
cơ mất cân bằng sinh thái. Thực trạng đó là biểu hiện của mâu thuẫn giữa sự
phát triển của sản xuất xã hội với môi trường tự nhiên và yêu cầu bức thiết đặt
ra là con người cần phải nhìn nhận và đánh giá lại mục tiêu, cách thức phát
triển cho phù hợp. Đó là một trong những cơ sở quan trọng dẫn tới sự ra đời
của quan điểm về phát triển bền vững.
13
1.1.2.1. Khái niệm phát triển bền vững
Thuật ngữ phát triển bền vững (Sustainble Development) được Hiệp
hội Quốc tế bảo tồn thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên nêu lần đầu tiên
năm 1980. Nhưng phải đến năm 1987 định nghĩa về phát triển bền vững mới
được Ủy ban Môi trường và phát triển thế giới của Liên hiệp quốc chính thức
nêu lên trong báo cáo Tương lai chung của chúng ta (1987). Theo đó: “Phát
triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu của hiện tại
nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”
[44, tr. 43]. Qua định nghĩa này chúng ta thấy phát triển bền vững không chỉ ở
vấn đề sinh thái mà còn bao hàm cả các vấn đề xã hội. Ngoài yêu cầu giữ gìn,
bảo vệ tự nhiên, duy trì mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên, phát
triển bền vững còn đặc biệt chú ý tới các vấn đề xã hội. Nhìn chung, nó quan
tâm tới yêu cầu phát triển xã hội một cách toàn diện.
Nội hàm của khái niệm phát triển bền vững được Liên hiệp Quốc tái
khẳng định và được bổ sung đầy đủ tại Hội nghị Rio 1992, Hội nghị
Johannesburg 2002 và Hội nghị Rio+20 (6/2012). Tại các Hội nghị này, khái
niệm phát triển bền vững được mở rộng và cụ thể hóa hơn. Các vấn đề về dân

số và cạn kiệt tài nguyên không còn là trọng tâm mà trọng tâm được đề cập
đến là con người. Con người vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu cần hướng tới
của phát triển bền vững. Nhìn chung, có thể hiểu phát triển bền vững là “sự
phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của thế hệ con người hiện nay và
không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các
nhu cầu của họ” [1, tr. 3].
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, “phát triển là một
phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật” [42,
14
tr.188]. Theo đó, phát triển không chỉ là sự tăng lên, giảm đi đơn thuần về
lượng mà còn là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn của
sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn. Còn thuật ngữ “bền vững” có thể
hiểu là một thuộc tính thể hiện sự tồn tại có tính ổn định và tương đối lâu dài
về mặt thời gian của sự vật. Nói như vậy không có nghĩa “bền vững” là sự tồn
tại bất biến, vĩnh cửu mà thực chất nó chỉ là sự phát triển nằm trong một giới
hạn vận động nào đó của sự vật. Bản thân nó vẫn là một quá trình vận động
phát triển liên tục nhưng lại mang tính ổn định, lâu dài. Như vậy, theo cách
tiếp cận này, sự phát triển được gọi là bền vững khi và chỉ khi nó được cân
nhắc và đánh giá cho phù hợp, các nguồn lực của sự phát triển phải luôn được
duy trì trong trạng thái cân bằng, phát triển hài hòa, hướng tới mục tiêu phát
triển lâu dài, đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội.
1.1.2.2. Vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trước những biến động sinh thái toàn cầu, vấn đề phát
triển bền vững đã và đang là nội dung quan trọng được toàn xã hội quan tâm.
Các chiến lược nhằm đưa đất nước phát triển theo hướng bền vững đang từng
bước được thực hiện. Gần đây nhất, trong “Quyết định phê duyệt Chiến lược
Phát triển bền vững Việt Nam” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các
quan điểm, mục tiêu và định hướng ưu tiên nhằm phát triển bền vững giai

