Lời mở đầu
Xu hớng toàn cầu hóa và hội nhập đã mở ra cho các doanh nghiệp những
cơ hội và thách thức mới, tạo ra môi trờng kinh doanh rộng lớn và danh mục
đầu t đa dạng và phong phú hơn. Trong nền kinh tế thị trờng môi trờng cạnh
tranh ngày càng gay gắt, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp phụ
thuộc vào rất nhiều trình độ quản lý của các nhà quản trị. Một quyết định tài
chính có thể ảnh hởng rất lớn đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp, nếu
một quyết định đúng đắn sẽ giúp doanh nghiệp tăng trởng và phát triển, ngợc
lại nếu một quyết định sai lầm có thể khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về tài
chính, dẫn đến tình trạng phá sản, do vậy khi ra một quyết định, nhà quản trị
phải phân tích cân nhắc về mọi mặt. Và phân tích tài chính là cơ sở để cho nhà
quản trị đa ra các quyết định
Hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp là một phần trong quản trị
doanh nghiệp, có vai trò quan trọng trong việc giúp nhà quản trị đánh giá đợc
tình hình tài chính, khả năng tài chính của doanh nghiệp, từ đó đa ra những
quyết định tái chính phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính.
Ngoài ra, phân tích tài chính còn giúp các cơ quan quản lý Nhà nớc trong việc
kiểm soát, giám soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
giúp cho ngân hàng, nhà đầu t đa ra các quyết định tài chính nh lựa chọn danh
mục đầu t, cho vay,... có thể đầu t có hiệu quả. Nói chung, ở môi trờng cạnh
tranh ngày càng gay gắt, phân thiết tài chính là một hoạt động thiết yếu giúp
cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Trong thời gian thực tập ở công ty may Đức Giang, qua tìm hiểu, em thấy
hoạt động phân tích tài chính của công ty may Đức Giang cha đợc quan tâm,
và còn rất sơ sài, cha đợc áp dụng vào trong hoạt động ra quyết định, quản lý
cũng nh kiểm tra, giám sát. Việc ứng dụng các phơng pháp phân tích tài vào
hoạt động phân tích tài là cơ sở để giải quyết những tồn tại của doanh nghiệp,
góp phần nâng cao hiệu quả tài chính. Với suy nghĩ trên em lựa chọn đề tài:
ứng dụng phơng pháp tỷ số và so sánh vào phân tích tài chính tại công
ty may Đức Giang làm luận văn tốt nghiệp.
Kết cấu luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần:
Phần I: Các phơng pháp phân tích tài chính trong các doanh nghiệp
Phần II: Thực trạng về phơng pháp phân tích tài chính của công ty may
Đức Giang
Phần III: Một số giải pháp ứng dụng phơngpháp tỷ số và so sánh vào phân
tích tài chính cua công ty may Đức Giang
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hớng dẫn TS. Đào Văn Hùng và các
cô chú, anh chị phòng Tài chính - Kế toán Công ty may Đức Giangđã giúp đỡ
em hoàn thành luận văn này.
2
Phần I
các phơng pháp phân tích tài chính trong
các doanh nghiệp
I tổng quan về phân tích tài chính
1 - Tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản
của hoạt động sản xuất kinh doanh .Hoạt động này nhằm thực hiện mục tiêu
của doanh nghiệp: tối đa hoá giá trị tài sản sở hữu của doanh nghiệp cụ thể
thành những mục tiêu khác nh: tối đa hoá lợi nhuận, tăng trởng ổn định,...
Tài chính doanh nghiệp đợc hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp
chủ yếu bao gồm:
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nớc: Đây là mối quan hệ phát sinh
khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nớc, khi Nhà nớc góp
vốn vào doanh nghiệp.
- Quan hệ doanh nghiệp với thị trờng tài chính: Quan hệ này đợc thể hiện
thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trờng tài
chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có
thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngợc lại,
doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ.
Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu t chứng khoán bằng số
tiền tạm thời cha sử dụng.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trờng khác: Trong nền kinh tế,
doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp khác trên thị trờng
hàng hoá, dịch vụ, thị trờng sức lao động. Đây là những thị trờng mà tại đó
doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xởng, tìm kiếm lao
động,... Điều quan trọng là thông qua thị trờng, doanh nghiệp có thể xác định
3
nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp
hoạch định ngân sách đầu t, kế hoạch sản xuất, tiếp thị htoả mãn nhu cầu của
thị trờng.
- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận
sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và ngời quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ,
giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Các mối quan hệ này đợc thể
hiện thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp nh: chính sách phân
phối thu nhập, chính sách đầu t, chính sách về cơ cấu vốn và chi phí vốn,...
Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, cần
phải có một lợng tài sản phản ánh bên tài sản của Bảng cân đối kế toán. Nếu
nh toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ đợc đánh giá tại một thời điểm
nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có
thể xác định tại một thời điểm nhất định và đợc phản ánh trên báo cáo kết quả
kinh doanh. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về
quy trình công nghệ và tính chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn do đặc
điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù vậy, ngời ta
vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng
hoá dịch vụ đầu ra và hàng hoá dịch vụ đầu vào.
