Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

NGUỒN NHÂN LỰC CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI TRUNG TRUNG BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.23 KB, 12 trang )

NGUỒN NHÂN LỰC CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
MIỀN NÚI TRUNG TRUNG BỘ
PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh
Trường ĐH Khoa học Huế
Các dân tộc thiểu số vùng miền núi Trung Trung Bộ
1
ngoài người
Hoa và các DTTS phía Bắc như Tày, Nùng, Thái mới di cư vào trong thời
gian gần đây, về cơ bản bao gồm 4 tộc người với trên 100 nghìn nhân
khẩu (tính đến năm 2007). Cụ thể ở Quảng Bình có 2 dân tộc thiểu số
chính cư trú là người Bru‑Vân Kiều và người Chứt với dân số trên 15.000
người [8; 13]; ở Quảng Trị là 2 dân tộc Tàôi và Bru‑Vân Kiều với dân số
trên 56.000 người [5;27]; Thừa Thiên‑Huế với 3 dân tộc, Tàôi, Cơtu và
Bru‑Vân Kiều với gần 38.000 người [5; 25].
Nhìn chung, các dân tộc thiểu số (DTTS) Trung Trung bộ có trình độ
phát triển kinh tế thấp kém và chịu nhiều thua thiệt về cơ hội phát triển
trong quá trình công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH). Vì vậy,
muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số nơi đây cần phải đặc biệt chú trọng phát triển nguồn nhân lực. Đây
vừa là động lực cũng vừa là mục tiêu của quá trình CNH, HĐH với cách
hiểu toàn diện của nội dung khái niệm này theo quan điểm của Đảng
ta. Quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình CNH, HĐH nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung.
Quy mô của nguồn nhân lực nói lên số lượng người trong độ tuổi lao
động, khả năng lao động, sự phân phối nguồn lao động theo giới tính
và độ tuổi, địa điểm thành thị hay nông thôn… Trong những năm gần
đây, dân số các DTTS trong khu vực nghiên cứu không ngừng được gia
tăng. Chỉ tính các dân tộc Chứt, Bru‑Vân Kiều, Tàôi, Cơtu ở khu vực
Quảng Bình, Quảng trị, Thừa Thiên‑Huế từ năm 1989 đến năm 2007
chúng ta thấy dân số của từng năm gia tăng đáng kể [5; 18].
1. Trung Trung bộ được tính gồm 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên‑ Huế.


CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
339
Bảng 1: Sự gia tăng dân số các tộc người thiểu số ở Trung Trung bộ
Nguồn: Ban Dân tộc các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên‑Huế
Qua bảng số liệu nêu trên, chúng ta thấy dân số các DTTS nơi đây có
chiều hướng gia tăng đáng kể. Dựa vào quy mô dân số, chúng ta thấy
số người trong độ tuổi lao động cũng tăng tỷ lệ thuận theo thời gian
hàng năm.
Bảng 2: Dân số theo độ tuổi lao động năm 2007
Nguồn: Ban Dân tộc các tỉnh Quảng Bình và tỉnh Thừa Thiên‑Huế
Quy mô dân số và số lượng người theo độ tuổi lao động tăng là nền
tảng cho việc thực hiện các chính sách phát triển CNH, HĐH ở vùng
đồng bào các DTTS nơi đây. Việc phân phối nguồn lực theo giới tính
cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến quá trình CNH, HĐN. Về cơ bản,
nguồn nhân lực các DTTS nơi đây có số lao động nữ chiếm tỷ lệ khá
nhiều, trung bình 51.6% so với số lượng nam giới, có lợi thế là có thể sử
dụng lực lượng lao động này vào các ngành kinh tế đòi hỏi sự khéo léo,
như dệt, may mặc, dày dép Đặc biệt, số lao động nữ ở nông thôn có
thể tận dụng vào các ngành nghề truyền thống như nghề dệt vải, dệt thổ
cẩm, nghề mây tre, đan lát… Tuy nhiên, nguồn nhân lực nữ ở đây vẫn
Dân tộc
Năm
Chứt
Q.Bình
Tà ôi Bru-Vân Kiều Cơ tu TTHuế
TTHuế Q.Trị Q.Bình TTHuế Q.Trị Q.Trị
1989 2.427
1994 2.861
1999 3.621 18.777 10.179 10.125 1.682 39.871 14.598
2006 4.718 27.109 10.711 13.612 1.707 41.901 15.583

