A. phần mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài.
Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài
người,nó gắn bó mật thiết với cuộc sống và đã trở thành một nhu cầu không thể
thiếu trong đời sống xã hội, nó có sức hấp dẫn với mọi lứa tuổi.
Đối với trẻ thơ, âm nhạc là nguồn sữa nuôi dưỡng tinh thần. Giai điệu trầm
bổng, sự phong phú của âm hình tiết tấu, phong cách đa dạng của các thể loại
âm nhạc sẽ đưa trẻ vào thế giới cái đẹp một cách hấp dẫn và lý thú.
Đặc điểm của lứa tuổi mầm non là thích vui chơi, hoạt động ham tìm hiểu để
nhận thức cuộc sống thì âm nhạc lại càng gần gũi và hết sức tự nhiên. Đây chính
là phương tiện để phát triển cảm xúc, phát triển tình cảm, trí tuệ, mở rộng nhận
thức, phát triển óc tưởng tượng, ngôn ngữ, bồi dưỡng khả năng thẩm mỹ.
Trẻ em mẫu giáo là lứa tuổi giữ vai trò quan trọng là giai đoạn đặt nền móng
cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Đây cũng là thời kỳ
lý tưởng đểgiáo dục thẩm mỹ cho trẻ, một trong những nhiệm vụ chính của giáo
dục.
ở lứa tuổi này hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, qua hoạt động
vui chơi trẻ được mô phỏng lại cuộc sống sinh hoạt của người lớn. Từ đó tích
luỹ được kinh nghiệm xã hội ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong giáo dục âm
nhạc, hoạt động vui chơi là hình thức hoạt động sáng tạo để thể hiện nội dung
nhằm phát triển tai nghe âm nhạc cho trẻ. Muốn phát triển tai nghe và cảm thụ
âm nhạc cho trẻ thì cần phải có dụng cụ để trẻ được nghe và sử dụng trong khi
ca hát và vận động, trò chơi. Có như vậy trẻ mới dễ dàng phân biệt được các âm
sắc khác nhau của âm thanh và phát triển cảm giác nhịp điệu, hứng thú theo nhịp
điệu của âm nhạc.
Trong thực tế, hiện nay nhạc cụ dành cho trẻ em tương đối nhiều loại như:Đàn
oóc gan nhỏ, sáo, trống nhỏ, đàn pianô nhỏ Tôi nghĩ rằng người giáo viên mầm
non nói chung và tôi nói riêng phải có lòng yêu nghề, mến trẻ không phải từ
câu nói thể hiện tình yêu thương mà phải từ những việc làm thiết thực trong các
hoạt động của trẻ như làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo để dạy trẻ một cách khoa
học. Những đồ dùng này không phải mất tiền mua và làm không quá khó khăn
mà chỉ cần một số nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên như: đá, sỏi, vỏ sò,
thanh tre và một số phế liệu như: lọ nước rửa bát, lon nước yến để tạo ra một
số dụng cụ dùng trong hoạt động âm nhạc, nhằm tạo ra sự mới lạ về các đồ dùng
đồ chơi, trẻ sẽ hứng thú tham gia vào giờ học, qua đó rèn luyện âm sắc và cảm
giác nhịp điệu cho trẻ, giúp trẻ phân biệt âm thanh, luyện tai nghe và sự cảm thụ
âm nhạc. Bởi lý do đó tôi chọn đề tài: “ Thiết kế và sử dụng một số dụng cụ âm
nhạc tự tạo trong quá trình dạy trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi học hát, vận động” để
nghiên cứu, làm bài tập và thực hiện tại lớp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Thiết kế, sáng tạo một số dụng cụ âm thanh tự tạo và sử dụng trong các giờ
dạy trẻ học hát và vận động để nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện của hoạt
động âm nhạc.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu:
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
1
Một số dụng cụ âm thanh tự tạo sử dụng trong giờ học hát , vận động của trẻ
Mẫu giáo lớn.
b. Khách thể nghiên cứu:
40 trẻ lớp Mẫu giáo 5- 6 tuổi khu Từ Châu, Trường mầm non Liên Châu.
c.Phạm vi nghiên cứu và thời gian thực hiện:
- Phạm vi: Thiết kế và sử dụng một số dụng cụ âm thanh tự tạo trong quá trình
dạy trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi học hát ở trường mầm non Liên Châu - Thanh Oai -
Hà Nội.
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 - 2010 đến tháng 5 - 2011.
4. Giả thiết khoa học.
Nếu việc sử dụng các âm thanh tự tạo dưới nhiều loại chất liệu khác nhau trong
hoạt động âm nhạc ở trường mầm non đạt hiệu quả thì có thể phát triển cảm thụ
nhịp điệu, phân biệt âm sắc, đồng thời phát huy tính tích cực của trẻ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận định hướng cho đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng về nhận thức của giáo viên và sử dụng đồ dùng, dụng cụ
âm nhạc cho trẻ Mẫu giáo lớn trong các hoạt động âm nhạc ở trường mầm non
Liên Châu - Thanh Oai - Hà Nội.
- Thiết kế một số dụng cụ âm thanh tự tạo từ các chất liệu như : ống tre, vỏ sò,
vỏ lon bia cho trẻ Mẫu giáo 5 - 6 tuổi và đề xuất các biện pháp sử dụng.
- Thực hiện nhằm áp dụng và kiểm tra hiệu quả của việc sử dụng các đồ dùng
đã thiết kế cho trẻ Mẫu giáo lớn trong quá trình học hát, vận động âm nhạc ở
trường mầm non.
6. Phạm vi nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến việc sử dụng dụng cụ âm nhạc
trong các hoạt động ân nhạc của trẻ Mẫu giáo lớn.
- Nghiên cứu thực trạng lớp Mẫu giáo 5-6 tuổi khu Từ Châu, trường mầm non
Liên Châu.
- Lựa chọn một số đồ dùng tự tạo để làm thực nghiệm.
7. Kế hoạch nghiên cứu.
- Nghiên cứu lý luận: Đọc, thu thập, phân tích, khái quát hoá, hệ thống hoá
những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Điều tra thực trạng về việc sử dụng đồ dùng, dụng cụ âm nhạc ở trường Mẫu
giáo: Quan sát giờ học, trao đổi với giáo viên và trẻ.
- Thực nghiệm: Tổ chức thực nghiệm một số đồ dùng, dụng cụ âm nhạc tự tạo
cho trẻ Mẫu giáo lớn trong hoạt động âm nhạc của trường mầm non.
+ Nhóm đối chứng: 20 trẻ tổ Hoa Sen Lớp Mẫu giáo 5-6 tuổi khu Từ Châu trẻ
sử dụng những đồ dùng, dụng cụ âm nhạc quen thuộc.
