Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CHUYÊN ĐỀ VỀ TÌNH HÌNH NHIỄM HIV/AIDS Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 41 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay HIV/AIDS đã có mặt khắp mọi nơi và đang là một mối đe dọa đối với
tất cả các nước trên thế giới. Nó không chừa bất cứ quốc gia, khu vực, tổ chức, cá
nhân nào và cũng chưa có một loại thuốc nào đặc trị để ngăn ngừa căn bệnh thế kỉ
này.
Từ khi tìm thấy ca bệnh đầu tiên vào năm 1981 tại Mỹ, gần 70 triệu người đã bị
nhiễm virus HIV và khoảng 35 triệu người đã chết vì AIDS. Trên toàn cầu, 34 triệu
người đang sống với HIV vào cuối năm 2011. Ước tính có khoảng 0,8% người
trưởng thành trong độ tuổi 15- 49 năm trên toàn thế giới đang sống chung với HIV,
mặc dù gánh nặng của dịch bệnh vẫn tiếp tục thay đổi đáng kể giữa các quốc gia và
khu vực.
Ở khu vực Châu Á,cho đến khoảng đầu thập niên 1980 vẫn chưa có ảnh hưởng
đáng kể của HIV/AIDS trong khi các nước khác đã bắt đầu đối phó với nó. Chỉ một
số trường hợp được ghi nhận ở Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Phillipines …Tuy
nhiên vào đầu những năm 1990 dịch bệnh đã lan rộng ra một số nước khu vực
Châu Á và hiện nay có trên nhiều nước. Hiện nay có đến 4,9 triệu người sống với
virus HIV ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2012. Trong đó, các nước
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương như Campuchia, Trung quốc, Ấn Độ và
Thái Lan là bốn trong số 12 quốc gia có tỉ lệ người bị nhiễm HIV/AIDS cao nhất
thế giới (UNAIDS).
Việt Nam cũng không ngoại lệ và cũng phải chịu sự ảnh hưởng của HIV/AIDS.
Vào tháng 12 năm 1990 trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện ở Việt
Nam. Tính đến hết 31/5/2013, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 213.413
trường hợp, số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 63.373 và 65.133 trường hợp tử
Sức khỏe tình dục
1
vong do AIDS. Tỷ lệ nhiễm HIV toàn quốc theo số báo cáo là 243/100.000 dân.
Toàn quốc đã phát hiện người nhiễm HIV tại 78% xã/phường, gần 98% quận/huyện
và tất cả các tỉnh thành phố có người nhiễm HIV/AIDS. Trường hợp nhiễm HIV
phát hiện trong 5 tháng đầu năm 2013 ở nam giới chiếm 66,3%, ở nữ giới chiếm
33,7% và tỉ lệ trường hợp nhiễm HIV ở nữ giới có xu hướng tăng.


Từ thực trạng đó, chúng tôi quyết định tiến hành đề tài “ HIV/AIDS và một số
yếu tố liên quan” với các mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng nhiễm HIV/AIDS hiện nay
2. Mô tả các yếu tố liên quan đến HIV/AIDS và đưa ra một số giải pháp
can thiệp nhằm góp phần làm giảm tỉ lệ nhiêm HIV/AIDS ở nước ta
hiện nay
Sức khỏe tình dục
2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
I. Định nghĩa HIV/AIDS
1. HIV
Là chữ viết tắt của tiếng Anh “ Human Immuno deficiency Virus” có nghĩa
là virus gây suy giảm miễn dịch ở người. HIV tấn công và tiêu diệt dần các tế bào
miễn dịch, làm suy giảm miễn dịch của cơ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhiễm trùng cơ hội, các rối loạn tâm thần kinh và ung thư phát triển dẫn đến tử
vong.
2. AIDS
Là chữ viết tắt bằng tiếng Anh “Acquired Immuno deficiency Syndrome” có
nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người do nhiễm HIV, AIDS là
giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV, hệ thống miễn dịch bị tổn thương, cơ thể
không tự bảo vệ trước các nhiễm trùng cơ hội hoặc các biến đổi tế bào mà một
người bình thường có thể chống đỡ được.
II. Thực trạng HIV/AIDS
1. Thực trạng nhiễm HIV/AIDS trên thế giới
Nhiễm HIV ở người được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xem như là đại dịch.
Theo báo cáo, các nỗ lực mạnh mẽ trên toàn cầu trong cuộc chiến chống lại căn
bệnh thế kỷ đạt kết quả khả quan, số người bị chết vì AIDS trên thế giới giảm liên
tiếp trong hai năm (2006 - 2007), sau hơn hai thập niên gia tăng. Khoảng hai triệu
người trên thế giới đã chết vì AIDS trong năm 2007, giảm so với mức 2,1 triệu người
năm 2006. Tuy nhiên UNAIDS khẳng định còn nhiều việc cần phải làm để đối phó

