Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn ths luật sự lựa chọn mô hình bảo hiếm ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.37 KB, 94 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


BÙI HẢI ĐƯỜNG



SỰ LỰA CHỌN MÔ HÌNH BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







Hà Nội - 2015



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




BÙI HẢI ĐƯỜNG



SỰ LỰA CHỌN MÔ HÌNH BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận - Lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chủ tịch Hội đồng Người hướng dẫn



GS. TS Phạm Hồng Thái TS. Đặng Minh Tuấn

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và

đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ



Bùi Hải Đường







MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
MÔ HÌNH BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI 8
1.1. Khái niệm, vị trí vai trò của bảo hiến 8
1.1.1 Khái niệm bảo hiến 8
1.1.2. Vị trí, vai trò bảo hiến 11
1.2. Sự hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến điển hình
trên thế giới. 13
1.2.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Cộng hòa Pháp 13

1.2.2. Mô hình bảo hiến bằng tòa án ở Hoa Kỳ 19
1.2.3. Mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức 23
1.2.4.Mô hình bảo hiến Quốc hội 25
1.3. Lý do lựa chọn mô hình bảo hiến trên thế giới 26
1.3.1. Các yếu tố pháp luật 27
1.3.2. Các yếu tố chính trị 28
1.3.3. Sự ảnh hưởng mô hình bảo hiến nước ngoài 30
1.3.4. Ưu, nhược điểm của mô hình bảo hiến 31
CHƯƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM 34
2.1. Bảo hiến theo quy định của các Hiến pháp trong lịch sử 34
2.1.1. Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo Hiến
pháp năm 1946 34
2.1.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959 36
2.1.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980 37
2.1.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992 39
2.2. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013 40
2.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình bảo hiến ở Việt Nam 47
2.3.1. Ưu điểm 49
2.3.2. Hạn chế 50
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM 57
3.1. Yêu cầu xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam 57
3.2. Cơ sở xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam 60
3.2.1. Tồn tại một bản Hiến pháp quy định tính pháp lý tối cao 60
3.2.2. Từng bước hoàn thiện và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam 61
3.2.3. Cơ chế phân quyền có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền
lực nhà nước 63
3.2.4. Quyền con người, quyền công dân được từng bước ghi nhận 64
3.2.5. Sự thống nhất về tư tưởng hoàn thiện cơ chế bảo hiến 65

3.3. Đánh giá sự phù hợp của các mô hình bảo hiến ở Việt Nam 66
3.4. Đề xuất mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam 73
3.4.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam 75
3.4.2. Cách thức tổ chức hội đồng Hiến pháp 78
3.4.3. Chức năng của hội đồng Hiến pháp 79
3.4.4.Trình tự, thủ tục hoạt động của hội đồng Hiến pháp 83
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử pháp lý thế giới đã ghi nhận Hiến pháp xuất hiện nhằm mục
đích tạo sự cân bằng, kiểm soát quyền lực nhà nước, đặt ra một phạm vi
giới hạn mà nhà nước buộc phải tuân thủ để bảo vệ quyền công dân. Hiến
pháp đại diện cho nền dân chủ đối với mỗi quốc gia, thể hiện ý chí và
quyền lực nhân dân. Tuy nhiên, Hiến pháp ở nhiều quốc gia chưa được coi
trọng đúng giá trị. Khi Hiến pháp không được bảo vệ giá trị pháp lý tối cao,
không được ghi nhận là đạo luật nền tảng cho hệ thống pháp luật quốc gia
thì nhu cầu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp xuất hiện. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp
nhằm mục đích bảo vệ Hiến pháp đồng thời bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ
quyền lực mà nhân dân đã trao cho nhà nước. Hiến pháp và cơ chế bảo hiến
trở thành công cụ thiết yếu để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân trong bất cứ một mô hình nhà nước dân chủ ở mọi giai đoạn của lịch sử
nhân loại.
Xây dựng mô hình bảo hiến nhằm bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của
Hiến pháp là một trong những nội dung quan trọng để hướng tới xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đường lối và
chính sách của nhà nước nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật đã chỉ rõ mục

tiêu coi Hiến pháp là nền tảng hệ thống pháp luật, cần được bảo vệ giá trị
pháp lý. Nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020: Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng
và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập
2

quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 [1].
Trên cơ sở nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020, báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng - Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X năm 2006 của Đảng tiếp tục ghi nhận: “tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” xác định “xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát và tính hợp hiến và hợp pháp
trong hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền”, xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành
pháp và tư pháp” [2].
Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã là mục tiêu hướng đến trong
một khoảng thời gian rất dài tuy nhiên bởi nhiều lý do mà một cơ quan
chuyên trách bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam chưa thể hình thành. Việt Nam
mới hoàn thiện và ban hành Hiến pháp 2013 nhưng nhu cầu hình thành một
mô hình bảo hiến chuyên trách trong thời kỳ mới vẫn còn tồn tại. Hiến
pháp 2013 là bản Hiến pháp của thời kỳ mới; trên cơ sở quán triệt và thể
chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng; tạo cơ sở chính trị - pháp lý

cho việc thực hiện công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 2013 sẽ tiếp tục sứ mệnh lịch sử của mình:
Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh [3].
Hiện nay bối cảnh tình hình thế giới đã có nhiều biến chuyển sâu sắc;
trong khi đó ở Việt Nam quan điểm tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối pháp
luật vẫn chưa tồn tại trên thực tế. Đối với hầu hết những công dân, người
được Hiến pháp trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì đều không
3