+ Nhóm thực nghiệm: 20 trẻ tổ Hoa Mai lớp Mẫu giáo 5-6 tuổi khu Từ Châu
sử dụng những đồ dùng, dụnh cụ âm thanh tự tạo.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
2
B. Phần nội dung.
Chương I.
Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài.
I. Một số vấn đề chung về âm nhạc xét theo khía cạnh đề tài.
Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật gắn bó mật thiết với đời sống con người.
Nó có sức hấp dẫn kỳ lạ,tác động mạnh mẽ làm cho con nguời tốt đẹp hơn, trong
sáng hơn.Bản chất của âm nhạc là niềm vui lạc quan, yêu đời và nâng cao con
người đến với những tình cảm cao thượng.
Ngay từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến khi giã từ cuộc sống, âm nhạc luôn luôn
gắn bó với cuộc sống con người và hơn thế nữa đứa trẻ từ lúc còn trong bụng mẹ
đã được cảm thụ âm nhạc mỗi khi người mẹ ngân lên những câu hát trong sáng,
mong đợi đến ngày đứa con bé nhỏ ra đời. Đến lúc lọt lòng trẻ lại được tiếp xúc
với âm nhạc, lại được đắm mình trong những lời ru, những khúc hát yêu thương
trìu mến của mẹ. Lớn lên một chút nữa, các cô bé, cậu bé lại được hoà mình
cùng với những bài hát trẻ thơ, những khúc đồng dao và cũng trong suốt thời
gian này sự tác động của âm nhạc tới con người ngày càng phong phú và sâu sắc
hơn.
Âm nhạc nảy sinh trong quá trình lao động của con người do nhu cầu được
động viên, khích lệ mỗi khi vui, buồn, mệt nhọc. Từ trong lao động, những điệu
hò, điệu lý, những bài ca ca ngợi sự hăng say làm việc của con người lao động
ra đời. Chính những lời ca ấy là một phép màu kỳ diệu cổ vũ con người làm việc
thêm hăng say, thêm yêu cái nghiệp của mình, và hơn thế nữa, nó giúp con
người biết sống có lý tưởng.Âm nhạc là những lời ca cất lên từ trong thế giới nội
tâm của con người, trải ra những trở trăn thầm kín nhất của họ như một sự dãi
bày. Âm nhạc với hhững cung bậc khác nhau, những cách thể hiện khác nhau
đều có thể phản ánh cuộc sống xung quanh một cách chân thực. Tiếng gió thổi
vi vu, tiếng chim ríu rít hay tiếng lá khô xào xạc dường như cũng trở nên có hồn
hơn, sâu lắng hơn trong âm nhạc.
Có thể khẳng định, âm nhạc đã tác động trực tiếp vào thế giới tình cảm của con
người và trở thành một phương tiện giao tiếp hết sức nhạy cảm. nhờ ngôn ngữ
biểu đạt đặc biệt của âm nhạc mà những người ở những vùng đất khác nhau,
không cùng ngôn ngữ hay phong tục tập tập quán, chế độ xã hội vẫn có thể có
những hiểu biết nhất định về nhau ở một chừng mực nào đó. Chính những lý đó
mà âm nhạc đã trở thành một vị thiên sứ đưa những tâm hồn xích lại gần nhau,
biết sống chia sẻ, cảm thông cho nhau, ngày càng trở nên bao dung nhân ái.
Muốn phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc của trẻ, trong quá trình tổ chức
phải từng bước nâng cao dần yêu cầu với trẻ, giúp trẻ từng bước biết cảm nhận
và đánh giá âm nhạc ở mức độ đơn giản nhất. Theo đó, sở thích âm nhạc của trẻ
sẽ dần dần xuất hiện và cùng với âm nhạc, những cảm xúc nghệ thuật của trẻ
cũng trở nên tinh tế và đa dạng hơn. Điều này đã thể hiện rất rõ khi cho trẻ mầm
non tiếp xúc với các tác phẩm âm nhạc phù hợp với lứa tuổi.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
3
Có thể khẳng định, đưa âm nhạc đến với trẻ thơ là đưa đến cho trẻ một thế giới
đầy âm thanh và màu sắc, một thế giới với những tình cảm cao đẹp, với những
ước muốn được bay cao, bay xa, giúp trẻ dần hoàn thiện nhân cách con người.
II. Quan điểm giáo dục học về đồ chơi, đồ dùng học tập.
1.Đồ chơi.
ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi chiếm một vị trí quan trọng, góp phần
giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người. Hoạt động vui chơi giúp
trẻ học tập, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống
sau này. Tuy nhiên nếu trẻ chỉ chơi mà không có đồ chơi thì sẽ rất dễ dẫn đến sự
nhàm chán, buồn tẻ, bởi vậy mà đồ chơi là vật dạng không thể thiếu trong hoạt
động vui chơi của trẻ.
Theo quan điểm của giáo dục học, đồ chơi là một vật đặc biệt dùng trong khi
chơi, ngoài ra nó không mang ý nghĩa đời sống hàng ngày.
Trong đồ chơi thể hiện tính chất điển hình của đồ vật, chính hình dáng tổng
quát của đồ chơi giúp trẻ có thể tái tạo và thể hiện những hành động tương ứng
với đồ vật ấy.
Đồ chơi có ý nghĩa hết sức sâu sắc và lớn lao:
+ Đối với người lớn (cô giáo): Đồ chơi là phương tiện để tổ chức cuộc sống và
giáo dục trẻ mẫu giáo.
+ Đối với trẻ mẫu giáo: Đồ chơi là người bạn đồng hành không thể thiếu trong
các trò chơi của mình, bởi vì chính đồ chơi đã giúp trẻ tạo ra hoàn cảnh chơi,
giúp trẻ thực hiện dự định chơi của mình. Đồ chơi tạo cho trẻ nhập vai vào hành
động giống như thực, đáp ứng nhu cầu bắt chước, được hành động như người
lớn và làm quen với thế giới xung quanh. Chính đồ chơi đã giúp trẻ liên kết với
nhau để cùng chơi, giải thích trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ phát triển, duy trì
và phát triển hứng thú với trò chơi.
2.Đồ dùng học tập.
Đồ dùng học tập có vai trò quan trọng đối với việc học tập của trẻ, là phương
tiện giúp trẻ chiếm lĩnh, lĩnh hội tri thức một cách dễ dàng hơn. Có thể nói đồ
dùng học tập chính là những đồ vật do con người chế tạo ra để phục vụ cho mục
đích học tập của con người.nhưng không chỉ phục vụ cho học tập, có những lúc
cần thiết đồ dùng cũng trở thành đồ chơi, giúp con người giải trí. Điều này được
thể hiện rõ nhất với trẻ mẫu giáo và đặc biệt là trong hoạt động âm nhạc.Những
dụng cụ gây ra cảm giác đều đặn về nhịp điêụ phát ra những âm sắc khác nhau
mà trẻ dùng khi học hát, vận động sẽ trở thành đồ chơi của trẻ khi tham gia vào
hoạt động vui chơi. Bởi vậy mà đồ dùng học tập có ý nghĩa, vai trò đặc biệt
trong học tập và vui chơi của trẻ mẫu giáo, vừa giúp trẻ lĩnh hội kiến thức dễ
dàng, vừa duy trì hứng thú của trẻ trong khi chơi.