Một hàng hoá dịch vụ đầu vào hay một yếu tố sản xuất là hàng hoá hay
dịch vụ mà các nhà doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản
xuất-kinh doanh. Các hàng hoá dịch vụ đầu vào kết hợp với nhau tạo ra hàng
hoá dịch vụ đầu ra - đó là hàng loạt các hàng hoá dịch vụ có ích đợc tiêu dùng
hoặc đợc sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh khác. Nh vậy trong một
thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoá hàng hoá dịch vụ đầu vào
thành hàng hoá dịch vụ đầu ra để trao đổi. Mối quan hệ giữa tài sản hiện có và
hàng hoá dịch vụ đầu vào, hàng hoá dịch vụ đầu ra (tức quan hệ giữa bảng cân
đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh) có thể mô tả nh sau:
Hàng hoá dịch vụ sản xuất-chuyển hoá Hàng hoá dịch vụ
(mua vào) (bán ra)
4
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt
- đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép các doanh nghiệp mua các hàng hoá
dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hoá dịch vụ để phục vụ cho mục đích
trao đổi. Mọi quá trình trao đổi đều đợc thực hiện qua trung gian là tiền và khái
niệm dòng vật chất và dóng tiền phất sinh từ đó, tức sự dịch chuyển hàng hoá,
dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị và tổ chức kinh tế.
Nh vậy ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng
tiền đi ra; ngợc lại, tơng ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá, dịch vụ đầu ra)
là dòng tiền đi vào. Quy trình này đợc mô tả theo sơ đồ sau:
Dòng vật chất đi vào Dòng tiền đi ra (xuất quỹ)
Dòng vật chất đi ra Dòng tiền đi vào (nhập quỹ)
Sản xuất, chuyển hoá là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó đợc đặc
trng bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá và dịch vụ, mặt khác nó đặc trung bởi
yếu tố cần thiết cho sự vận hành - đó là t liệu lao động và sức lao động. Quá
trình công nghệ này có tác dụng quyết định đến cơ cấu vốn và hoạt động trao
đổi của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trờng cung cấp hàng hoá
dịch vụ đầu vào, hoặc với thị trờng phân phối, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đầu ra
và tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.
Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp đợc phát sinh từ chính quá trình trao
đổi đó. Quá trình này quyết định đến sự vận hành của sản xuất làm thay đổi cơ
cấu vốn của doanh nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp
cần dựa trên hai khái niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên
cơ sở tích luỹ ban đầu mỗi hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp
5
Sản xuất
chuyển hoá
và nó sẽ làm thay đổi khối lợng tài sản tích luỹ của doanh nghiệp. Một khối l-
ợng tài sản, hàng hoá, hoặc tiền đợc đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ.
Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp. Tuỳ
thuộc vào bản chất khác nhau của các dòng dự trữ mà ngời ta phân biệt dòng
tiền đối trọng và dòng tiền độc lập.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau đây:
- Đầu t vào đâu nh thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn,
nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? Từ đó đa ra tổng tiền cần đầu t.
- Nguồn vốn tài trợ đợc huy động ở đâu, vào thời điểm nào để đạt đợc cơ
cấu vốn tối u và chi phí vốn thấp nhất?
- Quản lý dòng tiền vào, dòng tiền ra sao cho đảm bảo mức ngân quỹ tối
u thông qua việc trả lời câu hỏi: lợi nhuận doanh nghiệp đợc sử dụng nh thế
nào?. Phân tích đánh giá kiểm tra các hoạt động tài chính nh thế nào để thờng
xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính? và quản lý các hoạt động tài
chính ngắn hạn nh thế nào để đa ra quyết định thu, chi phù hợp?
Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất trả lời ba câu hỏi trên.
2 - Phân tích tài chính doanh nghiệp
2.1 - Khái niệm, vai trò phân tích tài chính
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu cơ bản trong tài chính
doanh nghiệp, có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phơng pháp và các công
cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm
đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và
chất lợng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nghiên cứu phân tích tài chính
là khâu quan trọng trong quản lý doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà
nớc, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng nh
nhau trớc pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề và các lĩnh vực kinh doanh.
6
Do vậy sẽ có nhiều đối tợng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
nh: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp khách hàng,... kể cả các cơ
quan nhà nớc và ngời làm công, mỗi đối tợng quan tâm đến tình hình tài chính
trên một góc độ khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị
doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là khả năng phát triển, tối đa hoá
lợi nhuận, tối đa hoá giá trị sở hữu tài sản doanh nghiệp, do đó họ quan tâm tr-
ớc hết tới lĩnh vực đầu t và tài trợ. Đối với ngời cho vay mối quan tâm chủ yếu
của họ là khả năng trả nợ hiện tại và tơng lai của doanh nghiệp. Đối với các
nhà đầu t khác mối quan tâm chủ yếu của họ là các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả
năng thanh toán...
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các
báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trng tài chính thông qua một hệ thống các
phơng pháp, công cụ, kỹ thuật phân tích giúp ngời sử dụng từ các góc độ khác
nhau, vừa đánh giá một cách toàn diện, tổng hợp khái quát, vừa xem xét một
cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự
báo, đa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu t phù hợp.