với dịch AIDS. Trong số 33 triệu người sống chung với AIDS năm 2007, có 2,7 triệu
ca nhiễm mới, trong khi số ca nhiễm mới HIV giảm ở một số nước như
Campuchia, Myanmar và Thái Lan thì nó lại tăng lên ở nhiều nước như Trung
Quốc, Indonosia, Kenya, Mozambique, Papua New Guinea, Nga, Ukraine Thậm
Sức khỏe tình dục
3
chí tại một số nước giàu như Đức, Anh Số ca nhiễm mới HIV cũng tăng năm 2007.
Những khu vực có nhiều người sống chung với HIV/AIDS nhất vẫn là khu vực miền
nam châu Phi, chiếm hai phần ba số trường hợp nhiễm HIV/AIDS toàn cầu (tương
đương 22 triệu ca), tiếp đó là khu vực Nam và Đông - Nam Á (4,2 triệu ca), Mỹ la
tinh 1,7 triệu ca Báo cáo cho biết tại châu Á, gần một nửa số bị nhiễm HIV ở Trung
Quốc năm 2006 được cho là do sử dụng các dụng cụ tiêm chích bị nhiễm HIV. Việc
sử dụng chung kim tiêm có HIV và quan hệ tình dục không an toàn cũng là nguyên
nhân chủ yếu làm lây lan đại dịch này tại Việt Nam và Malaysia, nơi hai phần ba các
trường hợp nhiễm HIV.
Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc bệnh AIDS, giảm so với mức
đỉnh là 2,1 triệu người trong năm 2004, khoảng 260.000 trẻ em chết vì AIDS.
Ước tính có khoảng 34 triệu người đang sống với HIV trên toàn cầu vào cuối
năm 2010 bao gồm 3,4 triệu trẻ em dưới 15 tuổi (WHO, 2011). Có 2,7 triệu người
mới nhiễm HIV trong năm 2010, trong đó có 390 000 trẻ em dưới 15tuổi . Trên
toàn cầu, số lượng hàng năm của người mới nhiễm HIV tiếp tục giảm, mặc dù có
sự thay đổi rõ rệt trong khu vực. Ở vùng cận Sahara châu Phi, nơi mà hầu hết
những người mới nhiễm HIV sống , ước tính có 1,9 triệu người bị nhiễm trùng
trong năm 2010. Đây là ít hơn 16 % so với ước tính 2,2 triệu người mới nhiễm
HIV trong năm 2001 và ít hơn số hàng năm của người nhiễm HIV mới từ năm
1996 đến năm 1998, khi tỷ lệ nhiễm HIV ở vùng cận Sahara châu Phi đạt đỉnh
điểm tổng thể 27%.
Trong năm 2011, nhân loại vẫn ghi nhận thêm 2,5 triệu người mới nhiễm
HIV và 1,7 triệu người tử vong do các bệnh liên quan đến AIDS. Tỷ lệ hiện nhiễm
HIV/AIDS trên thế giới đến cuối năm 2011 vào khoảng 0,8% số người lớn (từ 15-

49 tuổi). Khu vực cận Sahara của châu Phi vẫn là nơi bị HIV/AIDS tấn công nặng
nề nhất, gần như cứ trong 20 người lớn (độ tuổi từ 15-49) trong khu vực này lại có
01 người nhiễm HIV/AIDS đang còn sống (4,9%). Hiện khu vực này chiếm 69%
Sức khỏe tình dục
4
tổng số người nhiễm HIV/AIDS còn sống của thế giới. Mặc dù tỷ lệ hiện nhiễm
HIV/AIDS ở khu vực cận Sahara châu Phi cao gấp 25 lần so với tỷ lệ này ở châu
Á, nhưng tổng số người nhiễm HIV đang sống ở châu Á (bao gồm Nam Á, Đông
Nam Á và Đông Á) lên tới con số 5 triệu. Sau Cận Sahara của châu Phi (nơi bị
ảnh hưởng nặng nề nhất) là vùng Caribê, Đông Âu và Trung Á - những khu vực
đang có khoảng 1,0% số người lớn đang mang trong mình HIV.
Nhìn chung, Châu Á đã có nhiều chương trình hành động phòng chống
HIV/AIDS trên quy mô lớn rất thành công. Với sự cam kết hỗ trợ của chính quyền,
các chiến dịch phòng chống HIV/AIDS ở Thái Lan, Campuachia phát huy hiệu quả
làm giảm đáng kể mức độ lây nhiễm HIV. Mục tiêu của các chương trình này
thường nhằm vào việc thay đổi nhận thức và hành vi của đối tượng mại dâm và
những khách hàng của họ. Ở Tamil, Nada, Ấn Độ, các sáng kiến phòng chống HIV
đã có những tác động nhất định. Đó là những chiến dịch truyền thông giảm nguy cơ
lây nhiễm HIV bằng cách sử dụng bao cao su, đồng thời cung cấp thuốc và điều trị
miễn phí các bệnh lây qua đường tình dục các nhóm đối tượng có nhu cầu. Những
thành công trên đã chứng minh hoàn toàn có thể can thiệp để làm giảm thiểu tình
hình dịch AIDS ở Châu Á. Tuy nhiên cũng cần phải có nhiều hành động hơn nữa
trong bối cảnh tỷ lệ nhiễm HIV nơi này ngày càng tăng. Những nhóm nguy cơ cao
như mại dâm, nghiện chích ma túy, đồng tính nam vẫn còn bị bỏ quên trong nhiều
chương trình can thiệp. Cụ thể, người nghiện chích ma túy là đường lây truyền
HIV/AIDS phổ biến nhất ở châu Á, nhưng chỉ có khoảng một trong mười người
nghiện chích ma túy tiếp cận với các chương trình dự phòng.
Bảng 1: Số người sống chung với HIV ở khu vực Tây Thái Bình Dương,
từ năm 2001 đến năm 2010
`

2001 2007 2008 2009 2010
Sức khỏe tình dục
5
Living with
HIV (all ages)
680 000 1 300 000 1 400 000 1 300 000 1 300 000
Range
[560 000 –
830 000]
[1 100 000 –
1 600 000]
[1 100 000 –
1 500 000]
- Women
210 000 340 000 410 000 380 000
- Children
14 000 21 000 31 000 24 000 39 000
HIV prevalence
in aduts
0.1% 0.1% 0.1% 0.1% 0.1%
HIV prev.young
women
< 0.1%
HIV prev.young
men
< 0.1%
New infections
(all ages)
150 000 145 500 130 000 130 000 130 000
- Children

