1
Trong một gia đình, quan hệ vợ chồng là quan hệ nền tảng ảnh
hưởng tới mọi mối quan hệ khác của gia đình. Quan hệ vợ chồng được phát
sinh từ một sự kiện pháp lý đặc biệt đó là kết hơn và được xây dựng từ hai
yếu tố: tình cảm và vật chất. Tình cảm là điều kiện cần cho một cuộc hôn
nhân bắt đầu và vật chất là điều kiện đủ để duy trì cuộc sống hơn nhân hạnh
phúc. Vật chất ở đây hiểu đơn giản là tài sản có thể của chung hoặc của
riêng vợ, chồng, liên quan tới quan hệ vợ chồng. Nếu như tình cảm là một
yếu tố khó kiểm sốt thì ngược lại vấn đề tài sản giữa vợ và chồng được nhà
nước kiểm soát chặt chẽ thông qua một quy chế trong pháp luật về hơn nhân
và gia đình, đó là chế độ tài sản của vợ chồng.
Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy định chặt chẽ
và tiến bộ về chế độ tài sản của vợ chồng. Các văn bản quy định, hướng dẫn
áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được ban hành
sau đó cũng đã dự liệu được một số trường hợp phát sinh trong vấn đề này.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điểm vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng
luật. Khi mà sự phát triển của kinh tế - xã hội kéo theo vai trò ngày càng
quan trọng của yếu tố tài sản trong mối quan hệ vợ chồng, thì tính ứng dụng
của các quy định đó bị giảm bớt, khơng dự liệu được nhiều tình huống phát
sinh trong thực tế tranh chấp tài sản giữa vợ và chồng, gây lúng túng khi xử
lý. Vì vậy cần có những đề xuất, sửa đổi kịp thời để các quy định đó thực sự
đi vào đời sống gia đình.
Trong phạm vi một bài tiểu luận em xin trình bày những nghiên cứu
của bản thân về những vướng mắc, bất cập và hướng hồn thiện quy định
của Luật hơn nhân và gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng. Tuy đã
tham khảo từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau nhưng bài viết khơng tránh
khỏi những sai sót, rất mong sự chỉ bảo của các thầy cô.
2
A – LÝ luËn chung
I. Tài sản chung của vợ chồng
1, Khái niệm
Tại Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng.”
2, Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
Đối với khối tài sản chung hợp nhất vợ chồng đều có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Tài sản chung của
vợ chồng được chi dùng để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của gia đình,
để thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Việc xác lập, thực hiện và
chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc
là nguồn sống duy nhất của gia đình, hay việc dùng tài sản chung để đầu tư
kinh doanh phải có sự bàn bạc, thỏa thuận của vợ chồng.
Khi hơn nhân cịn đang tồn tại, vợ chồng vẫn có thể chia tài sản
chung bằng cách tự thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi chia
tài sản chung thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở
hữu riêng của mỗi người.
3
II. Tài sản riêng của vợ, chồng
1, Khái niệm
Tại Khoản 1 Điều 32 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi
kết hơn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều
29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.”
2, Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
Theo Điều 33 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000, vợ, chồng có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; vợ, chồng tự
quản lý tài sản riêng; nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh
tốn từ tài sản riêng của người đó. Tài sản riêng cũng được sử dụng vào các
nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung khơng đủ để
đáp ứng. Trong trường hợp tài sản riêng đã được đưa vào sử dụng chung mà
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia
đình thì việc định đoạt phải có sự thỏa thuận của cả vợ chồng.
4
B Những vớng mắc, bất cập và hớng hoàn thiện
quy định của Luật hôn nhân và gia đình về chế độ
tài sản của vợ chồng
Vn 1: Xỏc nh tài sản chung, riêng của vợ, chồng
1, Những tài sản chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu
Khoản 2 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định:
“Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.”
Trong Khoản 1 Điều 5 Nghị Định số 70/2001/NĐ-CP ngày
3/10/2001 có quy định thêm về các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng
khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng bao gồm “nhà ở,
quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu” Trong quy định trên bên cạnh nhà ở, quyền sử dụng đất là
những tài sản tương đối dễ xác định thì những tài sản khác là tài sản gì vẫn
chưa được quy định cụ thể.