Phân tích tài chính sẽ cung cấp các thông tin cần thiết về tình trạng tài
chính của doanh nghiệp để từ đó đa ra quyết định về hạng mục đầu t, quyết
định về cơ cấu vốn, là cơ sở để đa ra các quyết định tài chính. Đồng thời cung
cấp các thông tin cần thiết cho ngời cho vay, cho nhà đầu t, cơ quan thuế, cơ
quan quản lý cấp trên, ngời lao động, thanh tra, cảnh sát kinh tế,phân tích tài
chính tạo ra nguồn thông tin để hoạt động kiểm toán đợc thực hiện.
Các nhân tố ảnh hởng đến hoạt động phân tích tài chính:
- Nhân tố khách quan:
+ Điều kiện phát triển của nền kinh tế: Nền kinh tế càng phát triển thì
hoật động phân tích tài chính càng phổ biến và hiệu quả, các kết luận đa ra
chính xấc hơn do thông tin đợc cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời, cán bộ
phân tích đợc nâng cao về kiến thức, kinh nghiệm, thiết bị đợc hiện đại hoá tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác phân tích.
7
+ Chế độ kế toán, kiểm toán: Chế độ kế toán, kiểm toán quy định những
báo cáo tài chính bắt buộc phải đợc lập tạo điều kiện cung cấp đầy đỷ các
thông tin cho phân tích
+ Sự phát triển của hệ thống thông tin: Hệ thống thông tin phát triển cung
cấp đầy đủ các chỉ số ngành, thông tin về môi trờng kinh tế, môi trờng cạnh
tranh,
- Nhân tố chủ quan:
+ Trình độ của cán bộ quản lý: Nhận thức của ngời quản lý về tầm quan
trọng của hoạt động phân tích tài chính, từ đó dẫn đến hoạt động phân tích tài
chính sẽ đợc thực hiện có nghiêm túc hay không, các kết luân phân tích đợc sử
dụng vào việc đa ra các quuyết định tài chính hay không.
+ Nguồn thông tin: Đây là cơ sở để thực hiện phân tích tài chính, là nhân
tố ảnh hởng rất lớn đến hiệu quả phân.
+ Trình độ cán bộ phân tích: Đây cũng là nhân tố ảnh hởng trực tiếp đến
các kết luận của phân tích tài chính, bởi các kết luận chịu ảnh hởng rất nhiều
bởi ý kiến chủ quan của ngời phân tích,...
2.2 - Mục tiêu phân tích tài chính
Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phơng pháp và các
công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức
độ và chất lợng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Quy trình phân tích tài chính hiện nay ngày càng đợc áp dụng rộng rãi ở
các đơn vị tự chủ nhất định về tài chính, các tổ chức xã hội, tập thể, các cơ
quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp,
của ngân hàng và của thị trờng vốn đã tạo nhiều cơ hội để chứng tỏ phân tích
tài chính thực sự có ích và cần thiết.
Những ngời phân tích tài chính ở những cơng vị khác nhau thì nhằm
những mục tiêu khác nhau
8
2.1.1- Đối với nhà quản trị
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở
để định hớng đa ra quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính nh
quyết định đầu t, tài trợ, phân chia cổ tức,..., dự thảo tài chính: kế hoạch đầu t,
ngân quỹ, kiểm soát các hoạt động quản lý. Mặt khác, tạo thành các chu kỳ
đánh giá đều đặn hoạt động kinh doanh trong quá khứ, tiến hành cân đối tài
chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trả nợ, rủi ro tài chính của doanh
nghiệp.
2.2.2- Đối với nhà đầu t
Các cổ đông là các cá nhân hoặc doanh nghiệp, quan tâm trực tiếp đến
tính toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ bỏ vốn cho doanh nghiệp thực hiện
hoạt động kinh doanh sản xuất và họ có thể chịu rủi ro từ khoản vốn đó. Do
vậy, các cổ đông cần biết tình hình thu nhập của mình có tơng xứng với mức
rủi ro của khoản đầu t mà họ chịu. Nhà đầu t phân tích tài chính để nhận biết
khả năng sinh lãi của doanh nghiệp , đây là một trong những căn cứ giúp nhà
đầu t ra quyết có bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không?
Thu nhập của các cổ đông tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm
của vốn đầu t. Hai yếu tố này ảnh hởng đén lợi nhuận kỳ vọng của doanh
nghiệp. Các nhà đầu t thờng tiến hành đánh giá khả năng sinh lợi của doanh
nghiệp với câu hỏi trọng tâm: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của công ty sẽ là
bao nhiêu?. Dự kiến lợi nhuận sẽ đợc nghiên cứu đầy đủ trong chính sách phân
chia lợi tức cổ phần và trong nghiên cứu rủi ro hớng các lựa chọn vào những cổ
phiếu phù hợp nhất.