4 200 4 500 57 000 5 000
Adult incidence
< 0.1% < 0.1%
AIDS-related
deaths (all ages)
33 000 60 000 90 000 61 000 80 00
- Children
2 100 3 000 2 500 3 700
Nguồn: UNAIDS / WHO, cập nhật dịch AIDS, 2001-2011
Do sự kì thị của những người xung quanh đối với các nhóm đối tượng có nguy
cơ lây nhiễm HIV cao nên độ bao phủ của các dịch vụ tư vấn và xét nghiệm tình
nguyện ở Đông Nam Á rất thấp. Ước tính, chỉ có khoảng 0.1% dân số ở đây được
tư vấn và xét nghiệm trong năm 2005. Điển hình như ở Ấn Độ, nước này đã xây
dựng và phát triển được khoảng 3600 trung tâm xét nghiệm cho người dân. Tuy
nhiên, nhìn chung Châu Á vẫn còn có nhu cầu cao về tính sẵn có của các dịch vụ tư
vấn và xét nghiệm tự nguyện dành cho những nhóm có nguy cơ nhiễm HIV cao.
Sức khỏe tình dục
6
2.Thực trạng nhiễm HIV tại Việt Nam
Dịch HIV/AIDS tại Việt Nam hiện vẫn chủ yếu tập trung trong các nhóm
nguy cơ cao, với tỷ lệ hiện nhiễm cao trong các nhóm tiêm chích ma túy, phụ nữ
bán dâm, khách mua dâm, và nam quan hệ tình dục đồng giới. Mối liên hệ qua lại
giữa các nhóm nguy cơ cao này là việc dùng chung dụng cụ tiêm chích và tình dục
không an toàn, nhất là trong đối tượng nam thanh niên. Đây sẽ tiếp tục là nguyên
nhân làm gia tăng của dịch HIV tại Việt Nam.
Tỉ lệ hiện nhiễm HIV trong dân cư nói chung, tính đến ngày 31-08-2007, số
lũy tích được báo cáo là 132.628 các trường hợp nhiễm HIV, 26.828 trường hợp đã
chuyển thành bệnh nhân AIDS và 15.007 ca tử vong do AIDS. Tất cả 64 tỉnh, thành
phố trên toàn quốc, 96% trong số tổng số 659 quận/huyện và hơn 66% trong tổng
số 10.732 xã/phường đã có báo về các trường hợp nhiễm HIV. Trong số các ca

nhiễm HIV được báo cáo có 78.9% ở độ tuổi từ 20 - 39. Nam giới chiếm 85,2%
trong tổng số các trường hợp nhiễm HIV được phát hiện. Số người trẻ nhiễm HIV
ngày càng gia tăng và sự lây truyền qua đường tình dục khác giới bắt đầu xuất hiện
nhiều hơn.
Nhìn vào sự gia tăng đáng kể của dịch HIV/AIDS, ta nhận thấy có sự khác biệt
lớn về thời gian xuất hiện dịch HIV tại các địa phương của Việt Nam. Dịch HIV
xuất hiện đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi thuộc vùng biển Đông
Bắc, trong khi các vùng miền khác của đất nước, dịch mới xuất hiện gần đây. Sự
khác biệt này đã đưa đến thực tế là các ca nhiễm HIV tập trung theo vùng địa lý, tại
một số tỉnh và các thành phố lớn, nơi có dịch chủ yếu xảy ra trong các nhóm tiêm
chích ma túy, phụ nữ mại dâm và nam tình dục đồng giới.
Báo cáo số tích lũy các trường hợp HIV/AIDS và tử vong ở Việt Nam, theo
năm
Sức khỏe tình dục
7
Nguồn: Bộ y tế
Tính đến 30/11/2012, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 208.866 trường
hợp, số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 59.839 và 62.184 trường hợp tử vong do
AIDS. Riêng 11 tháng đầu năm 2013, cả nước phát hiện 11.102 trường hợp nhiễm
HIV, 3.716 bệnh nhân AIDS và 961 người tử vong do AIDS. So với cùng kỳ năm
2011, số trường hợp nhiễm HIV phát hiện và báo cáo giảm 22%, số người tử vong
giảm gần 3 lần, tuy nhiên số liệu tử vong từ tuyến xã, phường thống kê chậm nên
con số tử vong vẫn còn chưa thống kê đầy đủ. Về địa bàn dịch HIV/AIDS ghi nhận
tăng lên 79.1% số xã/phường/thị trấn báo cáo có người nhiễm HIV ở 98%
quận/huyện trong cả nước. Về hình thái dịch HIV tiếp tục ghi nhận có sự thay đổi,
trong số người nhiễm HIV báo cáo năm 2012 có 31,5% người nhiễm là nữ giới, cao
hơn 0,5% so với năm 2011. Đường lây truyền HIV lần đầu tiên báo cáo ghi nhận số
Sức khỏe tình dục
8
người nhiễm HIV bị lây nhiễm qua quan hệ tình dục cao hơn lây truyền qua tiêm

chích ma túy. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy theo dõi qua giám
sát trọng điểm tiếp tục giảm, tỷ lệ này năm 2012 là 11,% so với 13,4% năm 2011,
tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm năm 2012 là 2,7% so với 2,9% năm
2011, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM 2,3% so với 5% năm 2011 (tỷ lệ nhiễm
HIV trong nhóm MSM chưa phản ánh đầy đủ nhiễm HIV trong nhóm này chung
cho cả nước do cỡ mẫu nhỏ).
Bảng 2: Tình hình nhiễm HIV ở các vùng kinh tế năm 2010
Đơn vị hành chính HIV Tỉ suất nhiễm
HIV/10000 dân
AIDS Tử vong
Miền Đông nam
bộ
52.893 323 16.562 10.461
Miền núi phía bắc 30.944 253 4652 10.113
Đồng bằng bắc bộ 36.378 197 6318 9.510
Đồng bằng sông
Cửu Long
22.987 134 4237 9.068
Bắc Trung Bộ 8.494 84 1.695 2.548
Tây Nguyên 1.794 46 200 421
Duyên hải Miền 3.312 44 727 1.929
Sức khỏe tình dục
9
Trung
Toàn quốc 156.802 183 34.391 44.050
Nguồn: Bộ Y tế năm 2010
Dịch HIV/AIDS tại Việt Nam hiện vẫn chủ yếu tập trung trong các nhóm nguy
cơ cao, với tỷ lệ hiện nhiễm cao trong các nhóm tiêm chích ma túy, phụ nữ bán
dâm, khách mua dâm, và MSM. Mối liên hệ qua lại giữa các nhóm nguy cơ cao này
là việc dùng chung dụng cụ tiêm chích và tình dục không an toàn, nhất là trong đối