đoạn 2011 – 2020 cũng đã được vạch rõ. Cụ thể:
Quan điểm về phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020 được xác định:
“Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân
tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát
triển bền vững; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần
của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội
nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước.
15
Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất
nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển
xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật
tự an toàn xã hội.
Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ
hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được
tham gia, đóng góp và hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và
văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài
nguyên, đặc biệt là loại tài nguyên không thể tái tạo, gìn giữ và cải thiện môi
trường sống; xây dựng xã hội học tập; xây dựng lối sống thân thiện môi
trường, sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển bền vững
đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu
tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất” [50, tr. 1,2 ].
Về mục tiêu của phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020:
Mục tiêu tổng quát được xác định là: “tăng trưởng bền vững, có hiệu
quả, đi đôi với tiến độ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia”[50, tr. 2].
Mục tiêu cụ thể:
“Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các cân đối lớn; giữ vững

an ninh năng lượng, an ninh tài chính. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang
phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu; từng bước thực hiện tăng
trưởng xanh, phát triển kinh tế cácbon thấp. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả mọi
nguồn lực.
Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công băng, văn minh;
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh
16
phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, tinh thần,
năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển quan trọng. Giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường.
Khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, thiên nhiên, đặc
biệt là tài nguyên không tái tạo. Phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm,
suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ và phát triển rừng,
bảo tồn đa dạng sinh học. Hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng có
hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng” [50, tr. 2].
Nhìn chung, phát triển bền vững không đơn giản chỉ là sự phát triển
đơn thuần ở bất cứ một lĩnh vực nào mà nó là sự phát triển hài hòa của mọi
nguồn lực nhằm hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người và xã hội,
bảo vệ môi trường sống, đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội.
1.1.2.3. Phát triển bền vững hệ sinh thái đô thị
Theo tác giả Vũ Quang Mạnh, một xã hội được coi là bền vững sinh
thái khi: 1 – Bảo vệ được các hệ sinh thái cung cấp sự sống và tính đa dạng
sinh học; 2 – Bảo đảm việc sử dụng tài nguyên tái tạo bền vững và giảm tối
thiểu việc làm giảm nguồn tài nguyên không tái tạo; 3 – Giữ trong khả năng
chịu đựng được của các hệ nuôi dưỡng sự sống [22, tr. 202].
Hệ sinh thái đô thị là một hệ sinh thái nhân văn điển hình. Nó là một hệ
sinh thái nhân tạo, được xây dựng theo nhu cầu của con người. Muốn cho hệ

sinh thái đô thị tồn tại, cân bằng và phát triển lâu bền cần phải xem xét và
phân tích các tác động của con người vào môi trường theo những nguyên lí
của sinh thái học. Theo đó, hệ sinh thái đô thị muốn giữ được mức độ ổn định
17
tương đối trước hết cần phải đảm bảo các nguyên tắc sinh thái trong quy
hoạch như sau:
“Nguyên tắc 1: Tổ chức quy hoạch đô thị một cách hợp lý – xác định
một cách rõ ràng ranh giới của các vùng đô thị thông qua việc phân vùng theo
khu vực. Sự phân vùng này phải được dựa trên các yếu tố: theo không gian;
theo cơ cấu chức năng; theo hệ thống kỹ thuật công nghệ để đảm bảo cho
dòng năng lượng của hệ sinh thái được ổn định.
Nguyên tắc 2: Tổ chức tối ưu mạng lưới giao thông đô thị hạn chế tới
mức tối thiểu việc đi lại bên trong thành phố (để giảm bớt lượng tiếng ồn và ô
nhiễm không khí).
Nguyên tắc 3: Tạo lập và giữ gìn các không gian xanh ở trong vùng trung
tâm, đồng thời bảo bên đất rừng tự nhiên ở bên cạnh các khu đô thị” [36, tr. 75].
Xuất phát từ quan điểm về phát triển bền vững, nhiều nhà khoa học,
dưới sự chi phối của các lĩnh vực hoạt động của mình, đã đưa ra nhiều quan
niệm phát triển đô thị bền vững khác nhau. Tiêu biểu:
“Các nhà sinh thái đưa ra các tiêu chuẩn để phát triển đô thị bền vững
như sau: (1) Phát triển nhà ở theo chiều cao để tiết kiệm nguyên, nhiên vật
liệu và mặt bằng; (2) Bảo tồn địa hình địa mạo tự nhiên; (3) Tránh xây dựng
thành phố trong thung lũng vì đất ở đấy phì nhiêu và dễ lở; (4) Bảo vệ và phát
triển cây xanh đô thị; (5) Khuyến khích tiết kiệm nước; (6) Hạn chế sử dụng
phương tiện di chuyển có động cơ; (7)Tái sinh vật liệu phế thải.
Các nhà ngân hàng chú trọng đến lĩnh vực tài chính. Theo họ, phát
triển đô thị bền vững có 4 tiêu chí: (1) Đảm bảo và phát triển khả năng
cạnh tranh của thành phố; (2) Đảm bảo cuộc sống của cư dân tốt hơn; (3)
Nền tài chính lành mạnh (nguồn thu, các chính sách tài chính, nguồn lực);
(4) Quản lý đô thị tốt.