2007 5.538 27.924 11.221 14.284 2.297 43.312 15.978
Dân tộc
Chứt
(Q. Bình)
Tà ôi
(chỉ tính TTHuế)
Bru-Vân Kiều
(chỉ tính TTHuế)
Cơ tu
(chỉ tính TTHuế)
6.430/ 3.252 27.924/ 14.718 2.297/ 1.062 15.978/ 8.115
% Dân số 50,2 52,7 46,3 50,8
340
Nguyễn Văn Mạnh
chủ yếu lao động thô sơ, thủ công trong kinh tế nương rẫy, chăn nuôi,
hái nhặt các sản vật của tự nhiên.
Cơ cấu nguồn lao động ở đây chủ yếu tập trung ở những vùng nông
thôn, miền núi. Họ sống trong những cộng đồng làng bản với hoạt động
kinh tế nương rẫy, săn bắn, đánh cá, hái lượm nên khả năng giao lưu
tiếp xúc với bên ngoài còn nhiều hạn chế. Lại nữa, trong những năm
qua, nguồn lao động trong các bản làng có xu hướng giảm dần. Số người
trong độ tuổi lao động, nhất là tầng lớp thanh niên có xu hướng tham
gia lao động trong các nông lâm trường, một bộ phận đã trở thành công
nhân trong các nhà máy, khu chế xuất ở vùng đồng bằng, đô thị. Tuy
nhiên, do khả năng nhận thức và chất lượng nguồn nhân lực các DTTS
nơi đây còn hạn chế, nên tỷ lệ tham gia vào các nhà máy, khu chế xuất
còn rất khiêm tốn. Về cơ cấu dân số theo độ tuổi, chúng ta thấy dân số
trong độ tuổi lao động và dưới độ tuổi lao động chiếm số lượng rất lớn
[5; 20].
Bảng 3: Cơ cấu độ tuổi lao động và dưới lao động năm 2007

Nguồn: Ban Dân tộc tỉnh Quảng Bình và tỉnh Thừa Thiên‑Huế
Thông qua bảng số liệu trên, chúng ta có thể nhận thấy cơ cấu dân
số của đồng bào các DTTS Trung Trung bộ là cơ cấu dân số trẻ, trong
đó độ tuổi lao động chiếm trên dưới 50% tổng dân số; nhóm dưới độ
tuổi lao động chiếm khoảng trên 30%, nhóm trên độ tuổi lao động ‑
những người già, chỉ chiếm khoảng trên 15%. Điều này khẳng định
rằng nguồn nhân lực các DTTS ở đây rất dồi dào, có thể đáp ứng về
nguồn lực lao động cho sự nghiệp phát triển CNH, HĐH. Hiện nay,
dân số dưới độ tuổi lao động chủ yếu là các em nhỏ và tầng lớp thiếu
niên đều được đến các trường PTCS và trường trung học nội trú. Tuy
Cơ cấu độ tuổi Chứt
(Q. Bình)
Tà Ôi
(chỉ tính TTHuế)
Bru-Vân Kiều
(chỉ tính TTHuế)
Cơ tu
(chỉ tính TTHuế)
Tổng dân số 6.430 27.924 2.297 15.978
Độ tuổi LĐ 3.252 14.718 1.062 8.115
Dưới độ tuổi LĐ 1.821 10.292 819 6.273
Trên độ tuổi LĐ 657 2.914 316 1.590
Nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số miền núi Trung Trung Bộ
341
nhiên chưa có một thống kê bao nhiêu phần trăm số lượng trẻ em được
đến trường và bao nhiêu phần trăm thất học, nhưng một thực tế là trẻ
em trên dưới 10 tuổi đã tham gia các hoạt động kiếm sống. Trẻ em nữ
thường theo mẹ đi hái nấm, hái măng, lên rẫy làm cỏ, hái rau và còn
giúp mẹ trong việc chuẩn bị bữa ăn hàng ngày và những công việc khác
trong gia đình. Trẻ em nam theo cha đi đặt bẫy và lên nương rẫy trợ