tượng nam thanh niên. Đây sẽ tiếp tục là nguyên nhân làm gia tăng của dịch HIV
tại Việt Nam.
Số trường hợp HIV ở một số tỉnh
Sức khỏe tình dục
10
Vấn đề tâm lí của những người nhiễm HIV/AIDS cũng là một vấn đề cấp thiết
trong việc giúp đỡ cũng như tìm cách chữa trị cho họ. Mặc dù có
rất nhiều nghiên cứu về HIV/AIDS nhưng những nghiên cứu về khía cạnh
tâm lý thì không nhiều.
Nghiên cứu của Ilonka Brugerman và Barbara Franklin với tiêu đề “ Tình yêu và
nguy cơ nhiễm AIDS của phụ nữ Việt Nam ”, nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội cho
thấy rằng trong suy ngĩ của những người phụ nữ Việt Nam thì hình ảnh về những
người bị AIDS vẫn còn rất nặng nề, nhiều người cho rằng những người bị
AIDS là những người có lối sống không lành mạnh. Họ cho rằng nói đến AIDS là
nói đến chết chóc, sợ hãi và ô nhục, họ thường bị những người xung quanh ghẻ
lạnh và xua đuổi. Đề tài của Brugerman và Franklin tìm hiểu về nhận thức, thái độ
và hành vi của những người phụ nữ Việt Nam về những người bị AIDS.
Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ nghiên cứu phần lớn về nhận thức của phụ nữ Việt
Nam về AIDS.
Tác giả Grant Bredit với bài viết : “Sự đau khổ trước mắt ” đã cho thấy
những người bị HIV/AIDS gặp nhiều khó khăn liên quan đến mối quan hệ với gia
đình, bạn bè và những người xung quanh đồng thời khó khăn trong quá trình thuyết
phục bản thân để đi đến chấp nhận thực tế. Nếu họ không thể tự mình đi đến chấp
nhận họ phải cần những chuyên gia để giúp đỡ họ.
Với tác giả Peter De Ruyter trong bài viết : “Sự sợ hãi có thể giết người” cho
rằng nơi những người bị HIV/AIDS, nỗi sợ hãi về virut HIV còn nguy hiểm hơn cả
chính con virut đấy. Nỗi ám ảnh sợ hãi và cảm xúc sợ hãi đã ngự trị con người họ
khiến họ đau khổ nhiều hơn là nỗi đau thể xác do virut HIV gây a. Ngoài ra tác giả
còn cho rằng, chính sự căng thẳng và sự kiểm soát sự căng thẳng càng khiến họ
cảm thấy mệt mỏi và đau khổ hơn.

Trong bài viết: “sự phân biệt đối xử ” của tác giả Paula Kelly dã cho thấy sự
phân biệt đối xử với những người bị HIV/AIDS hầu như nơi nào trên thế giới
cũng có, chỉ là khác nhau ở mức độ. Như vậy phải làm thể nào để giảm bớt sự phân
Sức khỏe tình dục
11
biệt đối xử đấy, đem yêu thương và lòng nhân đạo đến với những người bị
HIV/AIDS để tất cả họ đều cảm nhận được sự thương yêu và giảm đi những nỗi
đau khổ về thể xác và tinh thần mà căn bệnh mang đến.
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong bài viết : “HIV/AIDS, Test hay không Test”
đã viết rằng : “Một kết quả dương tính với HIV đồng nghĩa với cái chết vì cho đến
bây giờ bệnh chưa có thuốc ngừa và chưa có thuốc đặc trị. Người nhận kết quả
dương tính với HIV sẽ thấy như sụp đổ dưới chân mình, một cú sốc tâm lý rất lớn.
Sau đó một loạt khủng hoảng lây truyền từ tuyệt vọng, rồi chối bỏ, rồi sợ hãi,tức
giận, mặc cảm, tự cô lập, đôi khi muốn tự tử hoặc làm những việc không hay khác
cho xã hội.” Những bài viết trên cũng đã khai thác phần nào về những khó
khăn của những người bị nhiễm HIV/AIDS. Những nét tâm lý và nỗi đau khổ của
họ, tuy nhiên ở tất cả bài viết mới chỉ mang tính bài viết cá nhân, chưa có một
nghiên cứu tỉ mỉ và điều tra cụ thể nào cả.
Nhiều sinh viên khoa tâm lý trường đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn đã
có những nghiên cứu về những người bị nhiễm HIV/AIDS đã góp phần
giúp mọi người hiểu rõ hơn về những nét tâm lý của bệnh nhân HIV/AIDS. Như
nghiên cứu: “Bước đầu tìm hiểu nhu cầu giao tiếp của người nhiễm
HIV/AIDS tại phường Ngọc Lâm, quận Long Biên, Hà Nội.” Tác giả Lùng
Bích Ngọc (khóa luận tốt nghiệp 2004) đã cho thấy nhu cầu giao tiếp của
người nhiễm HIV/AIDS ở khu vực này thấp và ở mức trung bình. Phần lớn những
người nhiễm HIV có nhu cầu giao tiếp với những người thân và bạn bè hơn những
người ngoài. Về thái độ giao tiếp, họ mong muốn được những người xung quanh
thương yêu và chia sẻ về mặt tinh thần hơn là về mặt vật chất. Nghiên cứu này
cũng cho rằng nhu cầu của những người HIV còn phụ thuộc vào “cái tôi
cảm xúc” của cá nhân họ. Ngoài ra nhu cầu giao tiếp của những người này