hiểu hết tầm quan trọng của Hiến pháp và nhu cầu cần hạn chế sự vi phạm
Hiến pháp.
Thực tế cho thấy, các hành vi bị nhận định vi hiến thường xuyên đến
từ phía cơ quan nhà nước, đơn cử trong lĩnh vực rõ ràng nhất là việc ban
hành các văn bản pháp luật. Hiến pháp 2013 không ghi nhận mô hình bảo
hiến chuyên trách khiến cho việc hạn chế, xử lý các hành vi hiến gặp nhiều
khó khăn. Thực trạng hiện nay, cần tìm ra mô hình bảo hiến chuyên trách
phù hợp cho Việt Nam nhằm đề xuất vào các bản Hiến pháp trong tương
lai. Theo Hiến pháp 2013, Việt Nam cũng đã có cơ chế bảo vệ Hiến pháp
thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan nhà nước, giữa
công dân với cơ quan nhà nước tuy nhiên cơ chế trên thực tế vừa không
đầy đủ, vừa yếu, lại không thống nhất, không đồng bộ, thiếu thủ tục trình tự
dẫn đến việc tuyên bố một quyết định vi hiến ở Việt Nam là một việc nằm
ngoài phạm vi thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Trong bối cảnh hiện tại,
việc xây dựng một Hiến pháp tốt và xây dựng một cơ chế để bảo vệ Hiến
pháp hiệu quả là một nhu cầu chính đáng. "Lịch sử không ban tặng cho một
quốc gia nhiều cơ hội như thế và khi cơ hội đến, phải vượt qua các thách
thức vì tương lai của quốc gia bị đe dọa”[4]. Mô hình bảo hiến nào thực sự
cần thiết với Việt Nam, các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn mô hình bảo
hiến thông qua những yếu tố như thế nào. Nghiên cứu nhằm đánh giá mô

hình phù hợp nhất với hoàn cảnh nước ta thời kỳ hiện tại.
Từ những lý do trên, tôi xin lựa chọn đề tài: “Sự lựa chọn mô hình
bảo hiến ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ chuyên nghành Lý luận lịch sử
nhà nước và pháp luật. Đây là đề tài có tính cần thiết, cấp bách, thời sự.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu về Hiến pháp, đặc biệt về cơ chế bảo hiến không phải là
đề tài quá mới với các nhà nghiên cứu cả ở thế giới và Việt Nam. Đặc biệt
là trong giai đoạn sửa đổi Hiến pháp năm 1992, hàng loạt những hội nghị,
4

hội thảo, tọa đàm được tổ chức nhằm đưa ra những nghiên cứu, kiến nghị
về việc xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách trong Hiến pháp mới. Tuy
Hiến pháp 2013 không ghi nhận mô hình bảo hiến chuyên trách như kỳ
vọng nhưng những nghiên cứu về mô hình bảo hiến đã tạo nền tảng cho
việc tiếp tục xây dựng bảo hiến ở Việt Nam trong tương lai. Trong thời
gian qua đã có những nghiên cứu khoa học, công trình khoa học, bài viết,
chuyên đề, sách chuyên khảo nổi bật và đáng chú ý bao gồm:
GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Chủ nghĩa Hiến pháp và vấn đề bảo
hiến ở Việt Nam, Kỷ yếu về Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Văn phòng Quốc
hội năm, 2009.
GS.TSKH Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán
Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 10, năm 2006.
Sách chuyên khảo Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, đồng chủ
biên, nhà xuất bản Lao động - xã hội, năm 2012.
Sách chuyên khảo Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến
pháp ở một số nước trên thế giới, Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2013.
Sách chuyên khảo Các thiết chế hiến định độc lập kinh nghiệm quốc
tế và triển vọng ở Việt Nam, Viện chính sách công và pháp luật, nhà xuất
bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013.

Sách chuyên khảo Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Tài liệu tham khảo Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Văn phòng
Quốc hội, nhà xuất bản Thời đại, năm 2009.
Một số đề tài nghiên cứu thạc sỹ, tiến sĩ liên quan về đề tài bảo vệ
Hiến pháp như:
5

Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật “Bảo hiến trong nhà nước pháp quyền” của tác giả Nguyễn Mậu Tuân,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật “Cơ chế bảo hiến trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” tác giả
Tào Thị Quyên, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2012.
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam của tác giả Bùi Thanh Cương,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
Các công trình khoa học nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý
luận chung về bảo hiến, khái niệm, vai trò bảo hiến, cung cấp những nền
tảng cơ bản về mô hình bảo hiến trên thế giới, mô hình bảo hiến hiện tại ở
Việt Nam đồng thời chỉ rõ ra những kinh nghiệm Việt Nam có thể tham
khảo, cũng như lựa chọn cho mình một mô hình bảo hiến phù hợp với đặc
thù quốc gia. Những nghiên cứu đã thể hiện những ưu điểm, hạn chế của
mô hình bảo hiến Việt Nam hiện tại đồng thời đề xuất khắc phục hạn chế
nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến từ đó tạo nền tảng cho việc xây dựng cơ
quan bảo hiến chuyên trách ở nước ta. Những nghiên cứu khoa học trên là
nguồn tham khảo, vận dụng và học hỏi quan trọng để đề tài luận văn có thể
thực hiện hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến lịch sử bảo hiến ở nước ta, các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn mô

hình bảo hiến… để đóng góp một phần ý nghĩa thực tiễn và lý luận về cơ
chế bảo hiến ở nước ta.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm tìm hiểu cơ bản về các mô hình bảo
hiến trên thế giới thông qua việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá những
6