giúp cha lao động sản xuất. Nhìn chung, thiếu niên vùng đồng bào dân
tộc thiểu số thường sớm làm quen với lao động sản xuất kiếm sống.
Gần đây một số trẻ em còn tham gia vào chăn nuôi gia súc gia cầm và
kiếm củi bán. Nhìn chung đây là nguồn nhân lực trẻ đã hỗ trợ phần
nào cho sự ổn định và phát triển kinh tế trong khu vực; tuy nhiên đây
phải được coi là nguồn nhân lực bổ sung vào nguồn lao động cho tương
lai, còn hiện tại chỉ là sự phụ giúp trong phạm vi gia đình. Yêu cầu
chính của nguồn nhân lực này là phải được học hành, giáo dục định
hình nhân cách để trở thành nguồn lao động có chất lượng. Nếu không
chú ý vấn đề này, đề cao lao động trẻ em sẽ biến họ thàmh nô lệ trong
cuộc sống và điều đó ảnh hưởng đến nguồn nhân lực lao động trong
tương lai. Một thực tế số lượng trẻ em chưa đến độ tuổi lao động ở vùng
đồng bào dân tộc tham gia vào lao đông sản xuất quá sớm. Trẻ nhỏ lên
7, 8 tuổi đã được bố mẹ cho làm quen với những chiếc gùi để hái nấm
và thậm chí gùi sắn khoai, củi, ngô, chuối, mít từ nương rẫy về nhà.
Hơn nữa, người dân ở đây kể cả trẻ nhỏ quen với lối sống hoang dã tự
nhiên của rừng núi nên có tâm lý ngại đến trường, không thích những
con chữ con số, những bài toán phức tạp, thêm vào đó cộng đồng cũng
chưa có ý thức giáo dục khuyên răn con em đến trường, đồng thời có
một số bản vùng sâu trường lớp ở xa bản, đến mùa mưa lũ những con
suối ngăn cách bản với trường,… Tất cả những điều đó đã làm cho chất
lượng giáo dục không ổn định và thiếu hiệu quả. Một vấn đề cần đề
cập thêm ở đây là tình trạng sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của
nguồn lực trẻ em ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Trung Trung bộ còn
rất thấp. Số trẻ em suy dinh dưỡng còn chiếm một tỉ lệ lớn. Mặc dầu
chưa có một số lượng thống kê cụ thể về sự phát triển thể chất của trẻ
em nơi đây nhưng nhìn chung số trẻ em gầy, thấp, còi cọc và suy dinh
dưỡng chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Điều này phần nào làm hạn chế sự
phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH.
Theo quan điểm của ngành lao động, dưới độ tuổi lao động là

những trẻ em nhỏ hơn 15 tuổi. Nhưng ở vùng đồng bào các DTTS, quan
342
Nguyễn Văn Mạnh
niệm về lực lượng lao động của người dân ở đây mở rộng hơn, những
em nhỏ trên dưới 10 tuổi đã được bố mẹ coi là những lực lượng lao
động nhỏ của gia đình; các em tham gia vào nhiều hoạt động kiếm sống
khác nhau, kể cả bắt đầu thu hoạch và gùi sắn, ngô từ nương rẫy về
nhà. Những bé gái đã quen với việc mò cua bắt ốc, hái nhặt những sản
vật của tự nhiên trong rừng núi từ những năm lên 7 lên 8 tuổi; bé trai
theo cha lên rẫy, tập làm quen với đặt bẫy, săn bắn muông thú từ những
năm lên 9 lên 10.
Đối với nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động: Đây là một bộ phận
dân cư chiếm số lượng lớn, khoảng từ 50 ‑ 60 % dân số, có tác động trực
tiếp đến quá trình CNH, HĐH. Họ là những người tham gia vào tất cả
các lĩnh vực khác nhau của quá trình CNH, HĐH. Đó là quá trình hình
thành và hoạt động của các doanh nghiệp, các nông lâm trường, các nhà
máy, các khu chế xuất vừa và nhỏ; quá trình tiếp nhận các tri thức KHKT,
đổi mới sản xuất, đổi mới cách nghĩ và cách làm; là quá trình đa dạng
hoá các ngành nghề sử dụng sinh kế mới để tạo nên những sản phẩm
mang giá trị hàng hoá; là quá trình phát triển du lịch ở vùng đồng bào
các DTTS và giao lưu buôn bán, mở rộng kinh tế thị trường, trao đổi
hàng hoá vùng miền, tăng cường mạng lưới chợ,… Nguồn nhân lực
trong độ tuổi lao động có thể được phân theo giới tính và lứa tuổi. Về
giới tính, theo số liệu điều tra của chi cục thống kê các tỉnh Trung Trung
Bộ, tỉ lệ phụ nữ thường chiếm 51 – 53 % so với nam giới. Về độ tuổi có
thể phân thành độ tuổi thanh niên từ 18 – 35 và độ tuổi trung niên từ 36
– 45 [3; 57]. Ở đây, bộ phận nguồn lực lao động ở độ tuổi thanh niên
tham gia nhiều vào các nông lâm trường, các khu chế xuất, các nhà máy
vừa và nhỏ trên địa bàn. Lực lượng này có sức khoẻ tốt, cần cù, siêng
năng, chịu khó. Họ là những công nhân trồng rừng, khoanh nuôi và bảo

