Tải bản đầy đủ (.docx) (119 trang)

Chuyên đề về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong pháp luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.5 KB, 119 trang )

1
Chuyên đề về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong pháp
luật hình sự Việt Nam
I. Đặc điểm của mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự
Tội phạm là một hiện tượng xã hội và một trong những đặc điểm của tội phạm là tính
nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ nó ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Để xác định hành vi nào đó do con người thực hiện có
phải là tội phạm hay không phải dựa vào cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là cơ sở
pháp lý thống nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Như vậy, “cấu thành
tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu được quy định trong Luật Hình sự đặc trưng cho một
loại tội phạm cụ thể” [2, tr.124]. Nhắc đến cấu thành tội phạm là đề cập đến các yếu tố
cấu thành tội phạm cũng như các dấu hiệu của mỗi yếu tố đó. Phụ thuộc vào mỗi chế độ,
nhà nước khác nhau và phụ thuộc vào chính sách hình sự của nhà nước đó mà quy định
trong pháp luật hình sự những yếu tố nào là các yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên,
việc quy định về cấu thành tội phạm cũng như các yếu tố cấu thành tội phạm mới chỉ là
bước đầu tiên có ý nghĩa xác định tội phạm, mục đích xa hơn nữa của pháp luật hình sự là
phải quy định biện pháp xử lý đối với tội phạm đó. Nói cách khác, đó là hậu quả pháp lý
của việc thực hiện tội phạm.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm thực hiện và đương
nhiên người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà nước.
Cấu thành tội phạm là một khái niệm pháp lý và các dấu hiệu cấu thành tội phạm là căn
cứ pháp lý cần thiết để định tội nhưng không phải là căn cứ đủ để quyết định giới hạn cấu
thành tội phạm. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm là những dấu hiệu có tính đặc trưng,
điển hình cho một loại tội phạm cụ thể, dựa vào cấu thành tội phạm các cơ quan tiến hành
tố tụng có thể nhận thức đúng đắn cấu trúc của một loại tội nhất định và định tội danh
đúng cho người phạm tội.
2
Tội phạm là một hiện tượng có tính đa dạng thể hiện không chỉ ở các loại tội phạm khác
nhau mà còn ở chỗ tội phạm được thực hiện bởi những con người cụ thể khác nhau với
những tình tiết, diễn biễn không giống nhau. Điều này dẫn đến tính chất, mức độ nguy


hiểm của mỗi loại tội phạm và mỗi người phạm tội có sự cao thấp khác nhau. Do vậy, để
có căn cứ xác định mức độ nguy hiểm của một tội phạm một cách chính xác và triệt để
đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt,
Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định rõ một trong những căn cứ Toà án phải
cân nhắc khi quyết định hình phạt là các tình tiết tăng nặng (và giảm nhẹ) trách nhiệm
hình sự. Tuy nhiên, về khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự lại chưa được
nhà làm luật ghi nhận trong Bộ luật hình sự năm 1999. Theo chúng tôi, có thể định nghĩa
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
là tình tiết được quy định trong Phần chung Bộ luật Hình sự với tính chất là tình tiết tăng
nặng chung và là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa trách nhiệm hình sự và
hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung
hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự là hai khái niệm pháp lý khác nhau có bản chất, ý nghĩa pháp lý khác nhau, đồng
thời vai trò của chúng trong pháp luật hình sự cũng khác nhau. Tuy nhiên, giữa hai khái
niệm này có hoàn toàn độc lập với nhau và không có ảnh hưởng, tác động đến nhau hay
đây là một mối quan hệ tương hỗ, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau? Do vậy, việc
xem xét mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
có ý nghĩa lý luận – thực tiễn quan trọng giúp cho việc nhận thức đúng đắn và áp dụng
thống nhất các quy định của pháp luật hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
được khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
1) Mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ
xuất hiện đối với một tội phạm cụ thể.
3
Khi xem xét về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự cần thống nhất một đặc điểm của mối quan hệ này là chỉ xuất hiện đối với một tội
phạm cụ thể. Hành vi phạm tội được thực hiện trên thực tế không phải bao giờ cũng chỉ
bao gồm một hoặc một số tình tiết nhất định mà nó bao gồm tổng thể các dấu hiệu được
thể hiện ra thế giới khách quan và các dấu hiệu tâm lý, ý thức chủ quan của người thực
hiện tội phạm. Muốn xác định được đúng tội phạm và là tội phạm cụ thể nào thì các cơ

quan tiến hành tố tụng phải cân nhắc, so sánh, đối chiếu các dấu hiệu của hành vi được
thực hiện trên thực tế với các dấu hiệu được mô tả trong từng cấu thành tội phạm cụ thể
tại Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Những dấu hiệu được mô tả trong từng cấu
thành tội phạm chính là những chuẩn mực để xác định những đại lượng chung của trách
nhiệm hình sự. Điều này “đánh dấu một bước tiến bộ của pháp luật hình sự nước ta, là
biểu hiện của tư tưởng công bằng được thể hiện trong pháp luật hình sự” [6, tr.97].
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải
xem xét, xác định sau khi đã xác định tội phạm và người phạm tội. Tình tiết này phải là
tình tiết có liên quan đến vụ án và tội phạm đang xem xét mà không phải là tình tiết định
tội hay tình tiết định khung hình phạt. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một
phạm trù pháp lý đặt ra để xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Nếu không
có tội phạm thì cũng không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tội phạm ở đây là
tội phạm cụ thể trong một vụ án hình sự). Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, quyết
định mức độ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm ảnh hưởng ở mức độ khái quát đến quyền và lợi ích của người phạm tội, còn
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự lại ảnh hưởng một cách trực tiếp nhất đến các
quyền và lợi ích của người phạm tội. Để xác định tội phạm và người phạm tội phải dựa
vào các dấu hiệu của cấu thành tội phạm, nhưng để xác định một giới hạn hình phạt đối
với người phạm tội thì tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự lại có vai trò rất lớn. Một
mức hình phạt cụ thể là ba năm, bảy năm, mười lăm năm, hai mươi năm, thậm chí là sự
lựa chọn giữa hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình một phần phụ thuộc vào việc
người phạm tội có hay không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có một hay
4
nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, để từ đó Toà án quyết định quyền sống hay
chết của người phạm tội. Như vậy, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ
này có ý nghĩa và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của Toà án, đến quyền và lợi ích
thiết thân của chính bản thân người phạm tội.
Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được áp dụng ngang nhau đối với mọi cá nhân khác
nhau, nhưng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự lại ảnh hưởng khác nhau đối với
những người phạm tội khác nhau trong cùng một vụ án hình sự đối với một tội phạm cụ