Có rất nhiều đồ dùng học tập và chúng được phân loại theo những đặc điểm,
tính năng khác nhau. Trong số đó, đồ dùng âm nhạc là loại đồ dùng âm nhạc ở
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
4
một khía cạnh nào đó: Âm sắc, tiết tấu, giai điệu Do đó mà việc sử dụng các đồ
dùng âm nhạc trong giờ học của trẻ ngày càng được phát huy. Tuy nhiên không
thể đưa tất cả các loại nhạc cụ vào sử dụng mà cần thiết phải sử dụng sao cho
phù hợp nhất với sự phát triển của trẻ.
III. Đặc điểm tâm sinh lý liên quan đến khả năng sử dụng dụng cụ âm
nhạc của trẻ mẫu giáo lớn.
ở tuổi mẫu giáo, xúc cảm thẩm mỹ phát triển khá mạnh, tâm hồn trẻ nhạy cảm,
trẻ dễ tiếp xúc với những cảnh vật xung quanh. Vì vậy trẻ dễ nhận ra những vẻ
đẹp và biết cảm thụ cái đẹp. Trẻ thích học múa hát và học rất nhanh bằng cách
bắt chước. Trẻ đến với nghệ thuật một cách tự nhiên và tác động của nghệ thuật
đến với trẻ thơ rất mạnh mẽ. Đặc biệt tính hình tượng ở trẻ mẫu giáo đang phát
triển mạnh gần như chi phối mọi hoạt động tâm lý và điều này càng làm cho các
em dễ gần gũi với nghệ thuật, trong đó có âm nhạc. Âm nhạc đã đem đến cho
các em một thế giới âm thanh nhiều màu sắc, gợi cho trẻ sự thú vị hấp dẫn và sự
hài hoà tinh tế, tạo điều kiện cho trẻ thể hiện chính bản thân mình.
Lứa tuổi mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) là giai đoạn chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ
thông. Trẻ có khả năng tri thức toàn vẹn hình tượng âm nhạc cùng với những
khái niệm được tích luỹ từ trước. Trẻ có thể chuyển đổi được điệu bộ theo âm
điệu, biết kết hợp khăng khít giữa thời gian với âm nhạc, vận động phối hợp
toàn thân với một trình tự tương đối phức tạp trong các điệu múa hay tái hiện
một số chi tiết khó. Đặc biệt lứa tuổi này là giai đoạn đã phát triển hoàn thiện về
hệ thần kinh, về các cơ quan vận động do đó mà khả năng vận động tính khéo
léo của trẻ đã đạt đến mức độ cao và thuần thục. Khi dùng đàn, trẻ có thể sử
dụng đàn phím ở mức độ đơn giản. các loại nhạc cụ gỗ( dụng cụ) đệm cho bài
hát được trẻ sử dụng một cách thành thạo, khéo léo. Nguyên nhân của điều này
là do tính năng của nhạc cụ. Tuy nhiên, những nhạc cụ thổi, kéo, gảy, bấm
phím thường làm trẻ gặp nhiều khó khăn trong thao tác sử dụng, bên cạnh đó
thì trẻ rất dễ sử dụng các dụng cụ gõ. Lý do là nhạc cụ gõ là nổi bật phần tiết tấu,
nhịp điệu của tác phẩm. Bên cạnh đó mỗi dụng cụ gõ lại có một âm thanh khác
nhau làm cho trẻ mẫu giáo rất thích nghe. Chính vì vậy mà trẻ rất hứng thú khi
sử dụng nhạc cụ gõ, trẻ có thể đệm cho bài theo tiết tấu nhanh, tiết tấu phối hợp
hoặc thổi kèn theo các giai điệu đơn giản. Điều này chứng tỏ trẻ đã có sự phát
triển vượt bậc về khả năng sử dụng nhạc cụ âm nhạc trong âm nhạc chứ không
như ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ chỉ có thể vỗ tay theo nhịp, theo phách của loại nhịp
2/4 và ở tuổi mẫu giáo nhỡ trẻ sử dụng phách, trống đệm cho bài hát theo nhịp,
theo tiết tấu chậm.
Qua nghiên cứu về các loại nhạc cụ gõ chuyên nghiệp trong giàn nhạc giao
hưởng và trong dàn nhạc dân tộc, tôi thấy cách thức phát ra âm thanh khá dễ
dàng: Gõ, đập, lắc cách phát âm này phù hợp với khả năng sử dụng nhạc cụ của
trẻ. Đây chính là những gợi ý cho nghiên cứu của đề tài.
Những dụng cụ âm thanh tự tạo cho trẻ sử dụng ( gõ, đập, lắc) trong đề tài này
tạm gọi là “ dụng cụ gõ tự tạo”.
Chương II.
Thực trạng việc cho trẻ mẫu giáo lớn sử dụng đồ dùng, dụng cụ âm nhạc
trong quá trình học hát , vận động.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
5
1.Thực trạng.
a. Khảo sát thực tế.
+ Trình độ của giáo viên: Hiện nay giáo viên trong trường đều đạt từ chuẩn trở
lên.
+ Quá trình dạy hát cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi diễn ra đúng theo quy trình, cô
dạy đúng phương pháp Tuy nhiên, đồ dùng đồ chơi được sử dụng trong giờ học
còn quá ít và không phong phú
+ Yêu cầu chương trình dạy hát hiện nay: Không chỉ có một nội dung trọng tâm
mà còn có nội dung kết hợp đó là nghe hát và trò chơi. Vì vậy, việc sử dụng
dụng cụ âm nhạc là rất cần thiết.
b.Thuận lợi:
- Tỷ lệ trẻ ra lớp cao, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ.Ban giám hiệu rất quan
tâm,đầu tư về cơ sở vật chất tạo điều kiện cho tôi được đi học hỏi , bồi dưỡng
chuyên môn, học tập tham quan các trường bạn.Đồng thời tôi cũng tự nghiên
cứu nhiều tài liệu về cách làm đồ dùng đồ chơi bằng những vật liệu đơn
giản,được học hỏi trao đổi kiến thức với đồng nghiệp
- Giáo viên chủ nhiệm trẻ, năng động, nhiệt tình, hát hay, múa giỏi,khéo tay,
nắm chắc các bước lên lớp và phương pháp giảng dạy.