2.2.3 - Đối với ngời cho vay
Ngời cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng phân tích. Để đa ra quyết định cho vay, thì một trong những vấn đề
mà ngời cho vay cần phải xem xét là doanh nghiệp thật sự có nhu cầu vay hay
không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp nh thế nào?Bởi nhiều khi một quyết
9
định cho vay có ảnh hởng nặng nề đến tình hình tài chính của ngời cho vay, có
thể dẫn đến tình trạng phá sản của ngời cho vay, hay đơn vị cho vay. Phân tích
tài chính đối với những khoản nợ dài hạn hay khoản nợ ngắn hạn cũng có sự
khác nhau.
Nếu là những khoản nợ ngắn hạn, ngời cho vay đặc biệt quan tâm đến khả
năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó của
doanh nghiệp khi khoản nợ tới hạn trả nợ.
Nếu là những khoản cho vay dài hạn, ngòi cho vay phải tin chắc khả năng
hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì việc hoàn trả vốn và lãi phụ
thuộc vào khả năng sinh lời này
Kỹ thuật phân tích thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của khoản vay,
nhng cho đó là khoản vay dài hạn hay ngắn hạn thì ngời cho vay đều quan tâm
đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với ngời hởng lơng
trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật s,...Dù
họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau nhng đều muốn hiểu biết về doanh
nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ.
2.3 - Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi
nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp dến những thông tin
bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lợng đến thông tin giá trị. Những
thông tin đó đều giúp nhà phân tích có thể da ra đợc những nhận xét kết luận
tinh tế và thích đáng.
Những thông tin bên ngoài, cần lu ý thu thập thông tin chung nh các
thông tin liên quan đến cơ hội kinh doanh nghĩa là tình hình chung về kinh tế
tại một thời điểm cho trớc. Trạng thái kinh tế: sự suy thoái hay tăng trởng có
tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh. Khi cơ hội thuận lợi, các hoạt động
của doanh nghiệp đợc mở rộng, lợi nhuận của công ty, giá trị của công ty cũng
tăng lên, và ngợc lại. Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng
10
phải nhận thấy sự xuất hiện mang tính chu kỳ:qua thời kỳ tăng trởng thì sẽ đến
thời kỳ suy thoái và ngợc lại. Đồng thời thu thập thông tin về chính sách thuế,
lãi suất, các thông tin về ngành kinh doanh nh thông tin liên quan đến vị trí của
ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, và các sản phẩm của ngành, tình trạng
công nghệ, thị phần...và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp:
các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý nh:
tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp...
Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh
nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp nh là một
nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trng hệ thống, đồng nhất
và phong phú, kế toán hoạt động nh một nhà cung cấp quan trọng nhng thông
tin đánh giá cho phân tích tài chính.Vả lại các doanh nghiệp có nghĩa vụ cung
cấp các thông tin kế toán cho đối tác bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp.thông tin kế toán đợc phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán.
Phân tích tài chính đợc thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính đợc hình
thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu: đó là bảng cân đối kế
toán, báo cáo kết quả kinh doanh, ngân quỹ (báo cáo lu chuyển tiền tệ).
2.3.1- Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là báo cáo tài chính
có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tợng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh
doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thờng bảng cân đối kế toán
đợc trình bày dới dạng bảng cân đối các số d tài khoản kế toán: một bên phản
ánh tài sản, một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản
hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh
nghiệp: đó là tài sản lu động, tài sản cố định. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn
11
để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó
là vốn chủ và các khoản nợ.
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán đợc sắp xếp theo khả năng
chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Bên tài sản
Tài sản lu động: tiền chứng khoán ngắn hạn dễ bán, khoản phải thu, dự
trữ .Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Bên nguồn vốn
Nợ ngắn hạn bao gồm nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải
trả khác nợ ngắn hạn ngân hàng thơng mại và các tổ chức tín dụng khác. Nợ
dài hạn bao gồm nợ dài hạn vay ngân hàng thơng mại và các tổ chức tín dụng
khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp
ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới.
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản;
bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng có khả năng độc lập về
tài chính của doanh nghiệp.
Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ
tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục có trong tài khoản nội bảng
còn có một số khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán nh: một số tài khoản thuê
ngoài, vật t, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá nhận bán hộ, ngoại
tệ các loại...
Dựa vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết đợc loại
hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng
cân đối kế toán là một t liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh
giá đợc khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân đối
vốn của doanh nghiệp.
2.3.2 - Báo cáo kết quả kinh doanh
12
Một thông tin không kém phần quan trọng đợc sử dụng trong phân tích tài
chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng
cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển tiền trong
quá trình sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng
hoạt động của doanh nghiệp trong tơng lai. Báo cáo kết quả kinh doanh giúp
nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ để vận hành doanh
nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định đợc kết quả sản xuất-
kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Nh vậy báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh
kết quả hoạt động sản xuất-kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một
doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng
hợp về tình hình và kết quả sử dụng tiềm năng về vốn, lao động, kĩ thuật và
trình độ quản lý sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu đợc phản ánh trên báo cáo kết quả kinh
doanh: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài
chính, doanh thu từ hoạt động bất thờng và chi phí tơng ứng từ các hoạt động
đó.
Những loại thuế nh: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất không phải
là doanh thu cũng không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không phản ánh
trên báo cáo kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp
và các khoản phải nộp khác đợc phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện
nghĩa vụ với Nhà nớc.