thể. Cụ thể, trong một vụ án hình sự có thể có một tội phạm hoặc nhiều tội phạm, một
người phạm tội hoặc nhiều người phạm tội, nên việc xác định tình tiết định tội và tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ trong phạm vi một tội phạm cụ thể mà không được sử
dụng tình tiết định tội của tội phạm này làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của
tội phạm khác cũng như tình tiết tăng nặng của người phạm tội này làm tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khác.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có tính chất hỗ trợ cho các dấu hiệu cấu thành tội
phạm để xác định một cách chính xác, rõ ràng, cụ thể tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm, làm căn cứ xác định mức trách nhiệm hình sự công bằng đối với
những người phạm tội khác nhau. Bởi lẽ, trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với từng
cá nhân người phạm tội khác nhau với những đặc điểm, hoàn cảnh, cách thức thực hiện
tội phạm khác nhau nên Toà án phải dựa vào các căn cứ cụ thể để đánh giá tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và của nhân thân người phạm tội.
Việc xác định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Trách nhiệm này không
được hiểu là trong mọi tội phạm đều có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các cơ
quan tiến hành tố tụng phải xác định đủ ba loại tình tiết: tình tiết định tội, tình tiết định
khung và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một vụ án hình sự. Nếu hiểu như
vậy sẽ vi phạm nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong vụ
án hình sự với một tội phạm cụ thể có thể có hoặc không có tình tiết tăng nặng trách
5
nhiệm hình sự. Điều này phụ thuộc vào các tình tiết khách quan của tội phạm mà không
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét đến khi Toà án quyết
định hình phạt phải là tình tiết có liên quan đến tội phạm đã thực hiện, phản ánh mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên đáng kể. Đặc điểm này của tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự có liên quan mật thiết đến việc định tội danh – xác định sự
trùng lặp giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể với các tình tiết thực tế khách
quan của hành vi phạm tội. Một trong những dạng của định tội danh sai là định sai về loại
tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện, từ đó xác định sai tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự. Chẳng hạn: Hành vi phạm tội của A thuộc các dấu hiệu của tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285), nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng lại truy
tố, xét xử A về tội cố ý làm lộ bí mật công tác (Điều 286) và xác định có tình tiết tăng
nặng là “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” (quy định tại điểm c khoản 1 Điều
48). Như vậy, A không những bị định tội danh sai mà còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự không đúng. Bởi lẽ, trong tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng, lỗi của người phạm tội là vô ý, người phạm tội không mong muốn thực hiện tội
phạm thì cũng không có ý thức lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để phạm tội.
2) Cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thể hiện mối quan hệ
giữa tính khái quát của pháp luật hình sự và tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự.
Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng “là sản phẩm của quy luật khách quan,
là tấm gương phản chiếu những gì nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người” [9, tr.217]
. Do vậy, Bộ luật Hình sự phải quy định một cách đầy đủ các tội phạm và các dấu hiệu
của từng tội phạm, đảm bảo sự bình đẳng giữa những người phạm tội với nhau. Tính khái
quát của pháp luật hình sự thể hiện rõ nét ở các quy định về các yếu tố cấu thành tội
phạm, các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể. Ở đây, các yếu tố cấu thành tội phạm
giống như cái khung của một ngôi nhà và các cấu thành tội phạm cụ thể là từng ngôi nhà
6
cụ thể nhưng đó mới chỉ là ngôi nhà trên bản vẽ. Tội phạm được thực hiện trên thực tế rất
đa dạng và phong phú với những tình tiết vượt ra ngoài phạm vi những gì pháp luật đã dự
liệu. Thực tế khách quan đó không chỉ đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải có sự
sáng tạo, linh hoạt trong việc vận dụng các quy phạm pháp luật hình sự mà còn đỏi hỏi
các quy định của pháp luật hình sự phải tạo một hành lang pháp lý, một cơ sở pháp lý cho
sự sáng tạo của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự. Việc áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự vào từng trường hợp cụ thể là một hoạt động rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự
tiến hành một cách tuần tự từ cái chung đến cái riêng, từ nhận thức khái quát đến đánh
giá một cách cụ thể. Các cơ quan tiến hành tố tụng là những nấc trung gian đưa các quy
phạm pháp luật hình sự vào cuộc sống, áp dụng đối với những con người cụ thể trong
từng vụ án cụ thể. Pháp luật hình sự phải tạo ra một hành lang đủ để các cơ quan tiến