- Đa số trẻ được đến trường mầm non sớm, đã qua nhà trẻ và các lớp 3 - 4 tuổi,
được tiếp cận với chương trình giáo dục hoạt động âm nhạc. Trẻ hồn nhiên, tự
tin có khả năng giao tiếp và biết sử dụng dụng cụ âm nhạc một cách khéo léo.
- Đa số phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình, phối
hợp thường xuyên với giáo viên, đóng góp những vật liệu làm đồ dùng đồ chơi
cho trẻ.
- Giáo viên trong trường tham gia nhiệt tình trong việc làm đồ dùng đồ chơi tự
tạo.
c. Khó khăn:
- Trường mầm non Liên Châu chúng tôi nằm ở vùng nông thôn, người dân
sống chủ yếu bằng nghề nông nên việc đóng tiền để nhà trường mua đồ dùng đồ
chơi cho trẻ là rất hạn chế.
- Công việc chăm sóc và giáo dục trẻ bận rộn rất nhiều nên giáo viên không có
thời gian đầu tư cho việc sáng tạo và làm đồ dùng đồ chơi để phục vụ các tiết
học.
- Đội ngũ giáo viên trong trường năng khiếu làm đồ dùng đồ chơi còn nhiều
hạn chế.
2. Tình trạng thực tế trước khi thực hiện.
Kiểm tra thực trạng tại lớp trước khi thực hiện:
Ngay từ đầu năm học (trong tháng 9), ban giám hiệu và tổ chuyên môn đã tổ
chức dự giờ, kiểm tra một số loại tiết âm nhạc ở lớp tôi và một số lớp mẫu giáo
lớn trong trường và đưa ra một số nhận xét sau:
+ Tất cả các giáo viên trong trường đều sử dụng đồ dùng âm nhạc trong hoạt
động âm nhạc, mức độ giáo viên sử dụng đồ dùng tự tạo là nhiều nhất (60%),
nhưng đồ dùng lại đơn giản và sử dụng không được bền lâu, hầu hết đều cho
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
6
rằng làm đơn giản để đỡ mất nhiều thời gian và tốn kém. VD: Vẽ những bức
tranh đơn giản để giới thiệu bài, dùng sỏi, phách tre, ống nước trà chanh gõ vào
nhau để gõ tiết tấu, nhịp, dùng những hạt ngô đểvào trong hộp để lắc dùng như
vậy trẻ cũng sẽ nhàm chán. Còn đồ dùng mua sắm thì sẽ tạo không khí giờ học
sôi nổi, trẻ hứng thú tham gia vào giờ học. Nhưng những đồ dùng mua sắm lại
có quá ít nên không đủ để trẻ sử dụng và dùng lâu thì kết quả tiết học cũng
không đạt kết quả tối đa.
+ Theo số liệu kiểm tra của ban giám hiệu và tổ chuyên môn mức độ giáo viên
sử dụng đồ dùng âm nhạc trong hoạt động âm nhạc như sau:
Tên trường Mức độ giáo viên sử dụng dụng cụ âm nhạc
Thường xuyên Thỉnh thoảng Không sử dụng
Trường MN
Liên Châu
70% 30% 0%
Như vậy,tỷ lệ giáo viên thường xuyên sử dụng đồ dùng trong hoạt động âm
nhạc khá cao (chiếm 70%) và chỉ có 30% giáo viên thỉnh thoảng mới sử dụng
dụng cụ âm nhạc, không có giáo viên nào không sử dụng dụng cụ âm nhạc.
Qua những nhận xét và kết quả kiểm tra của Ban giám hiệu, tôi- với vai trò là
một tổ trưởng khối mẫu giáo 5-6 tuổi tôi đã tổ chức họp tổ và trao đổi với đồng
nghiệp tôi thấy các đồng nghiệp của tôi đã nhận thức đúng vai trò của đồ dùng
học tập trong quá trình giáo dục âm nhạc cho trẻ.Họ cho rằng đồ dùng học tập,
mà đặc biệt là đồ dùng tự tạo giúp trẻ nâng cao hứng thú trong quá trình học tập.
Điều này đã khẳng định tầm quan trọng to lớn của đồ dùng học tập đối với trẻ
mẫu giáo.
Ngoài việc trao đổi về mục đích sử dụng các đồ dùng trong giờ hoạt động âm
nhạc chúng tôi còn tìm hiểu về việc sử dụng các đồ dùng tự tạo trong các hoạt
động âm nhạc. Tất cả các giáo viên đều cho rằng cần thiết phải sử dụng đồ dùng
tự tạo vào hoạt động âm nhạc dưới các hình thức khác nhau.100% giáo viên cho
rằng nên sử dụng dụng cụ âm nhạc tự tạo trong giờ vận động hoặc phần trò
chơi.50% giáo viên cho rằng có thể sử dụng trong giờ dạy hát. Như vậy,tất cả
các giáo viên đều có quan điểm sử dụng đồ dùng tự tạo trong giờ vận động và
trò chơi, có thể nói rằng tiết học vận động và trò chơi âm nhạc là 2 hoạt động
mang tính chất vui nhộn nên rất dễ đưa vào sử dụng và tạo cho trẻ hứng thú, tiết
học sôi nổi.Đối với giờ dạy hát và nghe hát, do tính chất của 2 hoạt động này là
trẻ ít có cơ hội thể hiện mình nên các giáo viên chưa tìm ra nhiều biện pháp để
đưa đồ dùng tự tạo vào sử dụng.
Lứa tuổi mẫu giáo lớn đang là giai đoạn hoàn thiện về cấu trúc tâm lý người về
nhận thức, về khả năng cảm nhận. Chính vì vậy sự cảm nhận về nhịp điệu, tiết
tấu trong âm nhạc đã thành thục hơn. Dụng cụ gõ lắc là những đồ dùng tạo ra
âm thanh mang tính lặp đi lặp lại một cách đều đặn. Mặt khác nó giúp trẻ được
tiếp xúc với nhiều màu sắc, âm thanh khác nhau của thế giới tự nhiên để bổ sung
vào vốn kiến thức về xã hội cho trẻ. Do đó mà dụng cụ gõ,lắc có thể là loại dụng
cụ học tập phù hợp với lứa tuổi này nhất.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
7
Qua kết quả điều tra của Ban giám hiệu và qua những kết quả trao đổi với đồng
nghiệp đã để lại cho tôi một suy nghĩ sâu sắc nhất, đó là vấn đề đồ dùng tự tạo
của các giáo viên quá đơn giản và không được đẹp mắt lắm, hơn nữa lại được sử
dụng lặp đi lặp lại nhiều lần làm cho trẻ nhàm chán. Bởi vậy theo tôi, đối với
người giáo viên mầm non cần phải cố gắng dạy trẻ một cách sáng tạo, đặc biệt
cần làm đồ dùng tự tạo nhiều hơn, đồ dùng phải đẹp mắt hơn và đảm bảo tính
giáo dục cho trẻ.