2.3.3-Ngân quỹ (báo cáo lu chuyển tiền tệ)
Báo cáo lu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính. Nếu bảng cân đối kế
toán những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và
báo cáo kết quả kinh doanh cho ta biết chi phí và thu nhập phát sinh để tính đ-
ợc kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lu chuyển tiền tệ đợc
lập để trả lời những vấn đề liên quan đến luồng tiền vào, ra trong doanh
nghiệp, tình hình tài trợ, đầu t bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
13
Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo đợc khả năng chi trả hay
không cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thờng đợc
xác định trong thời gian ngắn hạn (thờng là từng tháng).
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập (thu ngân quỹ), bao gồm: dòng
tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh (từ bán hàng hoá hoặc dịch vụ); dòng
tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu t tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất
thờng.
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm:
dòng tiền xuất thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện
hoạt động đầu t tài chính; dòng tiền xuất thực hiện hoạt động bất thờng.
Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực
hiện cân đối ngân quỹ với số d ngân quỹ đầu kỳ để xác định số d ngân quỹ
cuối kỳ. Từ đó có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh
nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
2.3.4 - Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính đợc lập nhằm cung cấp các thông tin về
tình hình sản xuất, kinh doanh cha có trong hệ thống các báo cáo tài chính,
đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà các báo cáo tài chính cha đợc
trình bày, giải thích một cách rõ ràng và cụ thể.
Thuyết minh báo cáo tài chính bao gồm các nội dung sau:
-Đặc diểm hoạt động của doanh nghiệp: Hình thức sở hữu , hoạt động,
lĩnh vực kinh doanh, tổng số nhân viên những ảnh hởng quan trọng đến tình
hình tài chính trong năm báo cáo.
-Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp: Niên độ kế toán, đơn vị tiền tệ
trong ghi chép kế toán, nguyên tắc, phơng pháp chuyển đổi các đồng tiền khác,
hình thức sổ kế toán, phơng pháp kế toán tài sản cố định, phơng pháp kế toán
hàng tồn kho, phơng pháp tính toán các khoản dự phòng, tình hình trích lập và
hoàn nhập dự phòng.
14
- Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính: Yếu tố chi phí sản xuất,
kinh doanh, tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình tăng giảm các khoản
đầu t vào doanh nghiệp, lý do tăng, giảm, các khoản phải thu và nợ phải trả.
- Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
- Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh
nghiệp.
- Phơng hớng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới.
- Các kiến nghị.
2.3.5 - Bảng tài trợ
Bảng tài trợ là một trong nhũng công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài
chính, nó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và sử dụng
nguồn vốn đó.
Để lập đợc biểu kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ), trớc hết phải
liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối
kỳ. Mỗi sự thay đổi đợc phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo
nguyên tắc:
- Nếu khoản mục bên tài sản giảm hoặc khoản mục bên nguồn vốn tăng
thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc khoản mục bên nguồn vốn
giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng nguồn.
Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu t vốn
và nguồn vốn chủ yếu hình thành để đầu t.
Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, các nhà phân
tích cần phải đọc và hiểu đợc báo cáo tài chính, qua đó, nhận biết đợc và tập
trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của
họ. Tất nhiên, muốn đợc nh vậy, các nhà phân tích cần tìm hiểu thêm nội dung
chi tiết các khoản mục của báo cáo tài chính trong các môn học liên quan.
15
2.4 - Trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp
2.4.1 - Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và
thuyết minh thực trạng sử dụng tình hình tài chính của doanh nghiệp, phục vụ
cho quá trình dự đoán tài chính. Nó bao gồm những thông tin nội bộ đến
những thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán và những thông tin quản lý
khác, những thông tin về số lợng và giá trị ...trong đó các thông tin kế toán
phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, là những nguồn
thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân tích tài chính trên thực tế là phân
tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
2.4.2 - Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã
thu thập đợc. Trong giai đoạn này, ngời sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên
cứu, ứng dụng khác nhau, có phơng pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ
mục tiêu phân tích đã đặt ra: xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin
theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán so sánh, giải thích, đánh giá,
xác định nguyên nhân các kết quả đã đạt đợc phục vụ cho quá trình dự đoán và
quyết định.
2.4.3 - Dự đoán và quyết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần
thiết để ngời sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đa ra quyết định tài chính.
Có thể nói, mục tiêu của phân tích tài chính là đa ra quyết định tài chính. Đối
với chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm đa ra các quyết định liên quan
tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của doanh
nghiệp, tăng trởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận. Đối với ngời cho vay và
đầu t vào xí nghiệp thì đa ra các quyết định về tài trợ và đầu t; đối với nhà quản
lý thì đa ra các quyết định về quản lý doanh nghiệp.
II - phơng pháp phân tích tài chính
16
Phơng pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ biện
pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tợng, các mối quan hệ bên
trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài
chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.Về
lý thuyết, có nhiều phơng pháp phân tích tài chính, nhng trên thực tế ngời ta th-
ờng sử dụng phơng pháp so sánh và phơng pháp phân tích tỷ lệ.