khái niệm, vai trò của bảo hiến đối với mỗi quốc gia, làm rõ các yếu tố tác
động đến sự lựa chọn xây dựng mô hình bảo hiến ở mỗi quốc gia.
Đồng thời nghiên cứu xác định những ưu điểm và hạn chế của mô
hình bảo hiến hiện tại, xem xét nền tảng để hoàn thiện mục tiêu xây dựng
mô hình bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam, đưa ra những minh chứng
chứng tỏ tầm quan trọng của mô hình bảo vệ Hiến pháp tại Việt Nam, nhu
cầu cần thiết phải tồn tại mô hình bảo hiến trong hoạt động của bộ máy nhà
nước. Trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất thiết chế bảo hiến chuyên trách ở
nước ta, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền công dân,
quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Để hoàn thành mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các đặc điểm của các cơ quan bảo vệ Hiến pháp trên
thế giới. Bên cạnh đó, tìm hiểu tại sao các quốc gia lại lựa chọn mô hình
bảo hiến đó, nhằm tìm ra những mô hình phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn ở
Việt Nam.
- Nghiên cứu cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu cần thiết
cho sự đổi mới của mô hình
- Nghiên cứu đưa ra các kiến nghị, kế thừa và phát triển một mô hình
bảo hiến chuyên trách phù hợp với đặc điểm quốc gia đối với Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm đổi mới
nhà nước và pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài vận dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng; đồng thời sử dụng một số phương pháp là so
sánh luật học, so sánh chính trị học

7

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sỹ, tôi xác định phạm
vi của đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề pháp lý liên
quan đến việc hình thành mô hình bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam;
những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong việc xây dựng mô hình bảo
hiến, trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng
có hiệu quả mô hình bảo hiến.
6. Tính mới của nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên nền tảng nhu cầu về mô hình bảo hiến
chuyên trách ở Việt Nam, đưa ra những luận điểm khoa học về sự cần thiết
phải tồn tại nhu cầu bảo hiến. Đồng thời, nghiên cứu những đặc điểm tác
động đến mô hình bảo hiến của một quốc gia, gắn với thực tiễn Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra đề xuất mô hình bảo hiến chuyên trách phù
hợp với yêu cầu trong hoàn cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Tác giả mong muốn luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Về kết cấu, Luận văn bao gồm Phần mở đầu, Phần Kết luận và ba chương:
Chương I: Cơ sở hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến
trên thế giới.
Chương II: Sự hình thành và phát triển của bảo hiến ở Việt Nam.
Chương III: Đề xuất mô hình bảo hiến ở Việt Nam.


8

Chương I:
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC MÔ HÌNH
BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Khái niệm, vị trí vai trò của bảo hiến
1.1.1 Khái niệm bảo hiến
Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật tối cao của một quốc gia, Hiến
pháp ra đời thể hiện ý chí của nhân dân nhằm mục đích giới hạn quyền lực
nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân. Hiến pháp là cơ sở để xem
xét tính pháp lý của mọi văn bản, mọi quyết định và mọi hành vi của bộ
máy nhà nước và công dân; là một dạng khế ước cam kết giữa nhân dân và
nhà nước. Nhân dân có quyền xem xét tính hợp hiến của pháp luật. Hiến
pháp xuất hiện trong một xã hội có nền dân chủ, có sự phân chia quyền lực
nhà nước, phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước với
nhau. Hiến pháp đặt nền móng cho mọi hoạt động của bộ máy nhà nước,
nguyên tắc, chức năng, thẩm quyền bộ máy nhà nước đều theo sự điều
chỉnh của Hiến pháp.
Chủ nghĩa hợp hiến được hình thành bởi ý tưởng chính trị tự do ở
Tây Âu và Hoa Kỳ là hình thức bảo vệ quyền cá nhân đối với sức khỏe, tài
sản, tự do tôn giáo và ngôn luận. Để đảm bảo những quyền trên, người
soạn thảo Hiến pháp đã nhấn mạnh kiểm soát quyền lực nhà nước trong
mỗi ngành quyền lực. Bất cứ cơ quan nào sử dụng đủ quyền lực để bảo vệ
tôi khỏi bị hàng xóm cướp bóc, tất có thể sử dụng đủ quyền lực để phá hủy
hoặc nô lệ hóa tôi. Nghịch lý này nằm trong gốc rễ của lý thuyết hiện đại
về tình trạng tự nhiên: Làm sao chúng ta thoát khỏi tình trạng vô chính
phủ mà không sa vào chính thể chuyên quyền để điều khiển người bị trị mà
vẫn có thể ngăn ngừa quyền hành tích lũy này không bị lạm dụng? Giải
pháp dân chủ tự do cho vấn nạn này chính là chủ nghĩa hợp hiến [4].
9


Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất, chính xác
nào về bảo hiến. Các thuật ngữ được dùng trong mỗi hoàn cảnh khác nhau
tùy thuộc vào hoàn cảnh quốc gia, điều kiện chính trị của quốc gia. Bảo
hiến hay cách gọi thông thường khác gọi là bảo vệ Hiến pháp hay tài phán
Hiến pháp có thể hiểu là cách thức đánh giá tính hợp hiến của các văn bản
pháp luật, các hành vi pháp lý của các cơ quan quyền lực nhà nước được
thực hiện bởi một cơ quan hiến định.
Theo nghĩa hẹp, bảo hiến được giải thích là bảo vệ tính hợp hiến của
các đạo luật, mục đích nhằm tìm ra sự phù hợp giữa Hiến pháp, đạo luật
gốc với những văn bản mang tính pháp lý khác, sự phù hợp ở đây không
mang tính khuyến cáo mà là sự chính xác. Mỗi văn bản có tính pháp lý
được ban hành ở bất kỳ cơ quan nào đều cần có sự tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp.
Ở một góc độ theo nghĩa rộng hơn, bảo hiến là bảo vệ tinh thần và
nội dung của Hiến pháp. Tinh thần trong bản Hiến pháp mà các nhà lập
hiến đã truyền tải vảo bản Hiến pháp, bảo vệ mối liên hệ giữa hành pháp, tư
pháp và lập pháp, kiểm soát tính hợp hiến của các hành vi thực hiện bởi
thiết chế nhà nước được quy định trong Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến
pháp chỉ cách thức tổ chức thực hiện bảo vệ Hiến pháp của một quốc gia
được thể hiện thông qua mô hình bảo hiến mà quốc gia đó lựa chọn. Cơ chế
bảo vệ Hiến pháp ở mỗi quốc gia thường không giống nhau nhưng vẫn có
điểm chung nhất định.
Nền móng của bảo hiến được cho là có thể xuất hiện vào thời Hy
Lạp cổ đại. Những hình thức sơ khai của mô hình bảo hiến xuất hiện ngày
càng nhiều ở châu Âu trung đại, các quốc gia bắt đầu có những điều luật
liên quan đến mô hình bảo hiến. Tuy không thành chế định bảo hiến cụ thể
nhưng lại có giá trị tham khảo rất lớn như: Đức, Pháp, Bồ Đầu Nha, Na Uy,
Đan Mạch, Hy Lạp, Áo, Rumani. Vương quốc Anh cũng có những đóng
góp nhất định vào sự phát triển của cơ chế bảo hiến. Anh quốc được coi là
10