không chỉ do “cái tôi cảm xúc” của họ mà còn do những yếu tố từ bên ngoài chi
phối như thái độ của những người xung quanh, thái độ của bạn bè, người thân.
Như vậy gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức
Sức khỏe tình dục
12
khỏe tinh thần cho những bệnh nhân HIV. Trong nghiên cứu này cũng cho
thấy do yếu tố kì thị của những người xung quanh khiến cho những người nhiễm
HIV ngại tiếp xúc với những người xung quanh hơn, cản trở giao tiếp của họ.
Trong nghiên cứu “Nhận thức của học sinh trường phổ thông trung học
Tây Thụy Anh – Thái Thụy – Thái Bình về vấn đề HIV/AIDS” của tác giả Đặng
Thị Nga (khóa luận tốt nghiệp 2004). Tác giả này cho thấy phần lớn học sinh ở
địa bàn trên đã có những hiểu biết về những người nhiễm HIV/AIDS nhưng nhận
thức chưa đầy đủ và còn có sự sai lệch trong hành vi ứng xử đối với những người
bị nhiễm HIV/AIDS.
Với nghiên cứu: “Tính tích cực của người có HIV/AIDS trong công tác phòng
chống HIV/AIDS” nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Chính
(khóa luận tốt nghiệp năm 2006) cũng đã khặng định rằng những người bị
nhiễm HIV/AIDS có nhận thức tốt về công tác phòng chống HIV/AIDS thể hiện
qua việc đánh giá và lý giải sự hợp lý và cần thiết tham gia công tác phòng
chống HIV/AIDS của bản thân mình.Việc tham gia công tác phòng chống
HIV/AIDS sẽ giúp họ bớt đi những cảm xúc âm tính, giúp họ hòa nhập với cộng
đồng và xã hội hơn. Về mặt hoạt động, họ đã có những hoạt động trong công
tác phòng chống HIV/AIDS đáng khen ngợi, hầu hết họ đã tham gia các hoạt động
tự chăm sóc rất thường xuyên. Bên cạnh đó còn có những người nhiễm
HIV/AIDS do ma túy, ý thức tự giác chưa cao, những hoạt động này còn
mang tính chất ép buộc. Nghiên cứu này cũng cho rằng : gia đình, bạn bè cùng
cảnh ngộ, sức khỏe và sự kì thị các cấp độ cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến tính
tích cực của họ.
Sức khỏe tình dục
13

SƠ LƯỢC VẤN ĐỀ TRÌNH BÀY
I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ HIV
1. Nguồn gốc- Phân loại
HIV (Human Immunodeficiency Virus) là virus thuộc chi Lentivirus, họ
Ritrovirus. Các Lentivirus có nhiều đặc tính hình thái và đặc tính sinh học giống
nhau. Lentivirus có thể truyền bệnh cho nhiều loài, với đặc trưng là thời gian nhiễm
và ủ bệnh rất dài.
Dòng di truyền của nó là dòng di truyền ngược chiều từ RNA sang DNA chứ
không phải thuận chiều DNA sang RNA. Lentivirus truyền đi dưới dạng virus
mang RNA chuỗi đơn dương (single-stranded, positive-sense) có màng bao bên
ngoài. Khi xâm nhập vào tế bào đích, bộ gen trong RNA của virus được chuyển đổi
(phiên mã ngược) thành DNA mạch kép bởi enzym phiên mã ngược đã được vận
chuyển cùng với bộ gen của virus trong các hạt virus. DNA của virus được tạo ra
sau đó được đưa vào nhân tế bào và tích hợp vào DNA của tế bào nhờ enzym
integrase của virus và các cofactor của tế bào chủ. Sau khi tích hợp, virus trở thành
Sức khỏe tình dục
14
tiềm ẩn, cho phép virus và tế bào chủ của nó có thể tránh bị hệ thống miễn dịch
phát hiện. Ngoài ra, virus này có thể được sao chép, sản sinh bộ gen RNA và
protein của virus, sau đó đóng gói và phát tán từ tế bào dưới dạng các hạt virus mới
và bắt đầu vòng tái tạo tiếp tục.
Bảng 3: So sánh HIV - 1 và HIV - 2
Loài Độc lực Khả năng lây
truyền
Mức độ lây
lan
Nguồn gốc
(suy đoán)
HIV-1 Cao Cao Toàn cầu Tinh tinh thông
thường

HIV-2 Thấp hơn Thấp Tây Phi Khỉ Sooty gabey
HIV có nguồn gốc từ các động vật linh trưởng và lây sang người những năm
đầu của thế kỉ 20. HIV-1 và HIV-2 gây bệnh cho người đều cho là có nguồn gốc từ
Tây-Trung Phi và từ một bệnh cho động vật của loài linh trưởng truyền sang cho
người mà lý giải có thể là qua các thợ săn thú.
Sức khỏe tình dục
15
Vào cuối năm 1983, GS Luc Montagnier và tại viện Pasteur Paris phát hiện
ra virus gây bệnh và đặt tên là LAV- lymphadenopathy associated virus (virus có
liên quan đến bệnh hạch lymphô). Gần nửa năm sau ,Gs Robert Gallo và nhóm
nghiên cứu tại NIH cũng phát hiện 1 virus như thế và đặt tên là HTLV III -
Human T-cell lymphotropic virus (virus ưa tế bào lymphô T của người) và tự
cho mình là người đã phát hiện ra virus gây suy giảm miễn dịch ở người
(HIV). Việc này đã dấy lên 1 cuộc tranh cãi gay gắt giữa 2 nhóm nghiên
cứu. Đến tháng 3/1987 , cuộc tranh cãi này mới chấm dứt khi Tổng thống Mỹ
Ronald Reagan và Tổng thống Pháp đứng ra dàn xếp , tuyên bố Luc Montagnier
và Robert Gallo là đồng tác giả phát hiện ra HIV .
2. Đặc điểm cấu trúc
HIV có cấu trúc không giống với các retrovirus khác. Nó có hình cầu với
đường kính khoảng 120nm, nhỏ hơn khoảng 60 lần so với một tế bào hồng cầu,
nhưng đối với các virus khác thì nó khá lớn. HIV chứa 2 bản sao của ARN chuỗi
đơn dương mã hóa 9 gen của virus được bao bọc bởi 1 lớp vỏ (capsid) hình nón bao
gồm 2.000 bản sao của các protein p24. Các RNA sợi đơn được gắn kết với những
protein nucleocapsid p7 (phức hợp bao gồm acid nucleic và vỏ capsid) và những
enzyme cần thiết cho sự phát triển của virus như enzyme phiên mã ngược, enzyme
protease, ribonuclease và integrase. Chất gian bào gồm những protein p17 của virus
bao quanh lớp vỏ capsid để bảo vệ các hạt virus (virion).
Sức khỏe tình dục
16