18
Các nhà nghiên cứu và quản lý chú trọng đến đường lối: (1) Lấy chỉ
tiêu HDI (chỉ số phát triển của con người) để đánh giá đô thị chứ không dựa
vào quy mô dân số, kinh tế hay xây dựng như trước đây; (2) Giải quyết hài
hòa mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị; (3) Sự phối hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và quản lý” [37, tr 83].
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiên nêu ra những kinh nghiệm xây dựng
đô thị theo yêu cầu phát triển bền vững dựa trên kinh nghiệm của Cộng hòa
Liên bang Đức như sau: (1) Đánh giá đô thị dựa trên chỉ tiêu chất lượng cuộc
sống; (2) Phát triển đô thị gắn chặt với phân vùng; (3) Thành phần tham gia
vào quy hoạch đô thị không chỉ có chính quyền, mà còn có người tiêu dùng,
người dịch vụ, nhà doanh nghiệp và đại diện các tổ chức xã hội và tôn giáo;
(4) Chức năng của đô thị có tính chất toàn diện về kinh tế, xã hội, văn hóa và
quản lý, trong đó chức năng quản lý bao trùm, làm điều kiện thực hiện các
chức năng khác [9, tr.43].
Nhìn chung, vấn đề phát triển bền vững hệ sinh thái đô thị là một vấn
đề cấp thiết đặc biệt là trong bối cảnh đô thị hóa nhanh và mạnh như hiện nay.
Các nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau đưa ra các tiêu chí
khác nhau cho sự phát triển bền vững, điều đó thể hiện tính đa dạng, đa chiều
của một đô thị. Nhưng nhìn chung, muốn phát triển đô thị theo hướng phát
triển bền vững đòi hỏi phải phối hợp phát triển hài hòa nguồn lực của sự phát
triển: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa… và đặc biệt phải quan tâm tới vấn đề
môi trường đô thị.
Tiếp cận hệ sinh thái đô thị trên góc độ là một trong những hệ sinh thái
nhân văn điển hình và đi sâu vào nghiên cứu tính chủ thể của con người trong
hệ sinh thái nhân văn, theo tác giả, để hệ sinh thái nhân văn đô thị phát triển
bền vững thì bên cạnh những nguyên tắc sinh thái học cần phải nhấn mạnh
yếu tố con người với tư cách là chủ thể của hệ sinh thái đô thị. Con người là
19
chủ thể của xã hội và là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Với tư cách là chủ