Chương III.
Thiết kế và sử dụng một số dụng cụ âm thanh tự tạo trong quá trình giảng
dạy trẻ mẫu giáo lớn học hát, vận động.
I. Thiết kế một số dụng cụ âm thanh tự tạo.
1. Quan điểm về việc thiết kế dụng cụ âm thanh tự tạo.
Trước hết chúng ta cần nắm rõ về dụng cụ âm thanh tự tạo. Có thể nói bản thân
cụm từ “ dụng cụ âm thanh tự tạo” đã thể hiện hết ý nghĩa của nó, đó chính là
dụng cụ được con người chế tạo với mục đích làm cho nó phát ra âm thanh.
Dựa vào vai trò, đặc điểm, tính chất của dụng cụ tự tạo đối với hoạt động âm
nhạc, tôi đưa ra một số tiêu chuẩn của âm thanh tự tạo như sau:
- An toàn cho trẻ sự dụng.
- Rèn luyện sự phân biệt đối với âm sắc và cảm giác nhịp điệu của trẻ.
- Kích thích sự hứng thú của trẻ.
- Hình thức đẹp, hấp dẫn trẻ, phù hợp với khả năng cầm nắm được của trẻ.
- Dễ làm, dễ sử dụng.
- Âm thanh phù hợp với khả năng cảm thụ của trẻ, đảm bảo tính giáo dục, góp
phần kích thích khả năng chia âm sắc và cảm giác nhịp điệu của trẻ.
- Được chế tạo từ những nguyên vật liệu sẵn có, phế liệu dễ kiếm,không độc
hại.
2.Thiết kế một số dụng cụ âm thanh tự tạo.
2.1 Trống dài.
* Nguyên liệu:
-Vỏ hộp đựng cầu lông.
- Mảnh nhựa mỏng.
- Dây len hoặc dây dù.
- Đề can nhiều màu, giấy trang kim.
- Keo nến.
*Cách làm :
- Dùng kéo cắt miếng nhựa thành 2 mảnh hình tròn bằng đường kính miệng
hộp đựng cầu lông dùng keo dính chặt và kín miếng nhựa vào 2 miệng hộp.
- Dùi 2 lỗ nhỏ để luồn dây dù dài sao cho trẻ có thể đeo quàng qua cổ.
- Dùng đề can và giấy trang kim để trang trí xung quanh trống. -> ta có trống
dài.
* Cách sử dụng.
Quàng trống qua cổ, hai tay vỗ vào 2 mặt trống nhún nhảy theo nhịp bài hát
Trống dài
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
8
2.2.Phách tre.
*Nguyên liệu :
- Hai thanh tre nhỏ dài 20 cm.
- Sơn màu.
- Keo con voi.
- Dây len.
*Cách làm:
- Dùng sơn màu sơn các thanh tre thành nhiều màu sắc.
- Dùng keo con voi đính các hạt kim sa vào thanh tre.
- Dùng dùi, dùi 1 lỗ nhỏ ở gần đầu thanh trẻ và luồn dây len vào 2 thanh tre để
thành một đôi > Ta có phách tre
Phách tre.
*Cách sử dụng :
Dùng 2 thanh tre gõ vào nhau để tạo ra tiếng lách cách nghe rất vui tai, sử dụng
như một dụng cụ âm nhạc trong giờ hoạt động âm nhạc.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
9
1.3. Chùm chuông.
* Nguyên liệu:
- ống kim loại ( Lấy từ khung của chiếc tủ vải cũ).
-Dây cước.
-Đề can nhiều màu sắc.
*Cách làm:
Dùng cưa sắt cưa các ống kim loại thành 7 ống có độ dài ngắn khác nhau rồi
dùng dũa dũa nhẵn các đầu ống. Tiếp theo ta dùng khoan, khoan lỗ ở một đầu
ống,sau đó dùng đề can trang trí cho đẹp mắt.
-Dùng dây cước xuyên qua các lỗ, sau đó lần lượt buộc ống lên giá sao cho đẹp
mắt.Các ống treo cách nhau 0, 5 cm.
Cưa thêm một thanh kim loại dài chừng 20 cm, dũa sạch và trang trí đẹp để
làm dùi-> ta có chùm chuông.
chùm chuông .
*Cách sử dụng :
Dùng dùi gõ nhẹ và nhanh theo kiểu lướt qua từng chiếc ống sẽ tạo ra âm thanh
dải nghe vui nhộn.
1.4.Bộ gõ bằng vỏ dừa. ( Mõ dừa)
*Nguyên liệu:
- Vỏ dừa.(Sọ dừa)
- Dây len.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
10
- Sơn đỏ.
*Cách làm:
- Dùng cưa nhỏ cưa miếng sọ dừa thành 2 hình trái tim.
- Dùng sơn sơn vào hình trái tim đó.
-Dùi hai lỗ nhỏ luồn dây len qua 2 hình trái tim đó > Ta được Mõ dừa.
*Cách sử dụng:
Hai tay cầm hai mảnh trái tim và gõ vào nhau sẽ tạo ra tiếng kêu cốc cốc nhịp
nhàng và vui tai.
Mõ dừa
1.5 Xúc xắc
* Nguyên liệu:
- Nắp chai bia.
- Cán kẹo mút.
- Keo nến.
- Miếng xốp mỏng.
- Đề can nhiều màu.
* Cách làm:
- Đập dẹt nắp bia, khoan lỗ ở giữa.
- Cắt miếng xốp mỏng thành hình tròn kích thước vừa tay trẻ.
- Dùng 1/2 cán kẹo mút xuyên qua 5 nắp chai bia, dùng keo nến gắn chặt 2 đầu
với miếng xốp.
- Dùng đề can trang trí cho đẹp mắt theo nhiều màu sắc > Ta có xúc xắc.
* Cách sử dụng.
Dùng hai ngón tay cầm chặt hai đầu của xúc xắc, lắc qua lắc lại liên tục tạo ra
âm thanh.
Xúc xắc
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
11
1.6.Trống mặt trời.
*Nguyên liệu:
-Vỏ hộp bánh xốp Gift bằng sắt tây.
- Dây len.
- Sợi len bông.
- Đề can nhiều màu.
*Cách làm :
- Dùi 2 lỗ nhỏ thẳng nhau sát bên lề 2 mặt trống để luồn dây len.
- Dùng đề can trang trí theo hình ông mặt trời ở 2 mặt trống.
- Dùng những cục len bông trang trí mặt bên của trống -> ta được trống mặt
trời.