hành tố tụng có thể thể hiện tính sáng tạo, chủ động của mình trong việc vận dụng quy
phạm pháp luật để giải quyết vụ án hình sự một cách công bằng, khách quan và đúng
pháp luật. Điều này có nghĩa các quy định của pháp luật hình sự trao quyền đánh giá,
phán xét cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong một giới hạn nhất định do luật định.
Trong pháp luật hình sự Việt Nam quy định về cấu thành tội phạm là những dấu hiệu có
tính khái quát, đặc trưng của một loại tội phạm cụ thể, là cơ sở của trách nhiệm hình sự
và có ý nghĩa trong việc định tội danh. Nói cách khác, “cấu thành tội phạm là điều
kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự” [4, tr.59]. Cấu thành tội phạm chỉ đảm bảo tính
bình đẳng của pháp luật hình sự chưa đủ để đảm bảo tính công bằng của pháp luật hình
sự. Bởi lẽ, mặc dù những người phạm tội cùng thực hiện một tội phạm nhưng phương
pháp, thủ đoạn, địa điểm hoàn cảnh phạm tội lại không giống nhau. Do vậy, không thể
chỉ dựa vào duy nhất các dấu hiệu cấu thành tội phạm để quyết định mức độ trách nhiệm
hình sự của những người phạm tội khác nhau. Việc Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ quyết định hình
phạt đã tạo cho Toà án cơ sở pháp lý để thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo của mình
trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự. Mặc dù Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy
định cụ thể mức độ ảnh hưởng của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đến mức hình
phạt của người phạm tội như thế nào mà trao quyền đánh giá này cho Toà án. Tuy nhiên,
7
sự đánh giá, phán xét của Toà án không phải vô hạn mà sự đánh giá nằm trong một phạm
vi do luật đã định sẵn. Điều này thể hiện ở những điểm sau:
- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm những tình tiết liệt kê tại khoản
1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Trong quá trình xét xử, Toà án không được cân
nhắc đến những tình tiết khác ngoài phạm vi những tình tiết do luật quy định tại Điều 48.
Đây chính là điểm khác biệt so với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cụ thể, tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không những được quy định trong pháp luật hình sự
thực định (Bộ luật Hình sự năm 1999), mà chúng còn được quy định trong các văn bản
pháp lý khác hoặc do Tòa án tự xem xét, cân nhắc để quyết định và được ghi vào bản án.
- Trường hợp một tình tiết đã được luật quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình
phạt thì Tòa án không được coi nó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Trong một vụ án hình sự, đối với người phạm tội dù có nhiều tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thì Toà án cũng không được quyết định mức hình phạt vượt mức tối đa mà
khung hình phạt đã quy định hoặc lựa chọn loại hình phạt khác mà khung hình phạt
không quy định.
Qua sự phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng việc không quy định các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự chung vào cấu thành tội phạm cụ thể là một tất yếu khách
quan. Nó vừa thể hiện tính mềm dẻo của pháp luật hình sự nước ta, không “bó tay” các
cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời đảm bảo tính cụ thể của việc xác định giới hạn trách
nhiệm hình sự.
II. Mối quan hệ của các yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự
Qua việc xem xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1
Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 cho thấy là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
là những tình tiết phản ánh những đặc điểm thuộc về mặt khách quan, mặt chủ quan hoặc
nhân thân người phạm tội. Trong khi đó, các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm: khách
8
thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm. Như vậy, giữa các yếu tố cấu
thành tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không hoàn toàn độc lập với
nhau nên cần có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự với từng yếu tố cấu thành tội phạm.
1) Mối quan hệ giữa khách thể của tội phạm với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị hành vi phạm
tội xâm hại. Dựa vào khách thể của tội phạm, chúng ta xác định được hành vi nguy hiểm
cho xã hội do con người thực hiện có phải là tội phạm hay không và có cơ sở chung nhất
để xác định tính nguy hiểm của tội phạm đó. Tuy nhiên, không thể chỉ căn cứ vào khách
thể của tội phạm để xác định mức độ trách nhiệm hình sự cụ thể của người phạm tội.
Trong các bộ phận cấu thành khách thể của tội phạm lại có ảnh hưởng đến mức độ trách
nhiệm hình sự của người phạm tội. Điển hình là đối tượng tác động của tội phạm là một
trong các căn cứ tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong phạm vi một
khung hình phạt. Sự ảnh hưởng này được quy định cụ thể tại Điều 48 Bộ luật Hình sự

năm 1999 khi liệt kê cụ thể những đối tượng tác động nào làm tăng mức độ trách nhiệm
hình sự của người phạm tội như: Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già,
người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt
vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác và xâm phạm tài sản của nhà nước. Do
vậy, khi người phạm tội có một trong những tình tiết này thì mức độ tăng nặng trách
nhiệm hình sự của họ lớn hơn, và điều đó có nghĩa mức hình phạt của họ sẽ cao hơn so
với trường hợp bình thường mà không có tình tiết ấy.
2) Mối quan hệ giữa mặt khách quan của tội phạm với tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những dấu hiệu của
tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy
hiểm cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu thể hiện khi thực
hiện hành vi phạm tội nó gắn liền với công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm
9
tội, thời gian và hoàn cảnh phạm tội. Những dấu hiệu thuộc mặt khách quan ở mức độ
này hay mức độ khác đều có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm được quy định trong tất cả
các cấu thành tội phạm với ý nghĩa là dấu hiệu định tội. Dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho
xã hội không có tính chất bắt buộc trong tất cả các cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng việc
xác định dấu hiệu hậu quả luôn có vai trò quan trọng. Bởi một điều hiển nhiên là “trong
các điều kiện khác giống nhau hậu quả của tội phạm xảy ra càng nghiêm trọng thì mức độ
hình phạt được quyết định càng phải nghiêm khắc” [6; tr.168]. Ngoài ra, trong mặt khách
quan của cấu thành tội phạm còn có các dấu hiệu khác như: công cụ, phương tiện thực
hiện tội phạm, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Đa số trong các cấu thành tội
phạm, các dấu hiệu này không phải là dấu hiệu định tội hay định khung, nhưng các dấu
hiệu này có thể đóng vai trò là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung được
quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 và chúng cũng làm tăng mức độ
nguy hiểm cho xã hội không chỉ của tội phạm mà còn cả của nhân thân người phạm tội
nữa. Các tình tiết đó bao gồm: Xúi giục người chưa thành niên phạm tội, có hành động
xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh che giấu tội phạm, dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác

phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người, lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc
biệt khác của xã hội để phạm tội, phạm tội có tổ chức.
Việc nghiên cứu các dấu hiệu thuộc mặt khách quan tội phạm trước hết có ý nghĩa đối
với việc định tội. Ngoài ra, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan tội phạm còn có ảnh
hưởng tới việc xác định hình phạt, quyết định mức độ trách nhiệm hình sự cụ thể của
người phạm tội.
3) Mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định.
Một số cấu thành tội phạm cụ thể quy định rõ về chủ thể của tội phạm ngoài hai điều kiện
10
về tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự còn phải thoả mãn thêm các dấu hiệu như: có
chức vụ, giới tính, nghề nghiệp, quan hệ gia đình… Những chủ thể này gọi là chủ thể đặc
biệt của tội phạm. Dấu hiệu chủ thể đặc biệt có thể quy định là dấu hiệu định tội, dấu hiệu
định khung hoặc dấu hiệu tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chủ thể đặc biệt với
tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với người có
chức vụ, quyền hạn. Chẳng hạn, điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 quy
định tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Đặc điểm chủ thể đặc biệt ở đây chỉ là người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện tội phạm được dễ dàng và có khả năng che giấu
được tội phạm đó.
Khi nghiên cứu yếu tố chủ thể của tội phạm cần lưu ý một khái niệm rất gần với khái
niệm chủ thể của tội phạm, đó là khái niệm nhân thân người phạm tội [7, tr.22]. Hai khái
niệm này có ý nghĩa pháp lý khác nhau, mặc dù chúng đều đặc trưng cho người thực hiện
tội phạm, chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, còn nhân thân
người phạm tội là một trong những căn cứ để Tòa án cân nhắc khi quyết định hình phạt.
Ngoài ra, một số đặc điểm nhân thân người phạm tội còn được xác định là tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, chúng được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm
1999 có ý nghĩa làm tăng mức độ nguy hiểm của nhân thân người phạm tội, phản ánh khả

năng cải tạo, giáo dục, cảm hóa người phạm tội, để có thể áp dụng một mức hình phạt
tương xứng với tội phạm mà họ thực hiện và đạt được các mục đích của hình phạt. Các
đặc điểm nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng làm tăng mức độ trách nhiệm hình sự
như: Phạm tội có tính chất côn đồ, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
4) Mối quan hệ giữa mặt chủ quan của tội phạm với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Nội dung
chủ yếu của mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm, còn động cơ, mục đích
11
phạm tội không phải là những dấu hiệu trong tất cả các cấu thành tội phạm cụ thể. Trong
hệ thống các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật
Hình sự năm 1999 cũng đã thể hiện được nguyên tắc xử lý trong chính sách hình sự của
Nhà nước ta là những trường hợp phạm tội do cố ý phải bị xử lý nghiêm khắc hơn các
trường hợp vô ý phạm tội. Cụ thể, tình tiết “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” thể hiện
tính nguy hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội bình thường hoặc phạm tội do lỗi vô
ý. Mặt khác, trong các động cơ phạm tội, có nhiều động cơ thể hiện mức độ nguy hiểm
cho xã hội cao của người phạm tội, gây căm phẫn lớn trong dư luận xã hội. Đó là những
động cơ thể hiện sự ích kỷ, xấu xa, bội bạc, phản trắc của người phạm tội, mà trong pháp
luật hình sự gọi đó là “động cơ đê hèn” và người phạm tội có tình tiết này là căn cứ để
tăng nặng mức trách nhiệm hình sự trong phạm vi một khung hình phạt nếu tình tiết này
không được quy định là tình tiết định tội hay tình tiết định khung của tội phạm đó.
Nhìn chung, sự tách bạch giữa các dấu hiệu thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm với tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không phải bao giờ cũng rõ ràng và nó chỉ có ý nghĩa
khi xem xét trong một tội phạm cụ thể. Bởi vì, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
cũng là những tình tiết thuộc mặt khách quan, mặt chủ quan hoặc nhân thân người phạm
tội. Để xác định tội phạm phải có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Nếu hành vi
nguy hiểm cho xã hội do con người thực hiện không thoả mãn dù chỉ là một yếu tố cấu
thành tội phạm thì không cấu thành tội phạm và cũng không cần đến yếu tố thứ năm nào
khác. Với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì chỉ cần một tình tiết cũng có giá

trị tăng mức trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tất nhiên, “trong một vụ án
hình sự, đối với người phạm tội càng nhiều tình tiết tăng nặng thì mức độ tăng nặng trách
nhiệm hình sự của họ càng cao, hình phạt áp dụng đối với họ càng nghiêm khắc” [8,tr.35]
. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định các dấu hiệu thuộc
các yếu tố cấu thành tội phạm trước tiên sau đó mới xem xét đến tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự và chỉ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nếu trong vụ án
12
đó có và tình tiết đó không phải là tình tiết định tội hay tình tiết định khung hình phạt của
một tội phạm cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1999.
2. Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập thể
tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001.
3. Lê Cảm, Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự (Tập I), NXB
Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000.
4. Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, Tập thể tác giả do
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000.
5. Kiều Đình Thụ, Tìm hiểu Luật Hình sự Việt Nam, NXB TP Hồ Chí Minh, 1998.
6. Võ Khánh Vinh, Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, NXB Công an
Nhân dân, Hà Nội, 1994.
7. Trịnh Tiến Việt, Nhân thân người phạm tội – một căn cứ cần cân nhắc khi quyết định
hình phạt, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2003.
8. Trịnh Tiến Việt, Bàn về tình tiết tăng nặng trong việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự
và hình phạt, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2003.
9. Đào Trí Úc, Luật Hình sự Việt Nam (Quyển I) – Những vấn đề chung, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 2000.
10. Tội phạm học, luật Hình sự và luật Tố tụng hình sự, Viện nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật, Tập thể tác giả do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1994.