Hình 1: Cấu trúc của vius HIV
3. Chu kỳ sinh trưởng của HIV
Gồm 5 giai đoạn
Giai đoạn 1: Gắn kết hòa màng - xâm nhập vào trong tế bào.(1, 2)
Giai đoạn 2: Sao chép ngược từ ARN –vius thành AND-HIV-virus.(3)
Giai đoạn 3: Tích hợp vào AND trong NST để thành AND- Tiền virus.(4)
Giai đoạn 4: Phiên mã tạo ra ARN- truyền tin tạo ra khuôn để tạo ra sợi dài của
ARN- HIV. (5)
Sức khỏe tình dục
17
Giai đoạn 5: Lắp ráp và trồi ra.(6,7)

Hình 2: Các giai đoạn phát triển của virus HIV
4. Các giai đoạn tiến triển của HIV/AIDS
Gồm: Hội chứng, suy giảm miễn dịch, mắc phải
Hội chứng: nhóm các biểu hiện (triệu chứng) như: sốt, tiêu chảy, sụt cân, nổi
hạch do một căn bệnh nào đó gây ra.
Suy giảm miễn dịch: Hệ miễn dịch là hệ thống phòng ngự bảo vệ cơ thể chống
lại các mầm bệnh từ ngoài xâm nhập vào cơ thể, suy giảm miễn dịch là tình trạng
Sức khỏe tình dục
18
hệ miễn dịch trở nên yếu, giảm hoặc không có khả năng chống lại sự tấn công của
các tác nhân gây bệnh.
Mắc phải: Không do di truyền mà do bị lây nhiễm trong cuộc sống.
AIDS được coi là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV.
Ở Châu Phi, tuổi thọ đã giảm trong các thập kỉ vừa qua chỉ vì tử vong do
AIDS và ung thư Kaposi, một khối u xuất hiện ở bệnh nhân AIDS, hiện nay là khối
u phổ biến nhất được báo cáo ở các nước hạ Sahara.
HIV/AIDS có thể phân thành 3 giai đoạn tiến triển chính:
4.1 Giai đoạn cấp tính

Nhiễm HIV thường xảy ra bằng cách đưa các chất dịch cơ thể từ người bị
nhiễm bệnh vào cơ thể của một người không bị nhiễm bệnh. Giai đoạn virus nhân
lên một cách nhanh chóng xảy ra ngay sau đó, dẫn đến có nhiều virus trong máu
ngoại biên. Ở giai đoạn này, mức HIV có thể lên đến vài triệu hạt virus trong mỗi
ml máu.
Phản ứng này đi kèm với việc lưu lượng tế bào T-CD4+ bị giảm đáng kể.
Trong tất cả các bệnh nhân, mức virus này thực tế là do sự hoạt hóa của các tế bào
T-CD8+ đã giết chết những tế bào bị nhiễm HIV, sau đó sản sinh các kháng thể
hoặc biến đổi huyết thanh. Phản ứng của tế bào T-CD8+ được cho là quan trọng
trong việc kiểm soát mức virus từ mức cao trở thành suy giảm dần, và phục hồi số
lượng tế bào T-CD4+. Phản ứng của tế bào T-CD8+ tốt sẽ làm tiến triển bệnh chậm
hơn và việc dự đoán bệnh tốt hơn, mặc dù nó không thể loại trừ được virus.
Trong thời gian này (thường là 2-4 tuần sau khi phơi nhiễm), hầu hết các
bệnh nhân (80-90%) sẽ mắc bệnh cúm hoặc bệnh gần giống như bệnh bạch cầu đơn
nhân, gọi chung là nhiễm HIV cấp tính, có thể với các triệu chứng phổ biến bao
Sức khỏe tình dục
19
gồm sốt, nổi hạch, viêm họng, phát ban, đau cơ, khó chịu, lở miệng và thực quản,
và ít phổ biến hơn còn có các triệu chứng như nhức đầu, buồn nôn và nôn, sưng
gan/lá lách, giảm cân, bệnh tưa miệng, và các triệu chứng thần kinh. Từng cá thể bị
nhiễm bệnh có thể có một hoặc vài triệu chứng này, cũng có trường hợp không xuất
hiện bất cứ triệu chứng nào. Thời gian của các triệu chứng là khác nhau, trung bình
kéo dài 28 ngày và ngắn nhất thường là một tuần.
Do tính chất không rõ ràng của những triệu chứng này, cho nên bệnh nhân
thường không nhận ra các dấu hiệu của nhiễm HIV. Ngay cả khi bệnh nhân đến bác
sĩ hay bệnh viện, họ thường sẽ được chẩn đoán nhầm là bị một trong các bệnh
nhiễm khuẩn thông thường với các triệu chứng tương tự. Hệ quả là, những triệu
chứng tiên phát này không được sử dụng để chẩn đoán nhiễm HIV, vì không phải
tất cả các trường hợp nhiễm HIV đều xuất hiện những triệu chứng này và phần lớn
lại giống triệu chứng của các bệnh thông thường khác. Tuy nhiên, nhận biết hội