quê hương của nền dân chủ, quê hương của nghị viện hiện đại. Với việc
xuất hiện bản "Đại Hiến chương" hay Magna Carta là một trong những văn
bản pháp luật quan trọng trong lịch sử nước Anh, không chỉ đơn thuần là
cột mốc cho tự do, dân chủ của nước Anh; mà người ta xem Đại Hiến
chương là một văn kiện đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển của chủ
nghĩa tự do và nền dân chủ trên thế giới, được ban hành vào năm 1215. Sự
kiện này đã đánh dấu những bước chuyển biến lớn với lịch sử pháp luật
nước Anh, trong đó có quan điểm về tính tối cao của Hiến pháp, mặc dù
nước Anh không có một bản Hiến pháp thành văn. Người Anh đã khởi
xướng ra thủ tục luận tội quan chức nhà nước đồng thời đề xuất ra tính tối
thượng của pháp luật và quyền được tào án xem xét tính hợp pháp của hoạt
động chính phủ. Thế kỷ XVIII, tòa án đã ra một phán quyết tuyên bố các
luật của đế chế Anh không còn giá trị pháp lý trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Sự
kiện xác nhận quyền bảo hiện của tòa án Hoa Kỳ mới được chính thức xác
nhận hình thành mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ do những tòa án thường
thực hiện.
Từ sự ra đời của chế định bảo hiến ở Hoa Kỳ, đã mở đường cho
hàng loạt các quốc gia khác với các bản Hiến pháp sau đó. Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha thế kỷ 19, dưới sự ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ năm
1812 tại Tây Ban Nha, Hiến pháp Cadiz đã ra đời. Sau đó, Hiến pháp này
lại làm nền tảng cho Hiến pháp Bồ Đào Nha ra đời năm 1822. Các bản
Hiến pháp này, dưới sự ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ đều mang
những mầm mống của cơ chế bảo vệ Hiến pháp - tính tối cao của Hiến
pháp trong hệ thống pháp luật quốc gia; Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp đưa
quyền giám sát Hiến pháp vào thế kỷ 19; năm 1867, Tòa án Liên bang Áo
được trao quyền giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền, Tòa án Tiểu
bang được trao quyền ra quyết định với các vụ kiện vi phạm Hiến pháp
Tới giai đoạn 1918 - 1939 mô hình bảo hiến của Áo nổi lên, giai
đoạn này được coi là "thời kỳ của nước Áo" (the Austrian Period). Nước

11

Áo áp dụng công trình của hai nhà khoa học Hans Kelsen và Adolf Merkl
sáng tạo ra mô hình bảo hiến tập trung. Mô hình này đã mở đường cho
hàng loạt các Tòa án Hiến pháp ở Châu Âu. Hiến pháp năm 1920 ở Áo xác
nhận nền tảng của Tòa án Hiến pháp. Mô hình Tòa án Hiến pháp chịu trách
nhiệm cơ bản bảo hiến như là một nhiệm vụ độc lập đã được xác nhận ở
Áo và phổ biến ra nhiều quốc gia khác nhất là ở châu Âu, trở thành một
trong những mô hình cơ bản về cơ chế bảo hiến trên thế giới.
Sau giai đoạn này, rất nhiều các quốc gia ở khắp các khu vực trên
thế giới thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp theo những mô hình khác
nhau như Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ, Myanma, Italia [5]… Ngoài tòa án
(tòa án thường và tòa án Hiến pháp) như ở Mỹ và Áo, ở một số nước, pháp
luật còn giao quyền bảo hiến cho một số cơ quan khác với những tên gọi,
ví dụ như hội đồng Hiến pháp, các tòa đặc biệt thuộc Toà án tối cao, hoặc
cho bản thân Nghị viện. Mô hình hội đồng Hiến pháp của Pháp năm 1958
và mô hình bảo hiến Quốc hội - nghị viện của Liên Xô đã mở ra thêm
nhiều sự lựa chọn phù hợp hơn hoàn cảnh của mỗi quốc gia.
Các mô hình bảo hiến trên thế giới hiện nay đã được phát triển
nhanh chóng, được đa số các quốc gia trên thế giới ghi nhận là một trong
những chế định bắt buộc tồn tại trong hệ thống pháp luật quốc gia, được
quy định trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia đó ở dạng
thành văn hoặc bất thành văn. Tính đến nay theo những số liệu không
chính thức đã có ít nhất hơn 80% các quốc gia trên thế giới quy định về
vấn đề bảo vệ Hiến pháp dưới những hình thức khác nhau.
1.1.2. Vị trí, vai trò bảo hiến
Bảo hiến đóng góp rất lớn cho sự hoàn thiện của pháp luật, nền dân
chủ quốc gia cũng như sự phát triển của quốc gia. Mô hình bảo hiến ở mỗi
quốc gia tùy thuộc vào hoàn cảnh nên có những đặc điểm riêng biệt nhưng
12