vệ rừng ở các nông lâm trường hoặc sản xuất trong các lĩnh vực trồng
cây công nghiệp, cây lấy gỗ, khai thác cao su, chăm sóc cà phê, hồ tiêu…
hoặc tham gia vào các xí nghiệp chế biến gỗ, xí nghiệp mộc, mây tre xuất
khẩu… Một bộ phận còn tham gia vào các nhà máy, khu chế xuất ở vùng
đồng bằng, đô thị như nhà máy may, giày dép, các khu chế xuất lâm thổ
sản… Nhìn chung, lực lượng lao động này đều tham gia vào các lĩnh
vực lao động thô sơ, thủ công là chính.
Đối với xu hướng tiếp nhận những tri thức khoa học để đổi mới cách
nghĩ cách làm trong lao động sản xuất, nguồn nhân lực trong độ tuổi
Nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số miền núi Trung Trung Bộ
343
lao động đều tham gia một cách tích cực, nhất là tầng lớp trung niên.
Họ được các cán bộ khuyến nông khuyến lâm, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức thực hiện các chương trình dự án trên địa bàn miền núi,
cung cấp giống cây trồng vật nuôi, cho vay vốn và hướng dẫn cụ thể
cách thức trồng trọt và chăn nuôi [1;48]. Ví như đồng bào các dân tộc
Chứt, Bru‑Vân Kiều, Tàôi, Cơtu,… ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên‑Huế được hướng dẫn cách trồng sắn cao sản K94, ngô lai, cách
trồng lúa nước, cách trồng các loại cây ăn quả có giá trị hàng hoá như
nhãn, thanh long, cam, cà phê, cao su, quế… và cách nuôi bò lai sin, nuôi
dê, nuôi lợn, trâu, bò với hình thức chăn dắt, chuồng trại. Từ đó, các
nguồn nhân lực lao động ở đồng bào đã biến đổi cách nghĩ cách làm, họ
dần dần đã chuyển đổi từ cách thức trồng trọt nương rẫy với cây lúa
hoặc sắn, ngô và kinh tế hái nhặt các sản vật trong tự nhiên, chăn nuôi
thả rông, sang trồng trọt các loại cây, nuôi những vật nuôi có giá trị hàng
hoá, có nghĩa là những cây trồng và những vật nuôi mới mà từ trước
đến nay họ chưa từng làm. Và như vậy người dân phải làm quen với lối
canh tác mới, hình thức chăn nuôi mới, đó là những tri thức KHKT bước
đầu được người dân tiếp nhận.
Đối với xu hướng đa dạng hoá ngành nghề trong hoạt động sản

xuất, là một trong những xu hướng quan trọng của quá trình CNH,
HĐH của vùng núi TTB hiện nay. Đối với xu hướng này, gần như toàn
bộ các nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động đều tham gia. Nếu như
trước đây, người dân chủ yếu làm kinh tế nương rẫy, săn bắt, đánh cá,
hái lượm và đan lát, dệt vải để phục vụ cho kinh tế tự cung tự cấp của
mình thì hiện nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, tác động
của các chương trình dự án, các chính sách xã hội, người dân đã
chuyển biến nhận thức trong cách nghĩ, cách làm. Trong các hoạt động
kinh tế truyền thống như nương rẫy, họ đã biến chuyển từ nương rẫy
du canh với hình thức quảng canh tự cung tự cấp sang nương rẫy có
kỹ thuật bằng cách luân canh thường xuyên có độ che phủ, biết kết
hợp trồng các loại cây truyền thống lúa, ngô, sắn… với các loại cây ăn
quả, cây công nghiệp có giá trị hàng hoá. Trong chăn nuôi, nhiều vật
nuôi mới đã xuất hiện như bò lai sin, dê, ngan, ngỗng, đặc biệt là người
dân đã chuyển biến từ nuôi thả rông sang chăm sóc vật nuôi có chuồng
trại. Những năm gần đây, nguồn lực lao động tham gia vào chăn nuôi
ngày càng tăng lên. Người phụ nữ đã biết tìm các nguồn thức ăn, chế
biến sắn, ngô, để chăn nuôi lợn. Đàn ông làm chuồng trại trâu, bò, lợn
344
Nguyễn Văn Mạnh
và tham gia vào việc chăn dắt các đàn gia súc. Vì vậy, chăn nuôi ngày
càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của người dân. Sản phẩm
của hoạt động kinh tế này không chỉ phục vụ cho lễ nghi cúng tế như
trước đây mà còn tham gia vào cải thiện bữa ăn cho các hộ gia đình,
đặc biệt là sản phẩm có giá trị hàng hoá cao, nhất là trâu, bò. Các ngành
nghề thủ công cũng không chỉ dừng lại tự cung tự cấp như trước đây
mà đã chú trọng đến xuất khẩu như nghề dệt thổ cẩm của người Tàôi,
Cơtu, nghề mộc, mỹ nghệ, mây tre đan lát… Các hoạt động thủ công
này đã thu hút nguồn lực lao động nhất định, trong đó, nếu như nguồn
lực lao động của nghề dệt thổ cẩm là người phụ nữ thì nghề đan lát