thể đòi hỏi bản thân mỗi cá nhân nói riêng và cộng đồng xã hội nói chung
phải chủ động, tích cực trong nhận thức và hành động để không chỉ phát triển
đô thị đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của con người mà còn có
định hướng phát triển bền vững trong tương lai. Để làm được điều đó đòi hỏi
phải có sự nhất quán trong chính sách quy hoạch phát triển và có ý thức thực
hiện, bảo vệ và giữ gìn môi trường sinh thái nhân văn đô thị của các cá nhân
và tổ chức trong cộng đồng.
1.2. Tính chủ thể của con người trong hệ sinh thái nhân văn
1.2.1. Tính chủ thể của con người
1.2.1.1. Khái niệm chủ thể
Theo cách tiếp cận triết học, khái niệm chủ thể là một khái niệm có vị
trí quan trọng trong nhận thức luận. Khái niệm “chủ thể” lúc đầu có nghĩa là
cái mang những đặc tính, trạng thái, hoạt động – đồng nhất với với khái niệm
thực thể. Từ thế kỷ XVII khái niệm chủ thể được đặt trong mối quan hệ với
khái niệm khách thể và mang ý nghĩa nhận thức luận. “Ngày nay, người ta
quan niệm chủ thể là con người hoạt động tích cực và nhận thức, có ý thức và
ý chí. Còn khách thể là cái mà hoạt động nhận thức và hoạt động khác của
chủ thể hướng vào đó” [51, tr.93].
Chúng ta thấy rằng, khái niệm chủ thể và khách thể là hai khái niệm
tương quan nên khái niệm chủ thể chỉ mang đầy đủ nội dung ý nghĩa khi được
đặt trong mối quan hệ với khái niệm khách thể. Trong lịch sử triết học, có
nhiều quan niệm khác nhau về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Chủ
nghĩa duy vật trước Mác coi khách thể là cái tồn tại không phụ thuộc vào chủ
thể và hiểu nó là thế giới khách quan, còn theo nghĩa hẹp thì là đối tượng của
nhận thức. Đồng thời chủ thể được coi là cái gì đó thụ động, chỉ tiếp thu các
tác động từ bên ngoài. Chủ thể được quan niệm là các cá thể biệt lập mà
những đặc điểm của nó là do nguồn gốc tự nhiên của nó quyết định, bởi vì
20
người ta còn chưa khám phá ra cơ sở thật sự của tính tích cực của chủ thể.
Chủ nghĩa duy tâm lại cho rằng mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể và

khách thể, thậm chí chính bản thân sự tồn tại của khách thể cũng là được bắt
nguồn từ hoạt động của chủ thể. Trên cơ sở đó, họ đi lí giải vai trò tích cực
của chủ thể trong nhận thức.
Khắc phục những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa duy vật trước Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã xem xét mối quan
hệ giữa chủ thể và khách thể trong sự thống nhất biện chứng và khẳng định
khách thể luôn tồn tại khách quan không phụ thuộc vào chủ thể, chủ thể giữ
vai trò là lực lượng tích cực trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể.
Theo đó, “khách thể không phải là mặt đối lập trừu tượng của chủ thể, vì tính
chủ thể tích cực cải tạo khách thể, và cơ sở của sự tác động qua lại giữa chúng
là thực tiễn lịch sử xã hội của loài người. Chính trong thực tiễn đó mà các mặt
và các đặc tính của hiện thực trở thành khách thể của hoạt động thực tiễn và lí
luận mà thông qua việc cải tạo nó, ý thức tiếp thu được nội dung của thực tại
khách quan” [40, tr93]. Như vậy, chúng ta có thể thấy tính tích cực của chủ
thể luôn được hình thành và biến đổi trong quá trình tiến hành cải tạo thế giới,
con người chỉ trở thành chủ thể trong lịch sử, trong xã hội và vì vậy là thực
thể xã hội mà năng lực và khả năng của nó là do thực tiễn tạo ra.
Con người chủ thể luôn là lực lượng tích cực trong mối quan hệ giữa
chủ thể và khách thể. Tuy nhiên, đó không phải là hoạt động tùy tiện vì khách
thể luôn vạch ra những ranh giới và giới hạn nhất định trong hoạt động của
chủ thể. Chính trên cơ sở đó nảy sinh sự cần thiết phải nhận thức các quy luật
của khách thể để làm cho hoạt động của khách thể phù hợp với quy luật đó.
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể thấy, tính chủ thể của con
người thực chất là khả năng con người đưa ra lựa chọn và thực thi lựa chọn đó
một cách phù hợp. Tính chủ thể thể hiện ra là sự năng động mang tính lịch sử
21
– xã hội trong hoạt động của con người. Theo quan điểm của C. Mác, tính chủ
thể chỉ có ở con người như một thực thể xã hội, trong tổ chức để hành động
trong sự phối hợp với người khác, với nhóm, tập thể và với xã hội. Do vậy,
tính chủ thể của con người khi tồn tại ở cấp độ nhóm, cộng đồng, tộc người và