Trong thực tế khi có tranh chấp về loại tài sản này, một bên vợ hoặc
chồng thường dựa vào việc giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên một
Đây không phải
người để yêu cầu xếp tài sản đó thuộc khối tài sản riêng, cho dù tài sản đó trường
hợp duy nhất vướng
trên thực tế thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy quy định này đưa
mắc trong quy định về
chứng cứ chứng
ra nằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc để Tòa án xác định đúng đắn tài sản minh
tài sản chung, tài sản
chung, tài sản riêng và việc phân chia tài sản.
riêng. Tại Khoản 3 Điều
27 đăng ký các
Tuy nhiên tại Nghị định số 70/2001 lại quy định: ViệcLuật hôn nhân và gia
đình năm 2000 đã quy
tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải định: “Trong trường
ghi tên cả vợ và
hợp khơng có chứng cứ
chồng được thực hiện kể từ ngày Nghị định có hiệu lực; trong trường hợp tài
chứng minh tài sản mà
vợ, chồng đang có tranh
chấp là tài sản riêng
của mỗi bên thì tài sản
đó là tài sản chung.”
5
sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày
Nghị định có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng thì vợ
chồng có thể u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ. Nghĩa
là khơng bắt buộc vợ chồng phải đăng ký lại những tài sản chung đã đứng
tên một người, nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản riêng của mình
thì có nghĩa vụ chứng minh.
Quy định này làm nảy sinh vấn đề: cần phải
đưa ra những loại bằng chứng nào để chứng minh?
Pháp luật hơn nhân và gia đình hiện khơng quy định
rõ. Trong thực tiễn có nhiều loại bằng chứng như các
giấy tờ chứng minh quyền sở hữu riêng của vợ hoặc
chồng, lời khai của nhân chứng, hóa đơn, chứng từ…
thậm chí là cả sự thừa nhận của bên cịn lại. Vậy bằng
chứng nào có thể chấp nhận được? Luật hơn nhân và
gia đình nên có những quy định cụ thể trong vấn đề
này để đảm báo tính thống nhất khi giải quyết các vụ
Trong Luật hơn nhân
và gia đình năm 2000,
tại Khoản 3 Điều 27
cũng không quy định
cụ thể về việc chứng
minh tài sản thuộc sở
hữu chung hay riêng:
“Trong trường hợp
khơng có chứng cứ
chứng minh tài sản mà
vợ, chồng đang có
tranh chấp là tài sản
riêng của mỗi bên thì
tài sản đó là tài sản
chung ”
việc thực tế.
2, Hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ
hơn nhân.
Hiện chưa có quy định nào ghi rõ hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản
riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung hay tài sản riêng
của vợ, chồng. Có hai quan điểm ngược nhau trong việc giải quyết vấn đề
này.
Quan điểm thứ nhất xem xét vấn đề dưới góc độ Luật dân sự cho
rằng hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ
6
hơn nhân là tài sản riêng của một bên vì chỉ chủ sở hữu tài sản mới có quyền
thu lợi phát sinh từ tài sản đó.
Quan điểm thứ hai xuất phát từ tính cộng đồng của quan hệ hơn
nhân và nguyên tắc xác lập tài sản chung của vợ chồng: tài sản do bất cứ ai,
vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ
chồng, khơng phân biệt mức đóng góp, khơng đòi hỏi phải do cả hai vợ
chồng cùng trực tiếp tạo ra. Vì vậy, hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng
của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng (trừ trường hợp ngoại lệ: hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được
chia trong trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở
hữu riêng của mỗi người).
3, Đồ dùng, tư trang cá nhân.
Theo Khoản 1 Điều 32 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 đồ
dùng, tư trang cá nhân được ghi nhận là tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là
quy định phù hợp với thực tế bởi đồ dùng, tư trang cá nhân là những tài sản
không thể thiếu và thường gắn liền với một người. Tuy nhiên do pháp luật
không quy định rõ thế nào là đồ dùng, tư trang cá nhân nên dẫn tới nhiều
cách hiểu khác nhau. Mặt khác, do sự phát triển của nền kinh tế, đồ dùng, tư
trang cá nhân ngày càng có giá trị lớn, thậm chí rất lớn. Có những đồ dùng,
tư trang cá nhân thực sự cần thiết cho công việc, cuộc sống của vợ hoặc
chồng và có giá trị khơng lớn so với khối tài sản chung của vợ chồng.
Nhưng cũng có trường hợp những thứ đó tuy khơng cần thiết lắm nhưng lại
có giá trị rất lớn ví dụ như trang sức. Việc quyết định xem đồ dùng, tư trang
cá nhân thuộc khối tài sản chung hay riêng cần phải xem xét lại kỹ càng.