Trống mặt trời
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
12
.
*Cách sử dụng:
-Tạo âm thanh bằng cách dùng tay gõ vào mặt trống.
II. Hệ thống bài hát thực nghiệm.
1.Hệ thống bài hát sử dụng thực nghiệm .
Hiện nay, hoạt động âm nhạc được sử dụng ở trường Mầm non đựơc thực hiện
theo chương trình đổi mới. Chương trình hoạt động của lứa tuổi mẫu giáo lớn
được tiến hành theo chủ đề,chủ điểm Trên cơ sở đó , chúng tôi lựa chọn các bài
hát sau để tiến hành thực nghiệm:
*Đối với giờ học hát:
- Em yêu cây xanh - Nhạc và lời: Hoàng Văn Yến.
- Cháu yêu cô chú công nhân - Nhạc và lời: Hoàng Văn Yến.
- Đường em đi - Nhạc Lê Quốc Tính, lời Tường Văn.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
13
* Đối với giờ học vận động:
- Thương con mèo-Nhạc và lời: Huy Du
- Chị ong nâu và em bé-Nhạc và lời:Tân Huyền.
- Cả nhà thương nhau-Nhạc và lời: Phan Văn Minh.
2. Cách thức sử dụng các dụng cụ âm nhạc tự tạo.
*Trong giờ học hát.
a. Bài1
Em yêu cây xanh (Nhạc và lời Hoàng Văn Yến)
+ Mục đích -yêu cầu
- Giúp trẻ hiểu được lợi ích của việc trồng cây xanh, từ đó giáo dục trẻ tình yêu
với cây xanh và mong muốn được trồng cây xanh, góp phần làm đẹp thêm thế
giới xung quanh.
- Giúp trẻ hát đúng nhạc- giai điệu bài hát, tự tin khi hát.
- Nâng cao khả năng cảm thụ và phân biệt âm sắc, phát triển cảm giác nhịp điệu
cho trẻ.
- Sử dụng được dụng cụ âm thanh tự tạo làm đệm cho bài hát.
+ Phân tích.
- Bài hát Em yêu cây xanh viết ở giọng D-Dur (Rê trưởng), nhịp 2/4. Bài hát
bắt đầu bằng nhịp lấy đà tạo sự nhịp nhàng trong bài hát.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
14
- Lời bài hát nhịp nhàng, sôi nổi miêu tả sự thích thú của em bé khi được trồng
cây xanh như con chim nhỏ nhảy nhót trên cành. Nó thể hiện tình yêu của em
nhỏ đối với thiên nhiên, muốn được làm đẹp thêm thiên nhiên quanh em.
+ Cách thể hiện
- Bài hát Em yêu cây xanh có nhịp điệu nhịp nhàng, vui nhộn nói về chủ điểm
Thế giới thực vật và do vậy tôi dùng trống mặt trời, mõ dừa và phách tre để
đệm cho bài hát thêm nhịp nhàng, vui nhộn.
- Trống đánh và mõ gõ vào nhịp của bài hát (ký hiệu ^).
- Phách tre gõ vào phách.
+ Cách tiến hành.
- Chia lớp thành 2 đội tương đương nhau: một đội dùng trống mặt trời,mõ dừa,
một đội dùng phách tre để đệm vào bài hát. Cho trẻ ngồi theo hình vòng cung
xung quanh cô.
- Cô cho trẻ thực hiện với dụng cụ âm thanh của mình 3-4 lần, sau đó đổi lại
cho nhau.
- Tiếp theo cho một cháu dùng trống, một cháu dùng phách, một cháu dùng mõ
dừa để đệm cho bài hát.
=> Câu hỏi:
- Các con thấy âm thanh của trống mặt trời thế nào?( Tung! Tung!)
- Thế còn âm thanh của mõ dừa ( Tóc! Tóc! Tóc!)
- Âm thanh của phách tre thì sao? (Lach cách ! Lách cách !).
b. Bài 2
Đường em đi ( Nhạc: Ngô Quốc Tính. Lời: Tường Văn)
+ Mục đích- yêu cầu:
Dựa trên nội dung bài hát thể hiện về luật giao thông: giúp trẻ biết phải đi đúng
làn đường bên phải, không được đi sang đường bên trái.
- Trẻ hát đúng nhạc, đúng giai điệu bài hát.
- Biết sử dụng đúng dụng cụ âm nhạc đệm cho bài hát thêm sinh động.
+ Phân tích:
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
15
Bài hát Đường em đi được viết ở giọng F- dur ( Pha trưởng), nhịp 2/4, gồm
phách mạnh, một phách nhẹ. Bài hát có nội dung đơn giản, giáo dục trẻ em phải
đi đúng đường, đúng luật giao thông. Bài hát có giai điệu nhịp nhàng vui vẻ.
+ Cách thực hiện.
Chia trẻ thành hai nhóm đều nhau:
- Một nhóm dùng trống dài đánh theo tiết tấu chậm ( Ký hiệu >)
- Một nhóm dùng xúc xắc theo tiết tấu nhanh ( Ký hiệu ^)
Các câu hát tiếp theo cũng thực hiện như vậy cho đến hết bài hát.
c.Bài 3.
Cháu yêu cô chú công nhân ( Nhạc và lời Hoàng Văn Yến)
+ Mục đích- yêu cầu.
- Trẻ hiểu được công việc của một số nghành nghề: Chú công nhân xây nhà,
cô công nhân dệt may và biết yêu mến kính trọng người lao động.
- Cho trẻ nghe các âm thanh khác nhau khi sử dụng trống, xúc xắc để nâng
cao khả năng phân biệt âm sắc và cảm giác nhịp điệu cho trẻ.
+ Phân tích.
Bài hát cháu yêu cô chú công nhân viết ở giọng F- dur ( Pha trưởng), nhịp 2/4
gồm một phách mạnh, một phách nhẹ.
Nội dung bài hát nói về công việc của các cô chú công nhân làm những công
việc khác nhau, sự yêu mến cô chú công nhân làm những công việc khác nhau,
sự yêu mến của trẻ đối với cô chú công nhân.
Đây là bài hát thuộc chủ điểm Ngành nghề.
+ Cách thực hiện.
Chia trẻ thành 3 nhóm, mỗi nhóm sử dụng một loại đồ dùng:
- Trống gõ vào nhịp bài hát. ( Ký hiệu^).
- Mõ dừa gõ vào tiết tấu nhanh của bài hát ( Ký hiệu>).
- Xúc xắc lắc vào phách ( Ký hiệu<)
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
16
Cho trẻ ngồi hình chữ U. cả lớp vừa hát vừa gõ đệm theo phách, nhịp và tiết tấu
của bài hát. Lần tiếp theo cho một nhóm hát, hai nhóm còn lại gõ đệm, sau đó
đổi lại luân phiên.