Trịnh Tiến Việt & Phan Thị Thủy
13
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
1. Khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật
hình sự năm 1999, thì khi quyết định hình phạt, Tòa án không chỉ căn cứ vào các quy
định của Bộ luật hình sự, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, mà còn phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, luật quy định các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ cần thiết để Tòa án xem xét khi
quyết định hình phạt. Do đó, việc nghiên cứu vai trò của các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự đối với việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội có ý nghĩa rất
quan trọng về mặt lý luận-thực tiễn và pháp lý trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự
để giải quyết vụ án hình sự, đồng thời thể hiện rõ nội dung phương trâm “nghiêm trị kết
hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục” trong chính sách hình sự của Nhà
nước ta, cũng như bảo đảm thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và
cá thể hóa và hình phạt đối với người phạm tội.
Trong quá trình quyết định hình phạt đối với người phạm tội, việc nhận thức thống nhất
về vai trò của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự để xem xét, cân nhắc và áp
dụng chính xác các tình tiết này trong thực tiễn là nhiệm vụ rất quan trọng của các Tòa án
ở nước ta hiện nay. Do đó, trước khi đi vào phân tích vai trò của các tình tiết này trong
việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội, chúng ta cần phải đưa ra định nghĩa
của khái niệm “tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự” là gì. Hiện nay, trong pháp luật
hình sự thực định (Bộ luật hình sự năm 1999) nhà làm luật nước ta không ghi nhận định
nghĩa pháp lý của khái niệm này, đồng thời trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng
còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh nó, mà cụ thể là:
- “Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của
trường hợp phạm tội cụ thể của một loại tội phạm tăng lên so với trường hợp bình thường
14
và do đó được coi là căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm
tội đó”[1];

- “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng tới mức độ nguy hiểm của
một tội phạm trong các trường hợp cụ thể khác nhau và có ý nghĩa khi quyết định hình
phạt vì chúng… làm tăng lên mức hình phạt cần áp dụng với tội phạm đã thực hiện trong
giới hạn khung hình phạt mà luật quy định với tội phạm đó”[2];
- “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết trong một vụ án cụ thể
làm tăng mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một
hình phạt nghiêm khắc hơn trong một khung hình phạt”[3];
- “Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết làm cho một hành vi
phạm tội hoặc người phạm tội giảm tăng lên mức độ nguy hiểm cho xã hội để từ đó cần
áp dụng hình phạt nặng hơn trong phạm vi một khung hình phạt đã được xác định”[4];
- “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết phản ánh mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên trong phạm vi một khung hình phạt của một tội
phạm cụ thể”[5];
- “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định trong Bộ
luật hình sự phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải
tạo giáo dục của người phạm tội. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ý nghĩa
trong việc quyết định hình phạt, làm tăng hình phạt trong giới hạn một khung hình
phạt”[6]…
Tổng hợp những quan điểm đã nêu, đồng thời căn cứ vào các quy định của pháp luật hình
sự liên quan đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, theo quan điểm của chúng
tôi khái niệm này có thể được hiểu như sau: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là
tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết tăng nặng chung và
là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo
15
hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có
tình tiết này.
2. Các đặc điểm của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xuất phát từ khái niệm đã
nêu trên và phân tích các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 có liên quan đến các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự & thực tiễn áp dụng chúng, chúng ta có thể chỉ ra
một số đặc điểm cơ bản dưới đây của tình tiết này.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhất thiết phải được nhà làm luật ghi nhận chỉ
trong pháp luật hình sự thực định (mà ở nước ta là trong Bộ luật hình sự năm 1999), chứ
không thể trong các văn bản pháp lý nào khác hoặc không thể do Tòa án tự xem xét để
cân nhắc (như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự).
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự xuất hiện (có mặt) trong một vụ án cụ thể, đối
với người phạm tội cụ thể và chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội trong vụ án đó theo hướng nghiêm khắc hơn và chỉ trong phạm vi một cấu thành
tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự, chứ không làm thay
đổi tính chất của tội phạm ấy.
- Trường hợp tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được luật quy định với tính chất là
yếu tố định tội đối với một tội phạm tương ứng cụ thể, có nghĩa tình tiết này làm thay
đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì trong việc quyết định hình phạt đối
với người phạm tội, Tòa án nhất thiết không thể xem xét nó với tính chất là tình tiết tăng
nặng chung được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.
Ví dụ: Tình tiết tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” là yếu tố định tội
được quy định tại các tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu
quả nghiêm trọng (Điều 165); tội tham ô tài sản (Điều 278); tội nhận hối lộ (Điều 279);
tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281); tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều 303)… Bộ luật hình sự năm 1999. Do
đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án không được xem xét nó (tình tiết “lợi dụng chức vụ,
16
quyền hạn để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48) là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự chung nữa.
- Trường hợp tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết được luật quy định với
tính chất là yếu tố định khung hình phạt đối với một tội phạm tương ứng cụ thể, có nghĩa
tình tiết này làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi & là căn cứ cho phép
Tòa án tăng mức hình phạt đối với người phạm tội chuyển sang khung hình phạt khác
nặng hơn, thì trong việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội, Tòa án nhất thiết
không thể xem xét nó với tính chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung (quy

định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999).
Ví dụ: Các tình tiết tăng nặng định khung: “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, “tái
phạm nguy hiểm” trong tội cướp tài sản (quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 133)
hoặc “phạm tội nhiều lần” trong tội buôn lậu (quy định tại điểm k khoản 2 Điều 153)…
Tương tự, khi quyết định hình phạt, Tòa án cũng không được xem xét các tình tiết này là
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình
sự năm 1999 nữa.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mang tính chất ổn định về số lượng và nội
dung. Mặc dù vậy, nếu trong thực tiễn đời sống xuất hiện những tình tiết làm thay
đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm theo hướng nghiêm khắc hơn thì nó sẽ
được nhà làm luật bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị-xã hội và ngược
lại – loại bỏ khỏi Bộ luật hình sự những tình tiết nào mà việc áp dụng chúng không còn
phù hợp với giai đoạn tương ứng đó.
Ví dụ: Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tình tiết “lợi dụng chức vụ cao để phạm
tội”, chỉ đến Quốc hội khóa IX (kỳ họp thứ 11) ngày 10/5/1997, tình tiết này mới được
quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm c khoản 1 Điều 39) và đến Bộ
luật hình sự năm 1999 tình tiết này lại không được quy định là tình tiết tăng nặng nữa mà
thay vào đó là tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” (điểm c khoản 1 Điều
48). Do đó, nếu chưa được bổ sung vào Bộ luật hình sự, thì các Tòa án nhất thiết không
17
được tùy tiện bổ sung vào những tình tiết mà Bộ luật hình sự không quy định để tăng
nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy nhiên, điều này ngược lại đối với
việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì Tòa án có thể coi những tình
tiết khác ngoài những tình tiết đã được quy định trong khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (được quy định trong các văn bản hướng dẫn của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)[7] hoặc những tình tiết khác, nhưng phải
nói rõ lý do và tất nhiên nó chỉ có ý nghĩa đối với trường hợp phạm tội cụ thể, với người
phạm tội cụ thể với vụ án cụ thể mà Tòa án đang xem xét.
- Khi áp dụng các tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội, Tòa án “phải làm sáng tỏ ý
thức chủ quan của người phạm tội để xét trường hợp này họ có phải thấy trước hoặc có