1 - Các phơng pháp phân tích tài chính
1.1 - Phơng pháp so sánh
Điều kiện để áp dụng phơng pháp so sánh là các chỉ tiêu tài chính phải
thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán,...
và theo mục đích phân tích mà xác định số gốc so sánh. Gốc so sánh đợc chọn
là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích đợc lựa chọn là kỳ báo
cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tơng
đối hoặc số bình quân; nội dung so sánh bao gồm:
- So sánh giữa số thực hiện trong kỳ này với số thực hiện kỳ trớc để thấy
rõ xu hớng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự tăng trởng hay thụt
lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạc để thấy rõ mức độ phấn đấu
của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành của
các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình
tốt hay xấu, đợc hay cha đợc.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng
thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy đợc sự biến đổi cả về số lợng t-
ơng đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
1.2 - Phơng pháp phân tích tỷ số
Tỷ số là công cụ phân tích tài chính phổ thông nhất, một tỷ số là mối
quan hệ tỷ lệ giữa hai dòng hoặc hai nhóm dòng của bảng cân đối tài sản. Ph-
ơng pháp phân tích tỷ số dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lợng tài
17
chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ số là sự biến đổi các đại l-
ợng tài chính. Về nguyên tắc, phơng pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định các ng-
ỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên
cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính đợc phân
thành các nhóm tỷ lệ đặc trng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục
tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán,
nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh
doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận
của hoạt động tài chính trong mỗi trờng hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân
tích, ngời phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu
phân tích của mình.
Chọn đúng các tỷ số và tiến hành phân tích chúng, chắc chắn ta sẽ phát
hiện đợc tình hình tài chính. Phân tích tỷ số cho phép phân tích đầy đủ khuynh
hớng vì một số dấu hiệu có thể đợc kết luận thông qua quan sát số lớn các hiện
tợng nghiên cứu riêng rẽ.
1.3 - Phơng pháp phân tích Dupont
Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ tơng
hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các tỷ số tài chính. Vì vậy, nó
đợc gọi là phơng pháp Dupont. Với phơng pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận
biết đợc các nguyên nhân dẫn đến các hiện tợng tốt, xấu trong hoạt động của
doanh nghiệp. Bản chất của phơng pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản
ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp nh thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập
sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối
quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hởng của các tỷ số
đối với các tỷ số tổng hợp.
Phơng pháp phân tích Dupont có u điểm lớn là giúp nhà phân tích phát
hiện và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn chủ
18
sở hữu của doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành thì
nhà phân tích có thể dựa vào hệ thống các chỉ tiêu theo phơng pháp phân tích
Dupont để tìm ra nguyên nhân chính xác. Ngoài việc đợc sử dụng để so sánh
với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, các chỉ tiêu đó có thể đợc dùng
để xác định xu hớng hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát
hiện ra những khó khăn doanh nghiệp có thể sẽ gặp phải. Nhà phân tích nếu
biết kết hợp phơng pháp phân tích tỷ lệ và phơng pháp phân tích Dupont sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả phân tích tài chính doanh nghiệp.
Ngoài các phơng pháp phân tích chủ yếu trên, ngời ta còn sử dụng một số
phơng pháp khác: phơng pháp đồ thị, phơng pháp biểu đồ, phơng pháp toán tài
chính,... kể cả phơng pháp phân tích các tình huống giả định.
Trong quá trình phân tích tổng thể thì việc áp dụng linh hoạt, xen kẽ các
phơng pháp sẽ đem lại kết quả cao hơn khi phân tích đơn thuần, vì trong phân
tích tài chính kết quả mà mỗi chỉ tiêu đem lại chỉ thực sự có ý nghĩa khi xem
xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác. Do vậy, phơng pháp phân tích
hữu hiệu cần đi từ tổng quát đánh giá chung cho đến các phần chi tiết, hay nói
cách khác là lúc đầu ta nhìn nhận tình hình tài chính trên một bình diện rộng,
sau đó đi vào phân tích đánh giá các chỉ số tổng quát về tình hình tài chính và
để hiểu rõ hơn ta sẽ phân tích các chỉ tiêu tài chính đặc trng của doanh nghiệp,
so sánh với những năm trớc đó, đồng thời so sánh với tỷ lệ tham chiếu để cho
thấy đợc xu hớng biến động cũng nh khả năng hoạt động của doanh nghiệp so
với mức trung bình ngành ra sao.
2 - Nội dung phân tích tài chính
2.1 - Phân tích các tỷ số tài chính
2.1.1 - Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Tình hình tài chính đợc thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu tài chính về
khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp
phản ánh mối quan hệ tài chính các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với
19
khoản phải thanh toán trong kỳ. Sự thiếu hụt về khả năng thanh khoản có thể đ-
a doanh nghiệp tới tình trạng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp đúng hạn và có thể phải ngừng hoạt động. Do đó cần chú ý đến
khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ
tiêu chủ yếu sau đây:
Tài sản lu động
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán hiện hành thể hiện mối quan hệ giữa tài sản lu động với
các khoản nợ ngắn hạn. TSLĐ bao gồm tiền, chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển
nhợng, các khoản phải thu, các khoản dự trữ. Nợ ngắn hạn thờng bao gồm các
khoản vay ngắn hạn ngân hàng thơng mại và các tổ chức tín dụng khác, các
khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả các khoản phải nộp khác. Cả
TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dới một năm.