cơ bản bảo hiến được xây dựng với những vai trò và mục đích chung. Mô
hình bảo hiến được xây dựng với những mục tiêu cơ bản sau:
- Kiểm soát quyền lực nhà nước, duy trì hiệu quả hoạt động cả bộ máy
nhà nước, hoàn chỉnh chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Bảo hiến nhằm mục đích để bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến
pháp, cũng như hoàn thiện các chế định pháp luật. Hiến pháp như tên gọi
của nó, sẽ bảo vệ những giá trị cốt lõi, những điểm căn bản nhất của quốc
gia cho dù bản Hiến pháp đó tồn tại ở bất kỳ dạng nào: thành văn hay bất
thành văn. Khi tiến hành xây dựng pháp luật, những văn bản pháp luật xây
dựng có thể không hoàn toàn dựa trên cái nhìn khách quan về vấn đề mà
còn mang nhiều tính hạn chế, cá nhân. Việc tồn tại những điểm sai sót,
không thống nhất, mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi trong thực tiễn.
Mô hình bảo hiến được hình thành sẽ bảo vệ xã hội khỏi những văn bản,
những điều luật mâu thuẫn, tạo nên sự thống nhất trong phạm vi của Hiến
pháp và pháp luật. Hiến pháp có thể hạn chế một phần hoặc toàn bộ những
vấn đề có thể phát sinh trong việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật.
Bảo hiến bảo vệ hoàn chỉnh quy trình “Lập hiến - lập pháp”, đưa
quy trình vào trong thực tế và áp dụng. Hệ thống pháp luật sẽ được xây
dựng hoàn chỉnh, đúng trình tự, có sự giám sát chặt chẽ, có sự điều chỉnh
kịp thời khi cần. Hiến pháp điều chỉnh những mối quan hệ xã hội đúng theo
khuôn khổ pháp luật, theo những cốt lõi của Hiến pháp. Hiến pháp hạn chế
quyền lực của cơ quan nhà nước trong phạm vi mà Hiến pháp quy định,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quyền công dân được xây dựng
hoàn thiện trong Hiến pháp được bảo vệ tuyệt đối. Nhân dân thông qua cơ
quan bảo hiến thực hiện quyền giám sát của mình, yêu cầu cơ quan bảo
13


hiến bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước những văn bản vi hiến, hành vi
vi hiến của cơ quan quyền lực nhà nước hay của những cá nhân thẩm quyền.
Bảo hiến là điều kiện tiên quyết để có thể đưa Hiến pháp vào thực
tiễn cuộc sống, bảo đảm giá trị pháp lý của các quy phạm pháp luật, tạo
nên sự thống nhất trong toàn bộ quá trình xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật, khiến cho pháp luật có thể đi sâu vào thực tiễn. Bảo hiến xây
dựng một cơ chế cụ thể không chỉ bảo vệ tính pháp lý của Hiến pháp đồng
thời xây dựng cơ chế để công dân yêu cầu nhà nước xem xét tính hợp hiến
của một điều luật, một đạo luật hay một hành vi bất kỳ vi hiến xảy ra. Đối
tượng bảo vệ Hiến pháp ở hướng tới là những hành vi vi hiến và cả những
văn bản vi hiến.
1.2. Sự hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến điển
hình trên thế giới.
Mô hình bảo hiến trên thế giới có thể phân chia thành các kiểu mô
hình khác nhau. Nếu phân chia theo cách thức giám sát thì có mô hình giám
sát Hiến pháp tập trung và mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung. Cách
thức phân chia theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền cơ quan bảo hiến thông
thường là cách phân chia được sử dụng nhiều nhất thì trên thế giới có bốn
mô hình bảo hiến điển hình được áp dụng như sau:
- Mô hình bảo hiến bằng tòa án Hiến pháp (điển hình tại Áo, Đức).
- Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp (điển hình tại Hoa Kỳ).
- Mô hình bảo hiến bằng hội đồng Hiến pháp (điển hình tại Pháp).
- Mô hình bảo hiến khác.
1.2.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Cộng hòa Pháp
Bối cảnh hình thành của mô hình: Cộng hòa Pháp là một quốc gia
có nền pháp luật dân chủ hàng đầu trên thế giới, mô hình tài phán Hiến
pháp cũng là một trong ba mô hình đặc thù được nhiều quốc gia lựa chọn
áp dụng.
14