thể thấy trước được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay không, thì mới được áp
dụng tình tiết tăng nặng đó đối với họ”[8]. Trường hợp có căn cứ chứng minh rằng họ
không thấy được trước hoặc không thể thấy được trước thì dù tình tiết đó có xảy ra người
phạm tội cũng không phải chịu trách nhiệm đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự đó.
3. Danh mục các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều
48 Bộ luật hình sự năm 1999, chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự: 1) Phạm tội có tổ chức; 2) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; 3) Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; 4) Phạm tội có tính chất côn đồ; 5) Phạm tội vì
động cơ đê hèn; 6) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; 7) Phạm tội nhiều lần, tái phạm,
tái phạm nguy hiểm; 8) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong
tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh
thần, công tác hoặc các mặt khác; 9) Xâm phạm tài sản của Nhà nước; 10) Phạm tội gây
hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; 11) Lợi dụng hoàn
cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt
khác của xã hội để phạm tội; 12) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ
đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; 13) Xúi giục người chưa
18
thành niên phạm tội; 14) Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội
phạm.
Như vậy, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ
luật hình sự năm 1999 bao gồm 14 (mười bốn) tình tiết, sắp xếp theo thứ tự từ a đến o
trong khoản 1. Việc sắp xếp thứ tự các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không
phải theo tính chất quan trọng, tính chất nghiêm trọng ít hay nhiều của chúng mà căn cứ
vào sự khác nhau về chất (nội dung) giữa các tình tiết đó với nhau trong hệ thống danh
mục các tình tiết. Mặc dù vậy, dựa vào đặc điểm chung và nội dung của các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, có thể chia các tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật
này thành ba nhóm như sau:
1) Nhóm thứ nhất là các tình tiết thuộc về phương diện khách quan: là những tình tiết
thuộc về các dấu hiệu bên ngoài của tội phạm (mặt khách quan của tội phạm), mà trong

vụ án nếu có các tình tiết này, thì hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của
tội phạm trở lên nguy hiểm hơn so với các trường hợp thông thường khác mà không có
những tình tiết này.
Ví dụ: tình tiết “phạm tội có tổ chức” (điểm a khoản 1 Điều 48); “xâm phạm tài sản Nhà
nước” (điểm i khoản 1 Điều 48); “phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng” (điểm k khoản 1 Điều 48); “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để
phạm tội” (điểm l khoản 1 Điều 48)…
2) Nhóm thứ hai là các tình tiết thuộc về phương diện chủ quan: là những tình tiết phản
ánh quá trình hoạt động, diễn biến tâm lý bên trong của chủ thể thực hiện hành vi phạm
tội (mặt chủ quan của tội phạm), đồng thời làm cho hành vi phạm tội cũng trở lên nguy
hiểm hơn so với các trường hợp thông thường khác mà không có những tình tiết này.
Ví dụ: tình tiết “phạm tội vì động cơ đê hèn” (điểm đ khoản 1 Điều 48); “cố tình thực
hiện tội phạm đến cùng” (điểm e khoản 1 Điều 48)…
19
3) Nhóm thứ ba là các tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội: là những tình tiết
phản ánh những đặc điểm, đặc tính xã hội khác nhau của một con người cụ thể với tư
cách là chủ thể của tội phạm mà những đặc điểm, đặc tính này có ảnh hưởng nhất định
đến hành vi phạm tội và khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội[9]. Điều này hoàn
toàn đúng với quan điểm của Mác khi nói về bản chất của con người: “Bản chất con
người không phải là cái trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”[10]. Vì thế, những đặc
điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng quan trọng đối với việc phân hóa
trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội. Đối với các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội không những làm cho
hành vi phạm tội cũng trở lên nguy hiểm hơn mà cả nhân thân người phạm tội đó
cũng nguy hiểm hơn so với các trường hợp thông thường khác mà không có những tình
tiết này.
Ví dụ: tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” (điểm b khoản 1 Điều 48); “lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” (điểm c khoản 1 Điều 48); “phạm tội nhiều lần, tái

phạm, tái phạm nguy hiểm” (điểm g khoản 1 Điều 48)…
Tuy nhiên, dù phân chia hay các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc bất kỳ
nhóm nào đi chăng nữa, thì xét về bản chất chúng đều là những tình tiết làm thay đổi mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội đó theo
hướng nguy hiểm hơn, đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định hình
phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn, áp dụng mức hình phạt cao
hơn, cũng như lại có vai trò giới hạn phạm vi trách nhiệm hình sự trong phạm vi một
khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có các tình tiết đó (mà mục 4 dưới đây sẽ xem
xét).
4. Vai trò của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong việc quyết định hình phạt.
Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 có liên quan đến các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, cũng như việc áp dụng các tình tiết tăng nặng này trong thực
20
tiễn xét xử, chúng ta có thể nhận thấy vai trò của chúng đối với việc quyết định hình phạt
ở một số bình diện dưới đây.
- Theo cấu trúc xây dựng điều luật thì bất kỳ điều luật cụ thể nào trong Phần các tội phạm
Bộ luật hình sự, nhà làm luật nước ta đều quy định các khung hình phạt khác nhau và
trong mỗi khung hình phạt đều quy định mức hình phạt tối thiểu và mức hình phạt tối đa
tuỳ theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội tương ứng. Cho
nên, khi Tòa án đã xác định bị cáo phạm tội ở khung hình phạt nào, thì dù họ có nhiều
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thì Tòa án cũng không được xử cao hơn mức cao
nhất của khung hình phạt đó. Đây là quy định nhằm tránh sự bất lợi có thể áp dụng cho bị
cáo và thể hiện rõ nội dung là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ làm thay
đổi mức độ chứ không làm thay đổi tính chất của tội phạm do người đó thực hiện.
Ví dụ: Nguyễn Văn A phạm tội cướp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
133 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt quy định từ 7 năm đến 15 năm tù, thì
khi quyết định hình phạt Tòa án không được xử phạt A hình phạt cao hơn 15 năm tù, cho
dù A có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đi chăng nữa. Lẽ dĩ nhiên, “số
lượng các tình tiết tăng nặng càng nhiều, ý nghĩa tăng nặng của từng tình tiết càng lớn, thì
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội càng cao, do đó