Hệ số này thể hiện khả năng thanh toán trong ngắn hạn của doanh nghiệp,
nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn đợc trang trải bằng
các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tơng đơng với thời hạn
của khoản nợ đó. Khi đã có hệ số này ta tiến hành so sánh với tỷ số tham chiếu
khác nh: mức trung bình ngành, tỷ lệ kỳ trớc...để đợc sự đánh giá tốt hơn.
Tài sản lu động -Dự trữ
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán nhanh thể hiện mối quan hệ giữa các tài sản quay vòng
nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh
chóng chuyển thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản
phải thu. Tài sản dự trữ là các tài sản khó chuyển đổi thành tiền hơn trong tài
sản lu động và dễ bị lỗ nhất khi bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh
cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc
bán các tài sản dự trữ.
Tiền
20
Khả năng thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn
Tỷ số thanh toán tức thời thể hiện mối quan hệ tiền (tiền mặt và các
khoản tơng đơng tiền nh chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển đổi...)và khoản nợ
đến hạn phải trả. Nợ đến hạn phải trả bao gồm nợ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
đến hạn trả. Tỷ số thanh toán nhanh cha bộc lộ hết khả năng thanh toán của
doanh nghiệp bởi nó mới tính đến các khoản nợ ngắn hạn. Nếu nợ dài hạn đến
hạn trả doanh nghiệp phải xử lý nh thế nào nếu không lập kế hoạch từ trớc và
nó có khiến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không?. Tỷ số thanh toán
tức thời cho chúng ta biết khá rõ về tình trạng đó tuy nhiên hệ số này hết sức
nhạy cảm nên doanh nghiệp cần xác định phù hợp vì nếu hệ số thanh toán tức
thời thấp hơn một thì doanh nghiệp phải bán các tài sản lu động khác nh chứng
khoán ngắn hạn... để thanh toán, còn tỷ số thanh toán tức thời quá cao tức
doanh nghiệp dự trữ quá nhiều tiền mặt thì doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Các chủ nợ đánh giá mức trung bình hợp lý cho tỷ lệ này là 0.5. Khi tỷ lệ này
lớn hơn 0.5 thì khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp là khả quan và
ngợc lại.
Tỷ số dự trữ trên vốn lu động dòng: Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm
bao nhiêu phần trăm vốn lu động ròng. Nó đợc tính bằng cách lấy dự trữ chia
cho vốn lu động ròng. Nếu dự trữ trên vốn lu động ròng quá cao thì sẽ không
tốt vì khoản dự trữ khó chuyển đổi thành tiền nhất trong vốn lu động ròng. Và
khi chuyển đổi dự trữ thành tiền thì chi phí chuyển đổi cao, doanh nghiệp sẽ bị
thiệt hại, do vậy doanh nghiệp tính toán một mức dự trữ cho hợp lý tránh tình
trạng tồn đọng vốn gây thiệt hại.
Sau khi tính toán các chỉ tiêu trên doanh nghiệp, doanh nghiệp tiến hành
phân tích một cách chi tiết nhu cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá
chính xác tình hình thanh toán của doanh nghiệp bằng cách đối chiếu và so
sánh với các tỷ số thanh toán năm trớc và các chỉ số tham chiếu.
21
Không thể đa ra một chỉ tiêu chuẩn mực về hệ số thanh toán cho tất cả
các loại hình doanh nghiệp. Nhng thông thờng hệ số thanh toán trên 0.5 thì coi
là lành mạnh còn dới 0.5 là dấu hiệu không lành mạnh.
2.1.2 - Các tỷ số về khả năng cân đối vốn
Tỷ số này dùng để đo lờng phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa
quan trọng trọng phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở
hữu của công ty để thể hiện mức độ tin tởng vào sự đảm bảo an toàn cho các
món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng
số vốn thì rủi ro trong sản xuất-kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu.
Mặt khác bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm
quyền kiểm soát, điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu đợc
lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng
đáng kể.
Nghiên cứu các chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn nhằm mục đích chỉ ra
doanh nghiệp đã có một cơ cấu vốn hợp lý hay cha? Một trong những mục tiêu
của doanh nghiệp là đạt đợc cơ cấu vốn tối u nhằm tối đa hoá giá trị tài sản sở
hữu. Trong quá trình hoạt động kinh doanh cơ cấu tài chính của doanh nghiệp
luôn luôn thay đổi, nghiên cứu nhóm chỉ tiêu này chúng ta xem xét một số chỉ
tiêu chủ yếu: hệ số nợ, khả năng thanh thanh toán lãi vay,...