mây tre, nghề mộc mỹ nghệ lại là sự tham gia của cả nguồn lực nam
giới và phụ nữ. Trong những năm gần đây, một số dự án phát triển
nghề thủ công phục vụ cho hoạt động du lịch, nhất là nghề dệt của
người Tà ôi ở A Lưới, nghề điêu khắc, dệt thổ cẩm của người Cơ tu ở
Nam Đông ‑ Thừa Thiên‑Huế. Các dự án đã mở các lớp đào tạo cung
cấp phương tiện kỹ thuật mới, nguyên liệu mới nên đã thu hút một
nguồn lực lao động đáng kể vào lĩnh vực lao động này. Bên cạnh đa
dạng hoá cách nghĩ cách làm các ngành nghề truyền thống, cộng đồng
các dân cư nơi đây còn hình thành những ngành nghề mới. Nếu như
trước đây, chỉ có người Chăm và người H’rê làm ruộng nước thì hiện
nay, mặc dù tuỳ điều kiện của từng vùng, nhưng về cơ bản ở đa số các
bản làng đồng bào các DTTS đã hình thành kinh tế ruộng nước[4;67].
Bên cạnh đó, các hoạt động ngành nghề dịch vụ như máy xay xát, mở
quán sửa chữa xe máy, tivi, các quán hàng nhỏ, mua bán các nông sản
đã được xuất hiện ở hầu khắp các bản làng đồng bào các DTTS. Một
điều đặc biệt đáng chú ý là xuất hiện ở các bản làng một số gương điển
hình làm kinh tế giỏi với mô hình kinh tế trang trại vườn ao chuồng
kết hợp trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ, chăn nuôi trâu bò và đào ao thả
cá. Các trang trại vườn đồi và vườn rừng khác đã đã thu hút nguồn
lực đáng kể của địa phương vào lao động sản xuất. Rõ ràng đa dạng
hoá ngành nghề đã tạo cho các nguồn lực lao động có cơ hội tham gia
vào các hoạt động kinh tế sản xuất, tăng thu nhập, tạo nên biến đổi xã
hội và thúc đẩy quá trình CNH, HĐH.
Đối với hoạt động du lịch, một trong những xu hướng CNH, HĐH
ở vùng miền núi, các hoạt động du lịch này tập trung chủ yếu ở các lĩnh
vực du lịch hang động danh thắng như Phong Nha, Bạch Mã và du lịch
văn hoá sinh thái làng bản các DTTS. Ở các hoạt động du lịch này, nguồn
Nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số miền núi Trung Trung Bộ
345
lực lao động của người dân tại chỗ chủ yếu chỉ tham gia vào dẫn đường,