chứng có thể quan trọng, bởi vì bệnh nhân có thể dễ lây bệnh cho nhiều người trong
giai đoạn này.
4.2 Giai đoạn mãn tính
Sự bảo vệ mạnh mẽ của hệ miễn dịch sẽ làm giảm số lượng của các hạt virus
trong máu, chuyển sang giai đoạn nhiễm HIV mạn tính. Giai đoạn này có thể kéo
dài từ 2 tuần cho đến 20 năm tùy theo từng trường hợp. Trong suốt giai đoạn mãn
tính, HIV hoạt động trong các hạch bạch huyết, làm cho các hạch này thường bị
sưng do phản ứng với một số lượng lớn virus bị kẹt trong mạng lưới các tế bào tua
hình nang (FDC). Các mô giàu tế bào CD4+ xung quanh cũng có thể bị nhiễm
bệnh, các hạt virus tích tụ cả trong các tế bào bị nhiễm và ở dạng virus tự do. Trong
giai đoạn này bệnh nhân vẫn có khả năng lây bệnh, tế bào T CD4+ CD45RO+
mang theo tải lượng virus nhiều nhất, và việc bắt đầu sớm điều trị kháng retrovirus
sẽ cải thiện đáng kể thời gian sống.
Sức khỏe tình dục
20
4.3 Giai đoạn AIDS
Khi số lượng các tế bào CD4+ giảm xuống dưới một mức 200 tế bào trên 1µL
máu, sự miễn dịch qua trung gian tế bào bị vô hiệu và xuất hiện nhiễm trùng do
một loạt các vi sinh vật cơ hội gây ra. Các triệu chứng đầu tiên thường bao gồm
giảm cân vừa phải và không giải thích được, nhiễm trùng đường hô hấp tái phát
(như viêm xoang, viêm phế quản, viêm tai giữa, viêm họng), viêm tuyến tiền liệt,
phát ban da, và loét miệng ).
Nhiễm trùng cơ hội và các khối u phổ biến ở người bình thường sẽ bị tế bào
miễn dịch trung gian CD4+ khống chế sau đó chúng mới ảnh hưởng đến người
bệnh. Đặc trưng của mất sức đề kháng là sẽ nhanh chóng bị nhiễm vi nấm Cadila
species gây nên bệnh nấm miệng (còn gọi là đẹn trắng hay tưa miệng) hoặc nhiễm
vi khuẩn hiếu khí Mycobacterium tuberculosis (MTB) gây bệnh lao. Sau đó, các
virus herpes tiềm ẩn sẽ được kích hoạt gây tái phát ngày càng nặng hơn các tổn
thương đau đớn phun trào do herpes simplex, bệnh zona, ung thư hạch bạch huyết
do virus Epstein-Barr và ung thư Kaposi's sarcoma.

5. Phương thức lây truyền của HIV/AIDS
5.1. Tình dục
Sức khỏe tình dục
21
Phần lớn HIV lây qua đường quan hệ tình dục không được bảo vệ (quan hệ
tình dục không an toàn). Việc chủ quan đối với HIV đóng một vai trò quan trọng
trong nguy cơ bị lây bệnh. Lây truyền qua đường tình dục có thể xảy ra khi chất tiết
sinh dục của một bạn tình có chứa virus, tiếp xúc với niêm mạc sinh dục, miệng,
hoặc trực tràng của người còn lại. Ở các quốc gia có thu nhập cao, nguy cơ nữ lây
truyền cho nam là 0.04% cho mỗi lần quan hệ và nam truyền cho nữ là 0.08%. Vì
những lý do khác nhau, nguy cơ này cao hơn từ 4 đến 10 lần ở các nước có thu
nhập thấp. Người nhận trong giao hợp qua đường hậu môn có nguy cơ bị lây nhiễm
cao hơn nhiều, 1.7% cho mỗi lần quan hệ.
Các phân tích của các nghiên cứu năm 1999 về việc sử dụng bao cao su cho
thấy rằng nếu sử dụng bao cao su đúng cách sẽ làm giảm nguy cơ lây truyền qua
đường tình dục của HIV khoảng 85%. Tuy nhiên, chất diệt tinh trùng thực sự có thể
làm tăng tỷ lệ lây truyền.
Những thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, trong đó, nam giới chưa cắt bao quy
đầu được phân ngẫu nhiên để được giải phẫu cắt bao quy đầu trong điều kiện vô
trùng và được tư vấn đã được thực hiện tại Nam Phi, Kenya, và Uganda, kết quả
cho thấy mức độ lây nhiễm HIV trong đường tình dục nữ truyền cho nam giảm
xuống 60%, 53%, và 51%, tương ứng với từng quốc gia. Từ kết quả này, WHO và
Ban Thư ký UNAIDS đã triệu tập một nhóm chuyên gia để "khuyến cáo rằng nam
giới cắt bao quy đầu được công nhận như là một sự can thiệp bổ sung quan trọng để
giảm nguy cơ lây nhiễm HIV trong quan hệ tình dục dị tính luyến ái đối với nam
giới". Đối với trường hợp nam có quan hệ tình dục với nam, không có đủ bằng
chứng để chứng minh nam giới cắt bao quy đầu sẽ bảo vệ chống lại nhiễm HIV
hoặc nhiễm những bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.
Sức khỏe tình dục
22