Tổng nợ
Hệ số nợ =
Tổng tài sản
Hệ số này xác định trong một đồng doanh nghiệp đang sử dụng có bao
nhiêu phần là nợ vay. Hệ số nợ là tỷ số này đợc sử dụng để xác định nghĩa vụ
của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Hệ số nợ đợc các
chủ nợ và chủ đầu t góp vốn liên doanh quan tâm rộng rãi. Thông thờng các
chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải tỷ số này càng thấp thì các
khoản nợ càng đợc đảm bảo trong trờng hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong
khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp a thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi
22
nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu
tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán.
Lợi nhuận trớc thuế và lãi vay
Khả năng thanh toán lãi vay =
lãi vay
Tỷ số về khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo
khả năng trả lãi hàng năm nh thế nào. Việc không trả đợc các khoản nợ này sẽ
thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản. Lãi vay là một khoản
chi phí, doanh nghiệp dùng thu nhập trớc thuế để trả lãi. Nó phản ánh doanh
nghiệp sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không và chỉ tiêu này rất đợc các ngời
cho vay quan tâm.
Tài sản cố định / Tài sản lu động
Tỷ số cơ cấu tài sản =
Tổng tài sản
Tỷ số này phản ánh tơng quan giữa TSCĐ và TSLĐ so với tổng tài sản.
Thông qua tỷ số này, ta có thể thấy đợc loại hình doanh nghiệp là sản xuất hay
kinh doanh thơng mại.
Vốn chủ sở hữu
Tỷ số cơ cấu nguồn vốn =
Tổng nguồn vốn
Tỷ số này xác định mức đóng góp của của chủ sở hữu trong tổng nguồn
vốn hiện có của doanh nghiệp. Tỷ số cơ cấu nguồn vốn có quan hệ mật thiết
với hệ số nợ. Tỷ số này lớn thì vốn chủ sở hữu lớn doanh nghiệp có đợc lợi thế
khi tiếp cận một số nguồn vốn vay mà yêu cầu vay phải có vốn chủ sở hữu lớn.
Và ngợc lại, tỷ số này thấp gây bất lợi cho doanh nghiệp khi đi vay cũng nh
trong cạnh tranh.
2.1.3 - T ỷ số về khả năng hoạt động
Các tỷ số hoạt động đợc sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp đợc dùng để đầu t vào các tài sản khác
nhau nh tài sản cố định, tài sản lu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ
23
quan tâm đến việc đo lờng hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng đến
hiệu quả sử dụng từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu doanh thu đợc sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét
khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh thu
Vòng quay tiền =
Tiền và chứng khoán dễ bán
Tỷ số này cho biết vòng quay của tiền trong năm. Vòng quay tiền càng
cao hiệu quả kinh doanh càng tốt.
Doanh thu
Vòng quay dự trữ =
Dự trữ
Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ đợc xác định bằng tỷ
số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu,vật liệu phụ, sản
phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. Chỉ tiêu này khá quan trọng nó đánh
giá hiệu quả của TSLĐ. Nếu chỉ tiêu này cao tức là mức độ luân chuyển dự trữ
nhanh, lợng dự trữ không lớn, ít bị ứ đọng vốn.
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân một ngày
Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền bình quân đợc sử dụng để đánh giá
khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu
bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách
thơng mại của doanh nghiệp và các khoản trả trớc. Trong nền kinh tế thị trờng
các chủ kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về sử dụng vốn và chiếm
dụng vốn. Chỉ tiêu này rất quan trọng vì nếu chu kỳ thu tiền bình quân lớn
chứng tỏ khoản phải thu lớn, vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng, gây khó khăn
cho việc huy động vốn, nếu kỳ thu tiền bình quân nhỏ, các khoản phải thu nhỏ
nhng giao dịch với khách hàng và chính sách tín dụng thơng mại bị hạn hẹp,
quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác giảm, thị trờng giảm, do đó
24
việc để chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp tuỳ thuộc vào mục tiêu hiện
tại của doanh nghiệp.
Doanh thu
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu trong một năm. Tài sản cố định ở đây đợc xác định theo giá trị còn
lại đến thời điểm lập báo cáo.
Doanh thu
Hiệu quả sử dụng TSLĐ =
Tài sản lu động
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản lu động tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu trong một năm. Tài sản lu động ở đây đợc xác định theo giá trị còn
lại đến thời điểm lập báo cáo.
Doanh thu
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này còn dợc gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó đợc đo bằng tỷ
số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại mấy
đồng doanh thu.
2.1.4 - Tỷ số về khả năng sinh lời
Với một doanh nghiệp thì lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng để đánh giá hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chỉ khi hoạt động có lợi nhuận doanh nghiệp mới
có khả năng thanh toán những khoản nợ mà không ảnh hởng tới nguồn vốn,
mới có khả năng tái đầu mở rộng sản xuất, khẳng định vị trí của mình trong
nền kinh tế. Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận cha phản ánh đầy đủ tình hình kinh
doanh, nếu ta chỉ nhìn chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá hoạt động của doanh
nghiệp là tốt hay xấu thì dễ dẫn đến sai lầm. Bởi vì đánh giá lợi nhuận cần so
sánh tơng quan với chi phí, với lợng tài sản mà doanh nghiệp sử dụng và bộ
phận vốn chủ sở hữu huy động vào sản xuất kinh doanh.
25