Nên phân loại cụ thể từng loại đồ dùng, tư trang theo giá trị sử dụng và giá
trị quy đổi bằng tiền để dự liệu được tối đa các trường hợp có thể phát sinh.
7
Nếu tiếp tục giải quyết như luật hiện nay thì đã qn mất lợi ích chung của
gia đình trong việc sử dụng các tài sản đó.
Có ý kiến cịn cho rằng nên xem xét đến nguồn gốc của đồ dùng, tư
trang cá nhân. Những thứ được mua bằng tài sản chung thì thuộc khối tài sản
chung cịn những thứ mua bằng tài sản riêng của ai thì thuộc tài sản riêng
của người đó. Thực ra việc xem xét nguồn gốc tài sản khơng đơn giản như
vậy bởi tài sản cịn có thể có được từ thừa kế hoặc được tặng cho. Thực tế,
có nhiều trường hợp trong gia đình khi có con kết hơn, cha mẹ thường tun
bố cho các con một số đồ dùng hoặc nữ trang. Khi ly hơn, một bên sẽ cho
rằng đó là tài sản bố mẹ cho riêng mình nên thuộc khối tài sản riêng, cịn bên
kia thì cho rằng đó là tài sản chung vì được tun bố là cho chung. Thậm
chí, cha mẹ khi cho thì tuyên bố là cho chung nhưng khi thấy có tranh chấp
lại khảng định là cho riêng.
VD: Năm 2001, anh M kết hôn hợp pháp với chị H. Chung sống với
nhau được bốn năm thì xảy ra mâu thuẫn và đến năm 2006 hai người thuận tình
ly hơn. Về con cái, anh chị đã tự thỏa thuận được với nhau, còn tài sản, đặc biệt
là bộ nữ trang tổng trị giá hơn 5 triệu đồng hai người phải nhờ Tòa án giải quyết.
Bộ nữ trang là tài sản đáng giá nhất, các tài sản còn lại giá trị khơng cao, hai
người cũng khơng có bất động sản để tranh chấp.
Theo anh M bộ nữ trang này do mẹ anh tặng cho hai vợ chồng vào ngày
cưới nên thuộc khối tài sản chung. Còn chị H lại cho rằng đây là tư trang của cá
nhân chị nên thuộc tài sản riêng của chị. Như vậy nếu căn cứ vào Khoản 1 Điều
27 thì số nữ trang đó thuộc tài sản riêng của chị H nhưng nếu căn cứ theo lời của
anh M thì đây là tài sản hai vợ chồng được tặng cho chung. Đây là trường hợp
tương đối phức tạp, khơng thể chỉ căn cứ máy móc vào luật được vì trong luật
trường hợp này khơng được quy định rõ ràng. Thẩm phán phải cân nhắc kỹ trước
khi đưa ra phán quyết vì đây là tài sản có giá trị lớn nhất trong số tài sản tranh
chấp. Đối với anh M và chị H việc chia tài sản có thể ảnh hưởng tới cuộc sống
sau khi ly hơn của hai người.
8
4, Tiền trợ cấp thất nghiệp, tiền phụ cấp thương tật của thương binh…
Khái niệm về tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Khoản 1 Điều
27 là chưa rõ ràng khi coi những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân cũng là tài sản chung của vợ chồng. Tiền trợ cấp thất
nghiệp, tiền phụ cấp thương tật của thương binh, tiền bồi thường do mất khả
năng lao động… có được coi là những thu nhập hợp pháp khác khơng? Nếu
coi đó là tài sản chung để chia thì chẳng khác nào cắt nguồn sống của những
người đó.
VD: Chị T và anh K sau khi kết hơn được 7 năm thì đưa đơn ra Tịa án
xin ly hơn. Tài sản chung của hai người là một ngôi nhà nhỏ, một chiếc xe máy
Trung Quốc. Ngồi ra anh K cịn được nhận trợ cấp thôi việc một lần với số tiền
là 45 triệu đồng. Tại Tịa, anh K cho rằng đó là tài sản riêng của mình cịn chị T
cho rằng đó là tài sản chung của vợ chồng.
Tiền trợ cấp thất nghiệp cũng là một dạng thu nhập về nghề nghiệp,
giống như lương hàng tháng chỉ khác là nhận tất cả một lần, vì vậy cũng phải
được tính vào tài sản chung. Tuy nhiên bất cập ở chỗ đối với tiền lương hưu,
không ai tính số tiền lương hưu sẽ nhận sau khi ly hôn là tài sản chung để chia,
vậy tiền trợ cấp thất nghiệp như một khoản “lương hưu sớm” để giúp người được
nhận tìm việc làm mới lại bị chia như tài sản chung.