hình phạt được quyết định đối với bị cáo càng phải nghiêm khắc”[11], song vẫn chỉ
trong phạm vi một khung hình phạt. Đây là điểm khác biệt so với tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Cụ thể, về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật, Điều 47 Bộ
luật hình sự năm 1999 quy định “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản
1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất
của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề
nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung
hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”.
21
- Việc xem xét, cân nhắc để áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong vụ án hình sự cụ thể và đối với mỗi người phạm tội cụ thể chính là đảm bảo sự phù
hợp giữa mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội so với mức hình phạt của
khung hình phạt tương ứng được quy định tại Điều luật cụ thể của Phần các tội phạm Bộ
luật hình sự, đồng thời còn phù hợp với các yếu tố khác như: địa điểm phạm tội,hoàn
cảnh phạm tội, thời gian phạm tội, không gian phạm tội, công cụ phạm tội, phương
tiện phạm tội, phương pháp phạm tội, tính chất của hành vi phạm tội, hậu quả của hành vi
phạm tội và, nhân thân người phạm tội nữa…
- Khi xem xét, cân nhắc để áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
liên quan đến một người phạm tội nào đó trong vụ án có đồng phạm, thì Tòa án chỉ được
phép áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ấy đối với riêng bản thân người
này, chứ nhất thiết không được áp dụng đối với những người đồng phạm khác.
Ví dụ: Đỗ Văn A, Trần Văn B và Dương Quang C là những người đồng phạm trong tội
cưỡng đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng chỉ
riêng C phạm tội có tình tiết tăng nặng “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” và tình tiết
tăng nặng này lại được luật quy định là yếu tố định khung hình phạt tăng nặng tại điểm b
khoản 2 Điều luật đó, còn A và B phạm tội không có tình tiết tăng nặng này. Như vậy,
trong trường hợp đã nêu Dương Quang C sẽ bị áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn
được quy định tại khoản 2, còn Đỗ Văn A và Trần Văn B do không có tình tiết tăng nặng

trách nhiệm hình sự trên nên được áp dụng quy định tại khoản 1 Điều luật đó.
- Có một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với một
hoặc một số hành vi phạm tội hoặc đối với một số người phạm tội chứ không thể áp dụng
đối với tất cả các tội phạm hoặc đối với tất cả người phạm tội.
Ví dụ: Tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ” (điểm d khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự
năm 1999) chủ yếu áp dụng đối với các tội giết người (Điều 93), tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104) hay tội chống người thi hành
công vụ (Điều 257)…
22
- Mỗi tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có nội dung khác nhau, nên ý nghĩa tăng
nặng trách nhiệm hình sự của nó cũng khác nhau trong việc quyết định hình phạt đối với
mỗi người phạm tội. Ngoài ra, trong mỗi tình tiết tăng nặng thì ý nghĩa tăng nặng đến
trách nhiệm hình sự cũng khác nhau nếu như nó được xem xét & áp dụng với hành vi
phạm tội khác nhau hoặc với người phạm tội khác nhau.
Ví dụ: Phạm Tuấn X phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm (khoản 2 Điều 49)
đương nhiên phải chịu loại và mức hình phạt nghiêm khắc và cao hơn so với trường hợp
nếu X chỉ là tái phạm (khoản 1 Điều 49) hoặc lớn hơn nhiều so với trường hợp nếu A
phạm tội thông thường.
Ví dụ: Trần Công L phạm tội trong trường hợp “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”
(điểm b khoản 1 Điều 48) đương nhiên phải chịu loại và mức hình phạt nghiêm khắc và
cao hơn trường hợp nếu L chỉ phạm tội trong trường hợp bình thường và không có tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này.
- Trường hợp người phạm tội vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, Tòa án phải có quan điểm toàn diện, đánh giá khách quan ý nghĩa của
từng tình tiết và nhất là không được thiên lệch, có khuynh hướng nghiêng về tình tiết tăng
nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Về vấn đề này, trước đây điểm 4 mục B phần II
của Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/01/1989 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao đã hướng dẫn như sau: “Trong trường hợp một vụ án có cả tình tiết tăng nặng và
tình tiết giảm nhẹ thì Tòa án phải đánh giá, cân nhắc toàn diện, đầy đủ trong một tổng
thể, không được đánh giá, cân nhắc một chiều tức là coi trọng tình tiết này, xem thường