Mô hình hội đồng Hiến pháp được hình thành đầu tiên ở cộng hòa
Pháp và dần dần phát triển đến nhiều quốc gia, đa phần là những quốc gia
chịu ảnh hưởng chính trị và pháp lý cũng như văn hóa từ cộng hòa Pháp.
Để có thể xây dựng và áp dụng hiệu quả được mô hình hội đồng Hiến pháp,
nước Pháp cũng đã phải trải qua một quá trình đấu tranh hàng trăm năm, bắt
nguồn từ thế kỷ 18.
Hiến pháp năm 1799 đã chính thức ghi nhận sự xuất hiện của cơ chế
bảo hiến với mục đích chính nhằm tìm sự cân bằng giữa hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Hiến pháp 1799 quy định trao quyền bảo hiến cho một
trong hai viện thuộc nghị viện. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng nhà nước
Cộng hòa Pháp đã bắt đầu thừa nhận bảo hiến rất sớm. Thượng viện có
thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến, có thể tuyên bố hủy bỏ văn bản vi hiến
không có giá trị pháp lý (mô hình có đôi nét gần giống với mô hình bảo
hiến nghị viện của Liên Xô). Tất nhiên với trình tự và lập pháp vừa kiểm
tra thì việc thượng viện kiểm tra tính hợp hiến chắc chắn chỉ mang tính
hình thức. Đến Hiến pháp năm 1892, cộng hòa Pháp vẫn thừa nhận sự tồn
tại của bảo hiến thông qua Thượng viện. Thượng viện vẫn được trao quyền
kiểm tra, tuyên bố hủy bỏ văn bản không có giá trị pháp lý và thêm quyền
đình chỉ văn bản pháp luật đang thi hành. Quyền năng thì tăng lên nhưng
Thượng viện lại không sử dụng quyền năng của mình vào bảo vệ Hiến pháp
nên chỉ dừng lại ở những quy định mang đậm tính hình thức.
Thời kỳ cộng hòa đệ Tam: Hiến pháp 1985 đã không còn thừa nhận
cơ chế bảo vệ Hiến pháp của Thượng viện, quy định về tài phán Hiến pháp
hoàn toàn bị xóa bỏ trong bản Hiến pháp thời kỳ này. Tuy vậy, các học giả
đã bắt đầu tìm hiểu được tầm quan trọng của mô hình bảo hiến đối với sự
phát triển của cộng hòa Pháp. Hiến pháp năm 1946 đã quy định thành lập
một Ủy ban Hiến pháp do tổng thống đứng đầu, nhằm kiểm tra tính hợp
hiến của dự luật cho được thông qua của nghị viện. Đến thời điểm này mô
hình bảo hiến vẫn chỉ mang tính hình thức. Do nhiều nguyên nhân khi quy
15


định Hiến pháp không có giá trị thực tế để kiểm soát những đạo luật dễ gây
lên tình trạng vi hiến - vi phạm nghiêm trọng quyền về con người, gây lên
những ảnh hưởng xấu cho xã hội. Đến năm 1958, những mâu thuẫn bắt đầu
bùng nổ, xã hội Pháp trở nên vô cùng phức tạp, Pháp kiều ở Algieri liên lục
nổi dậy chống lại chính phủ Pháp. Chính phủ Pháp được sự ủng hộ của
nghị viện cũng không thể ổn định được tình hình xã hội. Giữa năm 1958,
chính phủ Pháp tuyên bố từ chức, nghị viện Pháp tìm mọi cách để thành lập
ra chính phủ mới nhưng đều không thành công. Bất ổn chính trị ở nước
Pháp kéo dài suốt từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến thời điểm này khiến
cho lòng tin của nhân dân vào nghị viện và các Đảng phái chính trị hoàn
toàn không còn. Đứng trước hoàn cảnh khó khăn, nghị viện Pháp đã phải
thay đổi thể chế, hoàn thiện lại chế độ chính trị nhằm tìm ra lối thoát cho sự
khủng hoảng. Tháng 9 năm 1958, tướng Đờ Gôn được mời làm thủ tướng
cho một chính phủ mới, sự xuất hiện của anh hùng quốc gia với uy tín rất
cao đã khiến cho sự ủng hộ của nhân dân tăng cao cho chính phủ Pháp.
Hiến pháp năm 1958 [6] do tướng Đờ Gôn khởi xướng được thông qua đã
mở ra một thời kỳ mới cho cộng hòa Pháp đồng thời đầu cho một trong
những mô hình bảo hiến tiêu biểu trên thế giới được hình thành. Bản Hiến
pháp đã thiết lập nên một nền cộng hòa mới gắn liền với tướng Đờ gôn,
Hiến pháp 1958 ra đời đã tiến hành giải quyết hai vấn đề chủ chốt mà suốt
thời gian dài trước sức ép của nghị viện mà không thể tiến hành được
Thứ nhất, Hiến pháp 1958 đã tăng quyền hạn cho tổng thống, hạn
chế được sự tham gia của nghị viện vào mọi hoạt động của chính phủ.
Thứ hai, Hiến pháp 1958 đã quy định thành lập thành công hội đồng
Hiến pháp đúng nghĩa để có thể xem xét hoạt động lập pháp, vốn là hoạt
động quan trọng nhất của nghị viện. Nghị viện có rất nhiều quyền hạn vào
thời gian trước đã bị hạn chế thông qua bản Hiến pháp 1958 mang đậm
chất tổng thống Đờ gôn. Tại sao nước Pháp tại thời điểm đó lại lựa chọn
16