vận chuyển du khách đến các điểm du lịch bằng thuyền như ở Phong
Nha, hoặc tham gia mua bán các loại hàng thủ công truyền thống cũng
như chuẩn bị các món ăn truyền thống, rượu cần để phục vụ du khách.
Tuy nhiên, hoạt động du lịch ở vùng đồng bào các DTTS vùng Trung
Trung bộ trong thời gian qua phát triển chưa nhiều và chủ yếu cũng chỉ
dừng lại ở du lịch sinh thái, danh thắng. Điều đó hạn chế phần nào đến
việc thu hút nguồn nhân lực của đồng bào các DTTS vào lĩnh vực kinh
tế này.
Kinh tế thị trường được coi là bước đột phá đầu tiên của quá trình
CNH, HĐH của đồng bào DTTS Trung Trung bộ nói riêng và các vùng
miền núi khác ở nước ta nói chung. Kinh tế thị trường là một đòn bẩy,
tạo cho người dân có một cách nghĩ, cách làm mới, không ỷ lại, trông
chờ vào cộng đồng, vào tự nhiên, vào nhà nước và chính phủ. Người
dân buộc phải nghĩ làm thế nào để sản xuất ra sản phẩm có giá trị hàng
hoá trao đổi ra thị trường, làm thế nào để không chỉ giải quyết cái đói,
ăn no mặc ấm mà phải biết kiếm tiền làm giàu trên chính sức lao động
và nguồn tài nguyên của mình. Nếu như trước đây, người dân chỉ biết
lao động sản xuất, rồi nhờ trời, còn thành quả của sức lao động, con
người không cần biết đến, chỉ biết là phải làm, phải kiếm ăn để kiếm
sống, thì nay họ đã biết làm như thế nào để có cái ăn, để bán ra thị
trường và mua những thứ không sản xuất ra được, để cải thiện bữa ăn
hàng ngày, tăng thêm các nhu yếu phẩm của gia đình. Chính những tác
động của kinh tế thị trường đã tự nó nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực của đồng bào các DTTS. Họ đã biết học hỏi những người xung
quanh, những gương điển hình giỏi trong sản xuất, biết tiếp nhận những
tri thức khoa học, biết lắng nghe cán bộ khuyến nông khuyến lâm hướng
dẫn cách sản xuất, biết động viên con em đến trường học nghề như nghề
may, sửa xe máy, radio… Cũng chính kinh tế thị trường đã hình thành
một mạng lưới chợ ở vùng đồng bào các DTTS với nhiều nông sản do
người dân làm ra. Nhờ vậy, việc trao đổi với người Việt, giữa dân tộc

này với dân tộc khác ngày càng được mở rộng. Các mặt hàng công
nghiệp của đồng bằng có mặt ngày càng nhiều và được đồng bào các
DTTS mua bán, trao đổi phổ biến hơn. Đó là một tín hiệu đáng mừng
cho xu hướng CNH, HĐH vùng đồng bào các DTTS Trung Trung bộ.
Trong hoạt động kinh tế hàng hoá, hầu như mọi nguồn lực lao động đều
tham gia, trong đó trao đổi sản phẩm ở các chợ hoặc ở ngay các bản làng
346
Nguyễn Văn Mạnh
là công việc chủ yếu của người phụ nữ, chỉ trừ các bản làng người Tàôi
ở sát biên giới Việt ‑ Lào ở Quảng Trị và một số nhóm người Chứt như
người Rục, Mày, người đàn ông có một vai trò đáng kể trong trao đổi,
mua bán.
Đối với nguồn nhân lực trên độ tuổi lao động, theo quan điểm
chung của Đảng và Chính phủ, phụ nữ từ 55 tuổi và nam giới từ 60
tuổi trở lên. Nhưng vùng đồng bào các DTTS, nguồn nhân lực này độ
tuổi có thể giảm hơn trên dưới 5 tuổi; có nghĩa là, người phụ nữ
khoảng trên dưới 50 tuổi và đàn ông trên dưới 55 tuổi được coi là
những người già không đi nương rẫy, chỉ làm những công việc phụ ở
nhà hoặc xung quanh thôn bản. Theo thống kê của Ban Dân tộc miền
núi một số tỉnh Trung Trung Bộ, số lượng người trên độ tuổi lao động
có khoảng 15%. Họ là những người trên dưới 50 tuổi cho đến những
người già cả trong làng bản. Tuy không phải là lực lượng lao động
chính, nhưng họ là một nguồn lực đáng kể cho quá trình CNH, HĐH.
Bởi vì, ở các cộng đồng dân cư nơi đây, ý kiến của già làng có vai trò
rất quan trọng đối với cộng đồng. Vì vậy tuy không tham gia các công
việc làm rẫy, chăn nuôi, các nghề thủ công, họ đảm trách những công
việc phụ nhẹ hơn và động viên cháu con giữ gìn thuần phong mỹ tục,
tri thức dân gian, văn hoá truyền thống và tiếp nhận cái mới, cái hay
để vươn lên làm giàu.
Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực đồng bào DTTS nơi đây