* Trong giờ vận động theo nhạc.
a. Bài 1.
Chị ong nâu và em bé- Nhạc và lời: Tân Huyền
+ Mục đích-yêu cầu.
- Bài hát nói về sự chăm chỉ, cần mẫn của một loài vật nhỏ bé với giai điệu nhẹ
nhàng giúp trẻ biết yêu thiên nhiên tươi đẹp.
- Nâng cao khả năng phân biệt âm sắc thông qua việc nghe và sử dụng các
dụng cụ âm thanh tự tạo như mõ dừa và chùm chuông, từ đó phát triển nhịp điệu
cho trẻ.
+ Phân tích.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
17
Bài hát Chị ong nâu và em bé viết ở giọng C- dur ( Đô trưởng) nhịp 2/4 một
phách mạnh, một phách nhẹ, mỗi phách là một nốt đen
Nội dung bài hát nói về một chị ong nâu chăm chỉ đi tìm mật xây đời, từ đó
giáo dục trẻ biết “ chăm học không nên lười”.
+ Cách thực hiện.
- Bố trí trẻ:
= Một nhóm hát gồm 05 trẻ.
= Một nhóm dùng mõ dừa theo nhịp gồm 05 trẻ ( Ký hiệu^).
= Một nhóm gồm 05 trẻ gõ chùm chuông theo phách mạnh( Ký hiệu >)
= Một nhóm gồm 05 trẻ dùng xúc xắc múa phụ hoạ
- Đội hình:
= Nhóm múa đứng trên chia làm 2 hàng đứng so le nhau.
= Nhóm hát đứng dưới cùng, sau rồi đến nhóm gõ.
= Nhóm dùng chùm chuông đứng 2 bên của nhóm múa.
- Cách thực hiện vận động.
Lời1:
- Câu “ Chị ong nâu nâu đi đâu đi đâu”: Hai tay dang rộng, vẫy trước và
sau so le nhau 2 lần, sau đó đổi bên, đồng thời chân nhún theo nhịp.
- Câu “ Chú gà mới dậy”: Hai tay đưa trước miệng, sau đó vươn hai tay,
sau đó vươn hai tay lên cao quá đầu, chân nhún theo nhịp.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
18
1 2
- Câu “ Mà trên những chị bay” vẫy tay mỗi bên hai lần, sau đó đổi bên,
chân nhún theo nhịp.
1 2
- Câu “ Bé ngoan trời nắng tươi” hai tay vẫy nhẹ ngang trước mặt, sau
đó đưa lên cao, chân đồng thời nhún theo nhịp.
1 2
- Câu “ Chị bay đi nuôi đời” hai tay vẫy đều, dẻo, xoay người một vòng
tròn, sau đó về vị trí cũ, nhún chân theo nhịp.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
19
- Câu “ Chị vâng theo không nên lười” hai tay đưa lên phía trước ngực sau
đó hai tay vòng lên cao quá đầu, chân vẫn nhún theo nhịp.
1 2
Lời 2 làm tương tự như lời 1.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
20
b. Bài 2.
Cả nhà thương nhau. ( Nhạc và lời: Phan Văn Minh).
+ Mục đích yêu cầu.
- Giáo dục cho trẻ tình yêu trong gia đình thông qua bài hát về chủ điểm “ Gia
đình”.
- Cho trẻ nghe âm thanh của mõ dừa, trống mặt trời và chùm chuông, từ đó trẻ
có khả năng phân biệt âm thanh của những dụng cụ âm nhạc khác nhau, đồng
thời nâng cao khả năng phân biệt âm sắc và phát triển cảm giác nhịp điệu cho
trẻ.
+ Phân tích.
- Bài hát viết ở giọng F-dur (Pha trưởng), nhịp 2/4, có hai phách, mỗi phách là
một nốt đen.
- Bài hát có giai điệu nhẹ nhàng, lời ca trong sáng, miêu tả tình cảm gia đình
luôn yêu thương gắn bó bên nhau “ Xa là nhớ, gần nhau là cười”
+ Cách thực hiện.
- Bố trí:
Chia trẻ thành ba nhóm tương đương mỗi nhóm 7 trẻ. Nhóm 1 cầm mõ dừa,
nhóm 2 dùng trống mặt trời, nhóm 3 sử dụng chuông chùm.
- Đội hình:
Ba nhóm xếp theo hình chữ U.
- Cách thực hiện vận động.
Nhóm 1 gồm 8 trẻ: hát đồng thời dùng mõ gõ theo nhịp ( Ký hiệu^).
Nhóm 2 gồm 8 trẻ: Hát đồng thời dùng trống mặt trời gõ theo phách mạnh của
bài hát ( Ký hiệu >)
Nhóm 3 gồm 4 trẻ: Sử dụng chuông chùm đệm vào nhịp của bài hát.
( Ký hiệu <).
III.Thực nghiệm.
1. Tổ chức quá trình thực nghiệm.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
21
a.Mục đích thực nghiệm
- Xem xét tính khả thi của việc sử dụng những đồ dùng âm thanh tự tạo đã được
thiết kế nhằm kiểm tra tính đúng đắn của giả thiết khoa học.
- Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng các dụng cụ đó trong giờ dạy hát và vận
động cho trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non.
b. Đối tượng thực nghiệm.
Thực nghiệm được tiến hành ở lớp mẫu giáo lớn A3 trường mầm non Liên
Châu.
- Số trẻ tham gia nhóm đối chứng : 20 trẻ.
- Số trẻ tham gia nhóm thực nghiệm: 20 trẻ.
Giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệmđều cùng một độ tuổi, đặc điểm và
khả năng nhận thức của trẻ, tỷ lệ trai và gái tương đương nhau.
c. Thời gian thực nghiệm:
Từ 04/10/2010 đến 04/04/2011.
d. Nội dung thực nghiệm:
Thực nghiệm tiến hành sử dụng các dụng cụ âm thanh tự tạo đã được thiết kế
trong khoá luận vào giờ dạy hát và vận động của trẻ mẫu giáo lớn.
d. Tiêu chí và thời gian đánh giá
* Tiêu chí đánh giá.
- Khả năng thao tác khi sử dụng : Tiêu chí này không chỉ yêu cầu trẻ biết cầm
dụng cụ gõ, lắc mà phải thực hiện chính xác theo nhịp, phách, tiết tấu nhanh,
chậm.
- Tính sáng tạo khi sử dụng
- Trẻ không biết làm động tác theo sự hướng dẫn của cô mà còn biết phối hợp
các cử động của toàn thân để biểu diễn sao cho phù hợp và hay nhất.
- Sự tham gia tích cực, hứng thú, thể hiện xúc cảm trong khi sử dụng đồ dùng
tự tạo.