Trong cuộc sống vợ chồng nhằm đảm bảo những lợi ích và nhu cầu
thiết yếu của gia đình, khơng tránh khỏi việc trộn lẫn các loại tài sản chung,
tài sản riêng với nhau. Ví dụ như tài sản chung của vợ chồng đã được tu sửa
bằng phần tài sản riêng của vợ, chồng hoặc ngược lại và trong cả hai trường
hợp tài sản đó được làm tăng giá trị lên nhiều lần so với giá trị ban đầu. Luật
hơn nhân và gia đình cũng cần dự liệu cụ thể những trường hợp đó để xác
định rõ ràng tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng.
9
Vấn đề 2: Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Bên cạnh trường hợp thường gặp là chia tài sản khi vợ chồng ly hơn
thì trong thực tế có nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân có thể vì
nhiều lí do khác nhau như mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lí, sử dụng,
định đoạt tài sản chung nên muốn độc lập về tài sản nhưng không muốn ly
hôn; một bên muốn đầu tư kinh doanh riêng hoặc thực hiện các nghĩa vụ
riêng… Từ thực tế trên, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 tiếp tục quy
định về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại
Điều 29 và Điều 30 (Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 cũng đã quy định
về vấn đề này tại Điều 18). Quy định này đã khảng định nguyên tắc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh và quyền tự chủ của cá nhân, trong trường hợp này
là vợ, chồng khi tham gia vào các quan hệ kinh tế; đồng thời tránh tình trạng
những hậu quả không tốt do một bên tự ý gây ra ảnh hưởng đến lợi ích
chung của gia đình. Tuy trên lí luận quy định này là cần thiết, phù hợp với
đòi hỏi của thực tiễn nhưng khi áp dụng vào đời sống lại tồn tại nhiều bất
cập.
1, Nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa quy định cụ thể về
nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trước đây trong Luật
hơn nhân và gia đình năm 1986, tại Điều 18 có quy định: “Khi hơn nhân tồn
tại, nếu một bên có u cầu và có lí do chính đáng thì có thể chia tài sản
chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này.”, tức là chia tài
sản như khi ly hôn. Tuy đã dự liệu nguyên tắc chia tài sản chung trong thời
kỳ hơn nhân nhưng nếu hiểu theo quy định trên thì chế độ tài sản chung của
vợ chồng sẽ chấm dứt kể từ thời điểm phán quyết của Tịa án có hiệu lực
10
pháp lý. Hiểu như vậy là khơng hợp lý vì quan hệ hôn nhân vẫn đang tồn tại
nên khối tài sản chung của vợ chồng phát sinh sau đó là không tránh khỏi,
chế độ sở hữu chung của vợ chồng trên thực tế là không hề chấm dứt.
Quay trở lại Luật hơn nhân và gia đình năm
2000, nên bổ sung nguyên tắc chia đôi (giống như chia tài
sản khi ly hôn) trong việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Bởi trong thực tế khi giải
quyết các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng từ
trước đến nay thì ngun tắc chia đơi ln được áp dụng
trước tiên. Tuy nhiên rút kinh nghiệm từ Luật hơn nhân
và gia đình năm 1986, chỉ nên bổ sung nguyên tắc chia
Đối với trường hợp
chia tài sản chung của
vợ chồng khi một bên
vợ hoặc chồng chết
trước, Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000
cũng khơng quy định
cụ thể vì vậy cũng cần
bổ sung nguyên tắc
chia đôi cho trường
hợp này.
đôi chứ không nên quy định cụ thể chia như khi ly hơn.
2, Quyền u cầu Tịa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và hủy
bỏ thỏa thuận của vợ chồng về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hơn
nhân.
Luật hơn nhân và gia đình chỉ cơng nhận quyền yêu cầu Tòa án chia
tài sản chung trong thời kì hơn nhân của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mà
không công nhận quyền của người thứ ba trong trường họp này; đồng thời
luật cũng không quy định ai là người có thể u cầu Tịa án hủy bỏ thỏa
thuận chia tài sản chung trong thời kì hơn nhân của vợ chồng. Vậy có trường
hợp vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản riêng bằng tài sản riêng
của họ, nhưng tài sản riêng của người đó khơng có hoặc khơng đủ và vợ
chồng khơng có ý định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để trốn
tránh nghĩa vụ. Khi đó quyền lợi của người thứ ba có liên quan tới nghĩa vụ
tài sản riêng của vợ hoặc chồng sẽ được đảm bảo như thế nào? Trong trường
hợp khác, vợ chồng lại thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
11
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì người có lợi ích liên quan
đến nghĩa vụ đó có được u cầu Tịa án hủy bỏ thỏa thuận chia tài sản
chung trong thời kì hơn nhân của vợ chồng hay không? Hay những trường
hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống gia đình, đến việc chăm sóc, giáo dục con cái…,
ai là người có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ thỏa thuận của vợ chồng?