mô hình riêng biệt là hội đồng Hiến pháp chứ không đi theo những mô hình
tòa án Hiến pháp hay tòa án tư pháp đã tồn tại và phát triển trước đó [7].
Trong một khoảng thời gian dài, khoảng hơn hai thế kỷ, các nhà học
giả Pháp đã bắt đầu nghiên cứu để lựa chọn mô hình bảo hiến phù hợp. Sự
nghiên cứu, tích lũy phân tích trong giai đoạn đó đã tạo nên nhận thức pháp
lý khi xây dựng mô hình hội đồng Hiến pháp. Nhận thức pháp lý của nhân
dân Pháp tại thời điểm đó yêu cầu tồn tại mô hình bảo hiến để hạn chế
quyền lực của nghị viện. Mọi tầng lớp xã hội Pháp đều nhận thấy quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm khi để nghị viện quá nhiều quyền
lực, cần thiết phải lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình. Hiến pháp 1958 thể
theo nguyện vọng nhân dân, xây dựng cơ chế đảm bảo sự phân chia quyền
lực giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Cộng hòa Pháp với bản Hiến pháp
1958 đã thể hiện được sự nhìn nhận đúng đắn về tầm quan trọng của mô
hình bảo hiến và mục đích đúng đắn khi xây dựng mô hình bảo hiến.
Mô hình hội đồng Hiến pháp được xây dựng trong Hiến pháp 1958
đã đáp ứng được lợi ích của nhiều thành phần trong xã hội. Hội đồng Hiến
pháp trước hết hạn chế quyền lực nghị viện, phục vụ lợi ích của tổng thống
và chính phủ mới, đồng thời bảo vệ lợi ích chính trị của các tầng lớp trong
xã hội. Mô hình hội đồng Hiến pháp về cơ bản phục vụ phần lớn lợi ích của
số đông nhân dân và lợi ích chính trị của chính phủ mà tướng Đề gôn đã
xây dựng so với nghị viện.
Cộng hòa Pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền pháp luật châu Âu lục
địa, đồng thời là những ảnh hưởng nhất định từ những nền pháp luật tiến bộ
khác như hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Khi đề cập đến việc xây dựng mô
hình bảo hiến, các nhà nghiên cứu khoa học Pháp đều hướng tới mô hình
bảo hiến theo kiểu Anh Mỹ, mô hình bảo hiến bằng tòa án thường với hệ
thống tòa án đã tồn tại ở Pháp. Tuy nhiên, nhận thấy mô hình tòa án không
thể phù hợp với hoàn cảnh xây dựng mô hình bảo hiến ở Pháp bởi vì: hệ
17


thống tòa án của cộng hòa Pháp không đủ khả năng để đảm nhận nhiệm vụ
bảo hiến khi gần như bị phụ thuộc hoàn toàn và nghị viện, tính độc lập của
tư pháp không tồn tại. Đồng thời, với truyền thống pháp lý lâu dài, nước
Pháp đã không cho phép mình rập khuôn mô hình nào khác mà lựa chọn
con đường khó khăn hơn rất nhiều là tự xây dựng cho mình mô hình bảo
hiến đặc thù, riêng biệt và phù hợp với hoàn cảnh quốc gia.
Đặc điểm của mô hình hội đồng Hiến pháp:
Mô hình hội đồng Hiến pháp mang tính đặc thù so với những mô
hình khác trên thế giới.
Thứ nhất, mô hình không chỉ mang bản chất đúng của tài phán Hiến
pháp, mà còn mang đậm yếu tố tổ chức chính trị ở trong đó. Mô hình hội
đồng Hiến pháp vận hành hoạt động theo một cơ chế đặc biệt không công
khai quy trình bảo hiến. Thành viên mô hình cũng không phải toàn bộ là
những nhà nghiên cứu pháp luật mà còn bao gồm những nhân vật được quy
định trong đó có cả những tổng thống đã hết nhiệm kỳ. Hội đồng Hiến pháp
thời gian đầu xây dựng chỉ có nhiệm vụ kiểm tra dự án luật chưa được
thông qua bởi nghị viện. Tuy nhiên, sau một thời gian dài nhận thấy việc
chỉ kiểm tra dự án đã làm mất đi tính thực tế của Hiến pháp. Nhiều vấn đề
pháp luật khi áp dụng và thực tiễn mới có thể phát hiện được sự vi hiến tồn
tại trong quy phạm pháp luật, đến khi sửa đổi Hiến pháp đã quy định đầy
đủ quyền hạn của hội đồng Hiến pháp trong việc thẩm tra những dự án luật
và cả những văn bản pháp luật đã được thông qua bởi nghị viện. Hội đồng
Hiến pháp sau khi thẩm tra được tuyên bố văn bản hay hành vi là vi hiến,
có thể hủy bỏ hoặc sửa đổi những văn bản hay hành vi pháp luật có sự vi
hiến. Khi mới đầu xây dựng, các nhà lập pháp đã không nhất quán ý tưởng,
cho rằng nhiều khả năng những quy định về hội đồng Hiến pháp mang tính
hình thức. Tuy nhiên, khi vận hành mô hình đã hoạt động mang lại sự hiệu
quả, trở thành mô hình tiêu biểu trong các mô hình bảo hiến.
18


Thứ hai, mô hình hội đồng Hiến pháp là mô hình có thể phù hợp với
hoàn cảnh đặc thù và khó có thể áp dụng rộng rãi được. Một thể chế mang
bản chất chính trị phải có những cách thức riêng mới có thể tránh được sự
ảnh hưởng của những cơ quan quyền lực nhà nước khác. Hội đồng Hiến
pháp là mô hình rất khó để áp dụng thành công nếu không thực sự phù hợp
quốc gia lựa chọn mô hình.
Sự phát triển của mô hình hội đồng Hiến pháp trên thế giới:
Mô hình hội đồng Hiến pháp đặc trưng về bảo hiến được hình thành
đầu tiên ở Pháp. Hội đồng Hiến pháp cũng có nhiều điểm tương đồng với mô
hình tòa án Hiến pháp, tuy nhiên hội đồng Hiến pháp được xây dựng theo xu
hướng một cơ quan thuộc hệ thống chính trị chức không thuộc ngành quyền
lực tài phán, một dạng của hệ thống Tư pháp. Hội đồng Hiến pháp đã được
phát triển trong một khoảng thời gian dài và được ghi nhận như một trong ba
mô hình bảo hiến lớn trên thế giới. Tuy nhiên, hội đồng Hiến pháp không
phải là dạng mô hình bảo hiến có thể phổ biến và lan tỏa mạnh mẽ như Tòa
án Hiến pháp hay tòa án bảo hiến kiểu Mỹ. Đây là mô hình chứa đựng
những điểm đặc thù, các quốc gia trên thế giới hiện nay áp dụng mô hình hội
đồng Hiến pháp không quá nhiều. Hầu hết các nước áp dụng mô hình là ở
Châu Phi, Trung Đông và Châu Á, Pháp là quốc gia duy nhất áp dụng mô
hình tại châu Âu.
Mô hình hội đồng bảo hiến mang đặc điểm của cơ quan chính trị trộn
lẫn với cơ chế bảo hiến. Chức năng, thẩm quyền và trình tự thực hiện bảo
hiến của hội đồng Hiến pháp đều không giống cơ chế tài phán thông thường.
Các quốc gia khi lựa chọn mô hình hội đồng Hiến pháp đều phải chấp nhận
những khó khăn nhất định. Những quốc gia lựa chọn hội đồng bảo hiến đa
phần chịu ảnh hưởng nhất định bởi cộng hòa Pháp như các nước Bắc Phi
hoặc tìm ra điểm phù hợp của mô hình hội đồng Hiến pháp. Trên thế giới đã
19