Trẻ không chỉ biết thao tác khi sử dụng mà còn phải luôn tích cực, tập trung
trong quá trình học với tâm trạng vui tươi sảng khoái, thể hiện sự hồn nhiên của
trẻ.
* Thang đánh giá:
Thứ
tự
Các tiêu chí Mức độ
Yêú Trung bình Khá Giỏi
1 Khả năng thao
tác khi sử dụng.
Chưa biết
gõ theo tiết
tấu.
Biết gõ tiết
tấu nhưng
còn sai
nhiều
Gõ tiết tấu
đúng, thỉnh
thoảng bị
lỗi.
Gõ tiết tấu
chính xác
khớp với
nhạc.
2 Tính sáng tạo khi
sử dụng
Chưa biết
làm theo
động tác cô
hướng dẫn.
Bắt đầu
biết làm
theo động
tác của cô.
Thực hiện
chính xác
các động
tác của cô
Biết vận
dụng sáng
tạo để biểu
diễn hay.
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
22
hướng dẫn.
3 Sự tham gia tích
cực, hứng thú thể
hiện xúc cảm
trong khi sử
dụng.
Không tích
cực tham
gia, không
hứng thú,
thái độ
bình
thường.
Bước đầu
có sự tập
trung, tâm
trạng thoải
mái.
Hứng thú
hoạt động,
vui vẻ tham
gia hoạt
động.
Hứng thú
cao, vui vẻ,
nhanh
nhẹn, linh
hoạt, tích
cực tham
gia.
e.Tiến hành thực nghiệm.
* Giai đoạn 1.Thực hiện khảo sát.
Cả 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng học theo chương trình hiện hành, quan
sát đánh giá theo tiêu chí và thang đánh giá đề ra.
Nội dung : Hát, vỗ tay (gõ) đệm theo nhịp bài hát: “ Thương con mèo”, Nhạc
và lời Huy Du.
* Giai đoạn 2.Thực nghiệm thực hành.
Nhóm đối chứng học theo chương trình hiện hành ( Sử dụng đồ dùng đã có),
nhưng khác ở chỗ đưa đồ dùng tự tạo vào sử dụng và cách thức sử dụng chúng.
Nội dung:
- Hát, gõ đệm tiết tấu theo bài hát: “ Cháu yêu cô chú công nhân”- Nhạc và
lời: Hoàng Văn Yến.
- Học hát: “ Em yêu cây xanh”- Nhạc và lời: Hoàng Văn Yến.
- Vận động: “ Cả nhà thương nhau”-Nhạc và lời: Phan Văn Minh.
* Giai đoạn 3. Thực nghiệm kiểm chứng.
Nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm học theo chương trình Giáo dục mầm
non mới. Nhóm đối chứng sử dụng đồ dùng mua có sẵn ở lớp. Còn nhóm thực
nghệm sử dụng đồ dùng tự tạo.
- Học hát: “Đường em đi”- Nhạc: Ngô Quốc Tính. Lời: Tường Văn.
- Vận động: “Chị ong nâu và em bé”-Nhạc và lời Tân Huyền.
2. Kết quả thực nghiệm.
a. Bảng so sánh kết quả thực nghiệm khảo sát ở nhóm đối chứng và nhóm
thực nghiệm.
Mức độ Tổng số trẻ Tỷ lệ%
Nhóm đối
chứng
Nhóm thực
nghiệm
Nhóm đối
chứng
Nhóm thực
nghiệm
Giỏi 3 7 15 30
Khá 5 7 25 45
Trung bình 10 6 50 25
Yếu 2 0 10 0
Tổng 20 20 100 100
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
23
Nhìn vào bảng so sánh ta thấy: Kết quả thu được ở nhóm đối chứng và nhóm
thực nghiệm khá chênh lệch.Có thể nói sự chênh lệch này phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: Sự tập trung chú ý, sự nhận thức và năng khiếu của trẻ. Nhưng cái
mà chúng ta dễ dàng nhận thấy là sự thực nghiệm đạt kết quả cao hơn rõ rệt. Vì
lớp này sử dụng đồ dùng tự tạo, mới lạ, màu sắc đẹp, âm thanh dễ nghe nên trẻ
hứng thú tham gia vào bài hơn. Còn lớp đối chứng thì sử dụng đồ dùng quen
thuộc hàng ngày, nên trẻ nhàm chán hơn kết quả thu được thấp hơn.
b.Kết quả thực nghiệm kiểm chứng.
* Kết quả của nhóm đối chứng:
Bài 1: Em yêu cây xanh.
Bài 2: Chị ong nâu và em bé.
Bài 3: Cháu yêu cô chú công nhân.
Bài 4: Cả nhà thương nhau.
Bài 5: Đường em đi
Mức độ Bài 1 Bài 2 Bài 3 Bài 4 Bài 5 Trung
bình
Giỏi 4 5 3 5 3 4
Khá 6 5 6 6 7 6
Trung
bình
8 9 10 8 9 9
Yếu 2 1 1 1 1 1
* Kết quả của nhóm thực nghiệm.
Mức độ Bài 1 Bài 2 Bài 3 Bài 4 Bài 5 Trung
bình
Giỏi 11 11 12 11 10 11
Khá 7 6 7 7 8 7
Trung
bình
2 3 1 2 2 2
Yếu 0 0 0 0 0 0
Để tiện theo dõi kết quả thực nghiệm kiểm chứng tôi có bảng kết hợp thực
nghiệm kiểm chứng ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm như sau:
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
24
Mức độ Tổng số trẻ Tỷ lệ%
Nhóm ĐC Nhóm TN Nhóm ĐC Nhóm TN
Giỏi 3 11 15 55
Khá 6 7 30 35
Trung bình 10 2 50 10
Yếu 1 0 5 0
Tổng 20 20 100 100
Để dễ dàng so sánh kết quả thực nghiệm khảo sát và thực nghiệm kiểm chứng,
tôi có bảng so sánh kết quả như sau:
Mức
độ
Tổng số trẻ Tỷ lệ %
TN khảo sát TN kiểm chứng TN khảo sát TN kiểm chứng
Nhóm
ĐC
Nhóm
TN
Nhóm
ĐC
Nhóm
TN
Nhóm
ĐC
Nhóm
TN
Nhóm
ĐC
Nhóm
TN
Giỏi 3 7 4 11 15 35 20 55
Khá 5 7 6 7 25 35 30 35
Trung
bình
10 6 9 2 50 30 45 10
Yếu 2 0 1 0 10 0 5 0
Tổng 20 20 20 20 100 100 100 100
Từ kết quả trên chúng tôi có biểu đồ sau:
* Biểu đồ thực nghiệm khảo sát:
§µo ThÞ BÝch V©n Trêng mÇm non Liªn Ch©u
25