Như vậy pháp luật cũng cần quy định rõ: trong trường hợp người thứ
ba có đủ chứng cứ cho rằng việc chia (hoặc không chia) tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân là để trốn tránh nghĩa vụ thì có quyền u cầu
Tịa án hủy bỏ thỏa thn chia (hoặc chia) tài sản chung của vợ chồng.
3, Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân
Tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 có quy
định: “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng
của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.” Quy định này
hồn tồn khơng hợp lý và mâu thuẫn với nguyên tắc của Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000: tài sản do bất cứ ai, vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ
hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng, không phân biệt mức đóng góp,
khơng địi hỏi phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra. Mặt khác, khối
tài sản chung của vợ chồng chủ yếu có được từ chính lao động, hoạt động
sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác. Áp dụng quy định
này có nghĩa là chế độ tài sản chung của vợ chồng gần như khơng cịn tồn
tại.
12
4, Trách nhiệm của vợ, chồng đối với lợi ích chung của gia đình sau khi
chia tài sản chung
Việc pháp luật không quy định trách nhiệm của vợ chồng đối với lợi
ích chung của gia đình sau khi chia tài sản chung là một thiếu sót lớn. Bởi
sau khi chia tài sản chung, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng vẫn cịn, vợ
chồng vẫn có trách nhiệm với nhau và với lợi ích của gia đình, nhưng nhiều
trường hợp vợ, chồng thỏa thuận chia toàn bộ số tài sản chung, sau khi chia
ai làm người đó hưởng mà quên đi lợi ích chung của gia đình.
Luật hơn nhân và gia đình cần bổ sung thêm quy định về trách
nhiệm của vợ, chồng sau khi chia tài sản chung. Trong đó ghi rõ về việc vợ,
chồng phải đóng góp tài sản để đảm bảo cho những nhu cầu chung của gia
đình.
13
Mặc dù trong quan hệ vợ chồng yếu tố tình cảm là nền tảng cơ bản
cho sự hình thành nhưng khi xét tới tầm quan trọng thì khơng thể khảng định
được giữa tình cảm và vật chất, cái nào quan trọng hơn. Bên cạnh tình cảm
là yếu tố có từ trước hơn nhân thì việc phát sinh và thực hiện các quan hệ về
tài sản giữa vợ và chồng là hệ quả tất yếu sau hơn nhân. Phải có quan hệ tài
sản mới đáp ứng được những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình cả về
vật chất lẫn tinh thần. Thậm chí trong nhiều gia đình hiện đại ngày nay, yếu
tố vật chất cịn đóng vai trị quyết định cho việc hình thành, duy trì hay chấm
dứt quan hệ hôn nhân. Việc này dẫn tới sự thay đổi về bản chất của quan hệ
hôn nhân dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa “hôn nhân…là sự liên kết tự nguyện,
bình đẳng, sự liên kết bền vững trên cơ sở tình yêu thương, quý trọng lẫn
nhau. Sự liên kết đó khơng phụ thuộc vào tính tốn vật chất”.
Để đảm bảo cho hôn nhân tồn tại theo đúng bản chất của nó dưới
chế độ Xã hội chủ nghĩa, pháp luật về hơn nhân và gia đình cần đưa ra
những quy định chặt chẽ nhưng đồng thời cũng phải tiến bộ, phù hợp với sự
phát triển của xã hội. Đặc biệt chế độ tài sản của vợ chồng là một trong
những quy chế cần được xem xét, sửa đổi và bổ sung khá nhiều trong giai
đoạn hiện nay.
14
Tài liệu tham khảo
1, Giỏo trỡnh Lut hụn nhõn v gia đình Việt Nam năm 2009 – Trường Đại
học Luật Hà Nội.
2, Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam 2003 – Trung tâm đào tạo
từ xa, Đại học Huế.
3, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam năm 2009 – Trường Đại học Luật Hà
Nội.
4, Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam –
Nguyễn Văn Cừ - Luận án tiến sĩ luật học năm 2005 – Trường Đại học Luật
Hà Nội.
Website tham kh¶o
1,
2,