Các nghiên cứu về lây truyền HIV ở phụ nữ đã cắt bộ phận sinh dục (FGC) đã
báo cáo các kết quả khác nhau, nhưng với một số bằng chứng cho rằng việc này
làm tăng nguy cơ lây truyền.
Theo báo cáo về các nghiên cứu trong năm 2007 của Cochrane Collaboration,
thì các chương trình nhằm mục đích khuyến khích việc tiết chế tình dục trong giới
trẻ ở những nước phát triển, đồng thời cũng thực hiện các chiến lược cổ động và
giáo dục về tình dục an toàn cho những đối tượng đã có quan hệ tình dục, có thể
làm giảm trong ngắn hạn và dài hạn những hành vi có rủi ro lây nhiễm HIV.
Theo một nghiên cứu của Huỳnh Thị Thu Thủy, Nguyễn Ban Mai về “Tỉ lệ
nhiễm HIV của chồng thai phụ có HIV dương tính tại bệnh viện Từ Dũ năm 2008 –
2009” kết quả thu được là từ tháng 05/2008 – 05/2009 , 199 cặp vợ chồng có vợ là
thai phụ nhiễm HIV, tỉ lệ nhiễm HIV của chồng là: 68.8%. Kết quả này chứng tỏ
việc HIV lây qua đường tình dục là con đường chiếm tỉ lệ cao hơn hết .
5.2. Các sản phẩm máu
Nói chung, nếu vết thương hở tiếp xúc với máu bị nhiễm HIV thì sẽ bị lây
truyền. Các đối tượng dễ bị lây nhiễm qua đường máu là những người tiêm chích
ma túy, những bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đông máu di truyền (bệnh ưa chảy
máu), người nhận trong quá trình truyền máu (mặc dù hầu hết ở các nước thì máu
khi dùng để truyền đều được xét nghiệm HIV) và các sản phẩm máu. Lây truyền
HIV qua đường máu cũng là vấn đề lo ngại đối với những người được chăm sóc y
tế tại các khu vực có vệ sinh không đạt tiêu chuẩn thông thường trong việc sử dụng
các dụng cụ tiêm chích, chẳng hạn như việc tái sử dụng kim tiêm ở các nước thế
giới thứ ba. Nhân viên y tế như y tá, nhân viên phòng thí nghiệm, và các bác sĩ
cũng là đối tượng rủi ro cao, mặc dù hiếm xảy ra hơn. Kể từ khi việc lây nhiễm
HIV qua đường máu được phát hiện thì các nhân viên y tế cần thiết phải bảo vệ
mình không tiếp xúc với máu bằng cách sử dụng các biện pháp dự phòng phổ quát.
Sức khỏe tình dục
23
Theo nghiên cứu của: điều dưỡng Kiều Thị Thựng, BS Bùi Trọng Hợp và điều
dưỡng Nguyễn Văn Phước về “Khảo sát tình hình phơi nhiễm HIV do tai nạn nghề

nghiệp trên các nhân viên y tế tại BV Cấp cứu Trưng Vương năm 2008”, kết quả là
các tác giả trên đã nhận thấy:
- Điều dưỡng có tuổi đời từ 20 – 30 và tuổi nghề dưới 1 năm là đối tượng có
nguy cơ cao nhất (54,5%). Nguyên nhân là do đặc thù nghề nghiệp phải tiêm
chích nhiều mà kinh nghiệm cũng như kỹ thuật chuyên môn còn kém.
- Khả năng xử trí vết thương khi bị phơi nhiễm HIV còn không chính xác,
chưa nắm rõ quy trình báo cáo khi bị phơi nhiễm dẫn đến thời điểm uống
thuốc ngừa trễ.
- Vẫn còn nhiều nhân viên y tế phơi nhiễm HIV không tuân thủ quá trình uống
thuốc ngừa và theo dõi xét nghiệm.
Qua đó cho thấy tính cấp thiết của việc nâng cao trình độ tay nghề của các nhân
viên y tế làm việc trong các môi trường phơi nhiễm cao với HIV.
Trong quá trình xăm, xâu khuyên, và rạch da thì cả người thực hiện lẫn người
được làm cũng đều dễ bị lây nhiễm HIV qua đường máu.
HIV được tìm thấy với nồng độ thấp trong nước bọt, nước mắt, và nước tiểu
của các cá nhân bị nhiễm bệnh, nhưng không có trường hợp nào bị lây nhiễm bởi
những chất tiết này được ghi nhận và nguy cơ tiềm năng lây truyền là không đáng
kể. Muỗi không thể truyền HIV.
5.3. Mẹ truyền sang con
Việc lây truyền virus từ mẹ sang con có thể xảy ra trong tử cung (trong thời kỳ
mang thai), trong quá trình chuyển dạ (sinh con), hoặc thông qua việc cho con bú.
Trong trường hợp không điều trị, tỷ lệ lây truyền giữa mẹ và con lên đến khoảng
25%. Tuy nhiên, với sự kết hợp điều trị bằng thuốc kháng virus và mổ lấy thai thì
nguy cơ này có thể được giảm xuống thấp khoảng 1%. Sau khi sinh thì có thể ngăn
Sức khỏe tình dục
24
ngừa lây truyền bằng cách tránh hoàn toàn nuôi con bằng sữa mẹ, tuy nhiên, điều
này liên quan đáng kể đến các bệnh khác. Cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ và
cung cấp điều trị dự phòng kháng virus mở rộng cho trẻ sơ sinh cũng có hiệu quả
trong việc tránh lây truyền. UNAIDS ước tính có 430.000 trẻ em bị nhiễm HIV trên

toàn thế giới trong năm 2008 (19% là các ca nhiễm mới), chủ yếu là từ đường mẹ
sang con, và thêm 65.000 ca lây nhiễm đã được ngăn chặn thông qua việc cung cấp
điều trị dự phòng kháng virus cho phụ nữ nhiễm HIV dương tính.
Theo nghiên cứu của TS Bs Vũ Thị Nhung (Nguyên Giám đốc BV Hùng
Vương, Thành phố Hồ Chí Minh ), “ Đánh giá mô hình tham vấn phối hợp giữa
nhân viên y tế và nhân viên xã hội của chương trình phòng ngừa lây truyền
HIV/AIDS từ mẹ sang con tại bệnh viện Hùng Vương” từ 1/9/2010 đến 30/4/2011,
kết quả thu được là đã thực hiện được 109 trường hợp sản phụ có HIV (+) đến sanh
tại BV Hùng Vương. Tỷ lệ mất dấu sau 1 tháng là 3,7% và đến 6 tháng sau sanh
mất dấu là 9,2%. Qua đó, biết được số trường hợp có trẻ có HIV RNA (+) là 3,8%.
Từ kết quả này cho thấy nhận thức của người dân về ảnh hưởng của HIV đối với
thai nhi còn kém, và còn có sự e ngại đối với những người nhiễm HIV đến chữa trị
ở các cơ sở y tế (Nguồn: Hội nghị khoa học nhân kỷ niệm 120 năm thành lập viện
Pasteur TPHCM).
II.Tổn thương bệnh học khi nhiễm HIV/AIDS
1. Các bệnh về đường hô hấp
Viêm xoang, tai, mũi, họng và bệnh phổi. Nguyên nhân là do vi trùng, nấm
virus.
2. Bệnh tim mạch
Sức khỏe tình dục
25

×