dân tộc mang bản sắc văn hóa của cộng đồng, tộc người và dân tộc.
1.2.1.2. Đặc trưng của tính chủ thể của con người trong mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên
Trong mối quan hệ với tự nhiên, giới tự nhiên chính là “thân thể vô cơ”
của con người. Tất cả thể xác và tinh thần của con người đều gắn liền khăng
khít với tự nhiên vì con người là bộ phận của tự nhiên, là giai đoạn cao nhất
trong quá trình phát triển của giới tự nhiên vì vậy con người phải tuân theo
các quy luật của tự nhiên và hòa vào tự nhiên. Không những thế, con người
còn có khả năng cải tạo tự nhiên và giữ vị trí chủ động trong mối quan hệ với
tự nhiên. Như vậy, trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người
đóng vai trò là chủ thể, còn tự nhiên là khách thể.
Con người, xét về mặt tiến hóa có nguồn gốc từ tự nhiên, là sản phẩm
của tự nhiên – một sinh vật có tổ chức cao nhất của thế giới vật chất. Con
người khác các loài sinh vật khác không chỉ về mặt sinh vật học mà còn về
tính chất sinh hoạt xã hội do chính hoạt động của con người tạo ra. Sự khác
nhau đó thể hiện trong khả năng con người biết chế tạo và sử dụng công cụ
lao động nhằm cải tạo tự nhiên một cách có kế hoạch và mục đích.
Loài người khi mới hình thành cuộc sống phần lớn phụ thuộc vào tự
nhiên, trải qua quá trình phát triển lâu dài, thông qua lao động con người dần
biết cách biến đổi tự nhiên để tạo ra những điều kiện tồn tại, những trạng thái
hay môi trường phù hợp với sự tồn tại của mình. Hoạt động của loài người
nhằm chinh phục tự nhiên ngày càng làm giảm bớt sự phụ thuộc và làm tăng
“quyền hành” của họ trước tự nhiên. Từ chỗ dựa vào tự nhiên một cách thụ
22
động con người đã biết biến đổi nó một cách chủ động, có phương pháp và
tuân theo những quy luật vốn có của nó. Từ chỗ bị các lực lượng tự nhiên chi
phối, con người dần dần biết cách cải biến tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cho
những mục đích lớn hơn của mình. Đó là một thắng lợi hết sức vĩ đại của nền
văn minh nhân loại. Ngoài ra, quan hệ giữa con người và tự nhiên còn được
hình thành trong chính quá trình lao động, sản xuất, thông qua hoạt động cải

biến giới tự nhiên của con người. Thông qua lao động, con người đã làm thay
đổi, cải biến giới tự nhiên “con vật chỉ sản xuất ra chính bản thân nó, còn con
người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [47, tr. 29]. Cũng chính trong
hoạt động sản xuất vật chất con người xác lập cho mình các quan hệ xã hội.
Con người lúc này mang đầy đủ bản chất xã hội đồng thời hình thành nhân
cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Việc con người ngày càng hiểu biết sâu sắc hơn về giới tự nhiên, có
khả năng chinh phục tự nhiên không có nghĩa là con người ngày càng trở
thành “kẻ thù” hủy diệt tự nhiên. Giữa con người và tự nhiên có mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn. Tự nhiên tác
động mạnh mẽ tới mọi mặt hoạt động của con người và xã hội, song sự tác
động ấy là hoàn toàn mang tính tự phát. Con người bằng hoạt động thực tiễn
cũng không ngừng tác động vào tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản
thân và đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển xã hội. Trong quá trình hoạt động,
nếu con người hiểu biết và tác động cùng chiều với quy luật của tự nhiên,
khai thác, sử dụng và tái tạo hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên thì con
người sẽ tác động tích cực, làm phong phú tự nhiên và mang lại hiệu quả
trong hoạt động thực tiễn. Nhưng nếu hành động của con người trái với quy
luật tồn tại và phát triển của tự nhiên hoặc do lợi ích trước mắt mà bất chấp
các quy luật của giới tự nhiên, tàn phá tự nhiên, phá vỡ sự cân bằng vốn có
của hệ thống tự nhiên, con người và xã hội thì hiển nhiên sẽ phải gánh chịu
23

×