được sử dụng vào nhiều nhóm ngành kinh tế khác nhau, mặc dầu chủ
yếu nguồn nhân lực vẫn tập trung trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao
gồm cả trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng ngay trong cơ cấu kinh tế này
nguồn nhân lực đã được chuyển đổi theo cơ chế thị trường. Bên cạnh
đó, một bộ phận nguồn nhân lực chủ yếu là lao động thanh niên tham
gia vào các nông lâm trường, các khu chế xuất, các nhà máy vừa và nhỏ
trên địa bàn, một bộ phận tham gia vào cơ cấu lâm nghiệp, nhận trồng
rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Gần đây, một bộ phận nguồn lực lao
động trẻ cũng tham gia vào các ngành nghề xây dựng cơ bản và các dịch
vụ, thương nghiệp, nhà hàng, sửa chữa xe máy, tivi… và một bộ phận
tham gia vào hoạt động du lịch như vận chuyển khách hàng, sản xuất
và mua bán các sản phẩm thủ công mỹ nghệ… Như vậy, cùng với quá
trình CNH, HĐH ở vùng miền núi, chúng ta thấy nguồn nhân lực đang
có xu hướng tham gia vào nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau. Đó là
Nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số miền núi Trung Trung Bộ
347
dấu hiệu đáng mừng thúc đẩy quá trình đa dạng hoá cơ cấu kinh tế, góp
phần thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH vùng đồng bào các DTTS
nơi đây.
Cũng cần phải nói thêm rằng, trong những năm gần đây, nhờ chủ
trương của Đảng và Chính phủ về việc nâng cao giáo dục cho con em
đồng bào các DTTS nên một số thanh thiếu niên đã được tham gia vào
các lớp học cử tuyển ở các trường đại học. Sau khi ra trường, phần lớn
nguồn nhân lực này tham gia vào các tổ chức xã hội và các thành phần
kinh tế quốc doanh. Tuy nhiên nguồn nhân lực tham gia vào các thành
phần kinh tế quốc doanh của đồng bào các DTTS còn rất khiêm tốn.
Như vậy, thực trạng nguồn lực của đồng bào DTTS vùng TTB đang
nổi lên những vấn đề chính sau đây:
‑ Nguồn nhân lực lao động trẻ, kể cả nguồn lực trong độ tuổi lao
động và dưới độ tuổi lao động. Để bổ sung vào nguồn nhân lực lao động

trong tương lai, đây được coi là một thuận lợi đáng kể cho sức bật, sức
vươn lên cho quá trình CNH, HĐH của cộng đồng dân cư nơi đây.
‑ Nguồn nhân lực lao động của đồng bào DTTS số nơi đây có truyền
thống yêu lao động, cần cù, siêng năng, chịu khó trong công việc, biết
dựa trên nền tảng các giá trị truyền thống để tiếp nhận cái hay, cái mới
của thời đại. Trong xu thế hiện nay, họ biết lắng nghe, biết học hỏi, biết
đổi mới nhận thức, đổi mới cách nghĩ cách làm.
‑ Nguồn nhân lực của đồng bào DTTS nơi đây đã tham gia một cách
tích cực, phổ biến ở tất cả mọi xu hướng của quá trình CNH, HĐH vùng
miền núi. Có những xu hướng họ mới làm quen, mới bước đầu tiếp nhận
như xu hướng tham gia vào các hoạt động du lịch, tham gia vào các nông
lâm trường, nhà máy, xí nghiệp. Có những xu hướng họ tham gia để
biến chuyển hoạt động kinh tế truyền thống của mình, như đa dạng hoá
ngành nghề, kinh tế thị trường…
Đây được coi là những nhân tố tích cực về nguồn nhân lực của đồng
bào các DTTS vùng núi Trung Trung bộ, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH
đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên quê hương của họ. Tuy nhiên,
nguồn nhân lực lao động ở đây cũng có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu
cực đến quá trình phát triển CNH, HĐH, như:
348
Nguyễn Văn Mạnh
‑ Chất lượng nguồn nhân lực nơi đây không được đảm bảo, tình
trạng nghèo đói đã làm cho một bộ phận không nhỏ nguồn nhân lực
thấp bé, suy dinh dưỡng và đặc biệt trình độ giáo dục, khả năng tiếp
nhận tri thức của họ còn rất hạn chế. Điều này gây khó khăn không nhỏ
đến việc hình thành một nguồn lực lao động có trình độ để tham gia vào
những ngành công nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ.
‑ Do lối sống gắn bó với cái hoang dã của môi trường tự nhiên và có
phần ỷ lại vào cộng đồng, vào môi trường tự nhiên đó, nên trong cơ chế
thị trường với môi trường sống của quá trình CNH, HĐH đòi hỏi tính