tình tiết khác, nhất là các tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội hoặc ngược lại.
Thông thường nếu tính chất của các tình tiét tăng nặng tương đương với tính chất của các
tình tiết giảm nhẹ thì Tòa án không được áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm
1985. Nhưng nếu các tình tiết giảm nhẹ nhiều hơn thì Tòa án vẫn có thể áp dụng khoản 3
Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985”.Ngược lại, nếu tình tiết tăng nặng có ý nghĩa tăng
23
nặng đáng kể, tình tiết giảm nhẹ không đáng kể thì đây là trường hợp tăng nặng và phải
áp dụng hình phạt nghiêm khắc.
- Việc xem xét, cân nhắc để áp dụng chính xác “các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự trong vụ án hình sự chính là biểu hiện sự tôn trọng của các cơ quan tư pháp hình sự
đối với các nguyên tắc tiến bộ của luật hình sự Việt Nam (như nguyên tắc pháp chế,
nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự, nguyên tắc công minh…) trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự nói chung, cũng như của Tòa án đối với các nguyên tắc quyết
định hình phạt nói riêng (như nguyên tắc cá thể hóa hình phạt) trong thực tiễn xét xử nói
riêng”[12].
- Trong quá trình giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội, Tòa án cần
phân biệt tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào là tình tiết định tội, là tình tiết định
khung hay tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung, cũng như thấy được mối liên hệ
chặt chẽ hữu cơ giữa chúng với nhau trong một vụ án hình sự. Mặt khác, để giải quyết
đúng đắn một vụ án hình sự, các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền phải xác định rõ
tội danh, khung hình phạt và các tình tiết tăng nặng (và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự). Ba loại tình tiết này có vai trò bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong quá trình định
tội cũng như lượng hình đối với người phạm tội.
Như vậy, đối với một vụ án hình sự cụ thể, chỉ sau khi xác định được tình tiết định tội
mới xác định được tình tiết định khung. Ngược lại, tình tiết định khung có tác dụng trở lại
với tình tiết định tội vì nó là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
một cách cụ thể & rõ ràng hơn. Sau khi đã xác định tội danh và khung hình phạt cụ thể
mới có cơ sở để xem xét các tình tiết tăng nặng (và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự). Do đó, việc xem xét hành vi phạm tội với các tình tiết tăng nặng (cộng với tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự) là thao táo (bước) cụ thể hóa tiếp theo khi đánh giá mức

độ nguy hiểm hành vi phạm tội, từ đó làm sáng tỏ tính chất và mức độ nguy hiểm của
toàn bộ tội phạm, làm tiền đề giúp cho Tòa án đưa ra được một biện pháp xử lý đúng đắn.
24
- Tòa án chỉ được áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự kể từ khi Bộ luật
hình sự có hiệu lực pháp luật. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự
năm 1999 thì “Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình
tiết tăng nặng mới… thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện
trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”. Như vậy, đối chiếu Bộ luật hình sự năm
1999 (Điều 48) so với Bộ luật hình sự năm 1985 (Điều 39) thì tại Điều 48 có các tình tiết
tăng nặng sau là những tình tiết mới: 1) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; 2) Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để phạm tội; 3) Phạm tội có tính chất côn đồ; 4) Xâm phạm tài sản
Nhà nước; 5) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và, 6) Lợi dụng
tình trạng khẩn cấp, dịch bệnh để phạm tội. Do đó, nếu trước ngày Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 có hiệu lực pháp luật mà người phạm tội thực hiện tội phạm có một trong
các tình tiết trên mà sau khi Bộ luật hình sự có hiệu lực mới bị phát hiện, điều tra, truy tố
và xét xử thì các Tòa án không được coi các tình tiết trên là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự để áp dụng đối với người phạm tội.
5. Một số kiến nghị. Từ ý kiến hoàn toàn đúng đắn, khoa học và bảo đảm sức thuyết phục
của Giáo sư, TSKH Đào Trí Úc là: “Pháp luật, dù có hoàn thiện đến mấy cũng không thể
phản ánh và quy định hết được tất cả những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống…”[13], cho
nên chính vì vậy, trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay, qua nghiên cứu một số nội dung của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành chúng tôi có một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện về các quy định này như sau.
Thứ nhất, trong Bộ luật hình sự còn thiếu một số định nghĩa pháp lý: như thế nào là tình
tiết định tội, tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng (và tình tiết giảm nhẹ) trách nhiệm
hình sự để làm cơ sở pháp lý giúp cho các cơ quan tư pháp hình sự & Tòa án phân
biệt cũng như áp dụng chính xác chúng trong thực tiễn xét xử.
Thứ hai, cũng trong Bộ luật hình sự, việc sử dụng các thuật ngữ trong các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự còn chưa thống nhất với nhau. Cụ thể, tại khoản 3

25
Điều 46 dùng thuật ngữ “dấu hiệu”, còn khoản 2 Điều 48 lại sử dụng thuật ngữ “yếu tố”,
khoản 3 Điều 46 dùng thuật ngữ “định khung” nhưng khoản 2 Điều 48 lại sử dụng thuật
ngữ “định khung hình phạt”. Vậy, những thuật ngữ này có thống nhất nội dung với nhau
hay không, theo chúng tôi nhược điểm này cần phải được nhà làm luật nước ta kịp thời
khắc phục.
Và ba là, theo chúng tôi, các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền cũng cần có văn bản
hướng dẫn cụ thể về một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự còn nhiều cách hiểu
chưa thống nhất trong việc quy định vàáp dụng chúng trong thực tiễn hoặc đang
được thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đặt ra, chẳng hạn: trường hợp một người “đã tái
phạm nguy hiểm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới…” có bị coi là tái phạm
nguy hiểm không[14]; “phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng” (điểm k khoản 1 Điều 48); “phạm tội đối với người ở trong tình trạng
không thể tự vệ được” (điểm h khoản 1 Điều 48) là như thế nào…/.
[1] Xem: Nguyễn Ngọc Hòa & Lê Thị Sơn. Thuật ngữ Luật hình sự. Trong sách: Từ điển
giải thích thuật ngữ Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, 1999, tr.116.
[2] Xem: Kiều Đình Thụ. Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam. NXB TP Hồ Chí Minh, 1998,
tr.233.
[3] Xem: Đinh Văn Quế. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.12; Đinh Văn Quế. Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự năm 1999. Phần chung. NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.236-237.
[4] Xem: Đỗ Ngọc Quang. Chương III – Quyết định hình phạt của Phần thứ ba. Trong
sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Trường Đại học Cảnh sát, Hà Nội, 1995, tr.
305.

×