có các quốc gia áp dụng mô hình hội đồng Hiến pháp bao gồm: Pháp,
Tuynidi, Eetiopia, Senegal, Bờ Biển Ngà, Iran, Campuchia, Li băng…
1.2.2. Mô hình bảo hiến bằng tòa án ở Hoa Kỳ
Mô hình bảo hiến Hoa Kỳ là mô hình bảo hiến được áp dụng phổ
biến, hiệu quả trên toàn thế giới. Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp
được đánh giá đã thể hiện được toàn bộ giá trị cần có của cơ chế bảo vệ
Hiến pháp hiệu quả.
Bối cảnh hình thành của mô hình: Hoàn cảnh ra đời của mô hình
bảo hiến kiểu Hoa Kỳ cũng mang đúng bản chất sử dụng án lệ là nguồn
luật của hệ thống pháp luật khi mô hình được xây dựng từ vụ án cụ thể.
Đầu thế kỷ 19, trong cuộc bầu cử tổng thống John Adams và đảng
Federalist của ông thất cử, Thomas Jefferson người của đảng Dân chủ và
Cộng hòa Hoa Kỳ trúng cử Tổng thống. Trước khi rời khỏi ghế tổng thống,
nhằm đảm bảo cho sự quyền lợi của mình sau khi rời vị trí, John Adams đã
bổ nhiệm hàng loạt thành viên của đảng Federalist vào chức vụ thẩm phán
và thẩm phán hòa giải. Khi Jefferson lên làm tổng thống, các quyết định
của John Adams đã được ký và đóng dấu nhưng lại chưa được chuyển đi
hết. Jefferson chỉ đạo cho James Madison, lúc đó là bộ trưởng bộ Ngoại
giao không chuyển quyết định mà Adams đã ký cho những người có tên để
họ không thể nhận chức vụ Thẩm phán.Trong số những người không nhận
được quyết định đó có William Marbury. Khi không nhận được quyết định,
William Marbury đã khởi kiện James Madison yêu cầu giải thích lý do tại
sao các quyết định lại không được chuyển cho mình; đồng thời Marbury
yêu cầu tòa án tối cao quyết định buộc trao quyết định để những người có
liên quan thực thi nhiệm vụ của mình. Chánh án lúc đó là John Marshall
lúc đó, vì những tình huống chính trị, đã rất khó khăn khi giải quyết vụ
việc này. John Marshall đã đưa ra phán quyết cho vụ việc này:

20


Thứ nhất, Madison đã vi phạm pháp luật vì không chuyển giao
quyết định cho những người liên quan.
Thứ hai, Đạo luật thành lập các tòa án tư pháp năm 1789 cho phép
tòa án ban hành mệnh lệnh trên là trái với Hiến pháp. Marshall đã tuyên bố
tòa án tối cao liên bang không có quyền giải quyết vấn đề này, mặc dù mục
13 của Đạo luật Tư pháp liên bang trao cho tòa án thẩm quyền trong lĩnh
vực đó nhưng quy định này trái với điều 3 của Hiến pháp Hoa Kỳ năm
1787. Ông cho rằng Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước và có hiệu lực
pháp lý tối cao. Vì vậy khi một đạo luật thông thường trái với Hiến pháp
thì đạo luật đó phải bị tuyên bố là vô hiệu. Cuối cùng, John Marshall đã
đưa ra phán quyết lịch sử: Hiến pháp là luật tối cao của đất nước, những
luật hay quyết định được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của
Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp. Thẩm phán, người đã từng
tuyên thệ bảo vệ Hiến pháp, phải tuyên bố hủy bỏ những luật, lệ quy định
nào của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp.
Ba phán quyết trên đây đã xác lập chức năng bảo vệ Hiến pháp của
tòa án và quyền tài phán của tòa án về các quyết định của lập pháp và hành
pháp liên quan đến Hiến pháp. Với những tuyên bố trên đây và những
đóng góp lớn lao cho ngành tư pháp, John Marshall được coi là Chánh án
tòa án Tối cao vĩ đại nhất của Hoa Kỳ. Ông đã thực sự khẳng định sức
mạnh của nhánh quyền lực thứ ba trong ba nhánh quyền lực nhà nước. Với
phán quyết trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới, tòa án có
quyền xem xét tính hợp hiến của một đạo luật đến từ hành pháp, đây được
coi là lần xuất hiện chính thức đầu tiên của chế định bảo vệ Hiến pháp. Vụ
việc này cũng dẫn những đặc trưng trong mô hình bảo hiến kiểu Mỹ sau
này. Đó là việc chứng minh một đạo luật vi hiến luôn luôn là trách nhiệm
của bên nguyên, và chỉ những người có quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi
đạo luật hay hành vi mới được quyền khởi kiện xem xét tính vi hiến .

×