tổ chức kỷ luật, sự vươn lên của con người, đồng bào còn bỡ ngỡ và
chậm thích nghi. Một hạn chế cũng cần được chú ý là nguồn lực lao
động ở đây thiếu đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nếu có cũng chỉ là các
lớp dạy cách chăm sóc cây trồng vật nuôi một cách cụ thể, còn việc mở
các lớp dạy về chuyên môn, tay nghề, tạo cơ hội cho họ trở thành công
nhân của các nhà máy hầu như chưa được quan tâm. Vì vậy, nguồn nhân
lực ở đây cũng chỉ là lao động thô sơ, đơn giản, thiếu trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và tay nghề lao động.
‑ Nhìn chung, số đông nguồn lực lao động khi bước vào cơ chế thị
trường còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm làm ăn, ý thức tự lập yếu, tính
ỷ lại còn bén rễ nặng nề; thêm vào đó, họ còn thiếu thông tin, thiếu vốn,
thiếu kiến thức về kinh tế thị trường… Vì vậy, tình trạng lãng phí nguồn
lực lao động nhất là thời gian nông nhàn, mùa vụ kết thúc, lối sản xuất
trì trệ chưa mang lại hiệu quả tích cực vẫn còn phổ biến; có nơi tình trạng
sản xuất còn độc canh cây lương thực, cơ cấu kinh tế dịch vụ chưa phát
triển, việc phục hồi và phát triển các ngành nghề truyền thống chưa
được quan tâm. Đặc biệt, người dân vẫn e ngại việc sử dụng các biện
pháp thâm canh tăng vụ, chăm sóc cây trồng trong hoạt động kinh tế
nương rẫy.
‑ Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một nguồn lực lao động trẻ, tầng lớp
thanh thiếu niên, nhất là các thanh thiếu niên nam còn nhàn rỗi, thời
gian dành để chơi bời, không tập trung vào việc học hành và lao động
sản xuất. Số lượng này mặc dù không nhiều nhưng tiềm ẩn một nguy
cơ gây nên những tệ nạn xã hội trong cộng đồng.
Trên đây là những mặt ưu điểm, hạn chế cơ bản của nguồn nhân lực
đồng bào các DTTS vùng Trung Trung Bộ trong quá trình CHN, HĐH.
Nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số miền núi Trung Trung Bộ
349
Phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của nguồn
nhân lực đồng bào các DTTS vùng núi Trung Trung bộ là một yêu cầu

bức thiết của quá trình CNH, HĐH nơi đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Minh Cương (2002), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Giáo dục, HN.
[2] Đặng Bá Lãm (2002), Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học công
nghệ trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.
[3] Trịnh Duy Luân (2002), Một số vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐN, Tạp chí xã hội học, tr 7‑12, 2002.
[4] Nguyễn Thanh (2002), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất
nước, Nxb Chính trị quốc gia, HN.
[5] Nguyễn Văn Mạnh (2008), Biến đổi văn hoá truyền thống trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các dân tộc thiểu số Quảng Bình, Thừa Thiên‑
Huế, đề tài khoa học cấp tỉnh.
[6] Ban dân tộc và miền núi tỉnh Bình Định (2000), Văn hoá các dân tộc thiểu
số tỉnh Bình Định, Nxb Thuận Hoá, Huế.
[7] Ban dân tộc tỉnh Quảng Nam (2005), Tìm hiểu con người miền núi Quảng
Nam, Quảng Nam.
[8] Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình (2008), Sổ tay công tác dân tộc, Đồng Hới.
[9] Hoàng Minh Đô (2006), Tín ngưỡng, tôn giáo trong cộng đồng người Chăm
ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Nxb Lý luận Chính trị, HN.
[10] Nguyễn Thị Kim Hoa (2003), Phong tục vòng đời của người Êđê Mdhur ở
Phú Yên, Nxb Văn hoá dân tộc, HN.
[11] Nguyễn Văn Mạnh (2002), Văn hoá làng và làng văn hoá ở Quảng Ngãi,
Nxb. Thuận Hoá, Huế.
350
Nguyễn Văn Mạnh

×