Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.07 KB, 11 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Tiếp nối vòng đàm phán Uruguay kéo dài 7 năm (1986 - 1994), Doha là
vòng đàm phán thứ 9 kể từ khi hiệp định GATT ra đời năm 1947. Vòng đàm
phán Doha được chính thức bắt đầu vào tháng 11-2001 tại Hội nghị Bộ trưởng
WTO lần thứ tư ở Doha, Qatar và dự kiến sẽ kết thúc trước ngày 01/01/2005.
Vòng đàm phán Doha có tên đầy đủ là “Chương trình Nghị sự Doha vì sự
phát triển”; là vòng đàm phán thương mại đầu tiên được tiến hành kể từ khi
WTO chính thức ra đời. Vòng đàm phán này diễn ra với nhiều mục đích, đó là
tăng cường đáng kể việc mở cửa thị trường, cắt giảm hoặc loại bỏ thuế; cắt giảm
và loại bỏ tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu; cắt giảm đáng kể các hỗ trợ
trong nước gây bóp méo thương mại, cắt giảm hoặc loại bỏ các rào cản phi thuế
quan, đặc biệt đối với các sản phẩm xuất khẩu mà các nước đang phát triển quan
tâm; cơ chế đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên
sẽ không xem xét các vấn đề không liên quan đến thương mại.
Tiếp tục các nhiệm vụ đàm phán được định sẵn của Vòng Urugoay và
xuất phát từ sức ép đàm phán của các nước phát triển trong từng thời kỳ, Vòng
Doha đang xem xét mở rộng đàm phán sang các lĩnh vực đàm phán khác là các
vấn đề Singapore và vấn đề thương mại - môi trường. Theo bản Tuyên bố Doha,
hiện nay WTO đang đàm phán trên các lĩnh vực: vấn đề phát triển, nông nghiệp,
dịch vụ, tiếp cận thị trường hàng công nghiệp (NAMA), vấn đề TRIPS, các vấn
đề Singapore, vấn đề về các quy tắc trong WTO, vấn đề giải quyết tranh chấp
(DSU) và vấn đề thương mại - môi trường.
Trong các lĩnh vực trên, có thể nói 5 lĩnh vực đang có những khác biệt
quan điểm sâu sắc và tốn nhiều giấy mực nhất tại Vòng Doha là nông nghiệp,
NAMA, các vấn đề Singapore, dịch vụ và vấn đề phát triển. Đây chính là những
lĩnh vực đang được dư luận thế giới quan tâm theo dõi nhiều và có lẽ cũng là
những vấn đề đáng lưu ý nhất đối với tiến trình đàm phán gia nhập WTO của
Việt Nam.
I. Diễn biến đàm phán ngay trước và tại Hội nghị Cancun
Cho đến thời điểm Hội nghị Cancun, mặc dù đã được gia hạn nhưng tất cả
các thời hạn phải hoàn thành đàm phán Doha nêu trên đều không đạt được.


Trong thư gửi ông Derbez - Ngoại trưởng Mexico ngày 31/8/2003, ông Castillo
- Cựu Chủ tịch Đại Hội đồng WTO và ông Supachai - Tổng Giám đốc WTO đã
tỏ ra lạc quan khi cho rằng tại Cancun có thể đạt được đồng thuận về "các khuôn
khổ chung" trong các lĩnh vực đang gặp nhiều bất đồng quan điểm như nông
nghiệp và NAMA và thừa nhận khó đạt được đồng thuận trong các vấn đề
Singapore. Diễn biến đàm phán cụ thể trong 05 lĩnh vực nêu trên như sau:
1. Nông nghiệp:
Như ta đã biết, Hiệp định GATT có hiệu lực từ năm 1948 nhưng do tư
tưởng duy trì bảo hộ nông nghiệp nặng nề nên quá trình đàm phán về tự do hoá
thương mại nông sản mới đi vào thực chất từ Vòng Urugoay. Trong tiến trình
đàm phán Doha, cuộc chiến mới thực sự bắt đầu khi ngày 13/8/2003, Mỹ và EU
đưa ra Đề xuất chung về phương thức đàm phán nông nghiệp. Đây là một đề
xuất tổng hợp với mục đích tạo ra nhiều linh hoạt có lợi riêng cho các thành viên
phát triển, cụ thể là Mỹ và EU, bao gồm 3 điểm chính đáng lưu ý là:(i) họ không
1
phải cắt giảm hay thậm chí từ bỏ trợ cấp trong nước và có thể thoát khỏi nghĩa
vụ xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu và siết chặt quy định về tín dụng xuất khẩu, (ii) đưa
ra công thức "pha trộn" cho việc cắt giảm thuế, theo đó các dòng thuế cao của
họ sẽ không bị cắt giảm nhiều, trong khi các thành viên đang phát triển sẽ phải
cắt giảm với diện rộng hơn và mức độ sâu hơn, (iii) không dành S&D đáng kể
cho các thành viên đang phát triển. Bản đề xuất đã đặt ra tình thế bất lợi và đi
ngược lại lợi ích của các nước đang phát triển.
Trước bối cảnh đó, các nước xuất khẩu nông sản đang phát triển đã tỏ ra
phẫn nộ và liên kết lại thành Nhóm G-20. Ngày 20/8/2003, nhóm này đã đưa ra
đề xuất riêng của mình, nhằm đáp lại bản đề xuất chung của Mỹ và EU, với
những nội dung chính là:(i) các nước giàu phải cam kết cắt giảm đáng kể tất cả
các hình thức trợ cấp trong nước, và xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu nếu áp dụng công
thức cắt giảm "pha trộn", (ii) dành S&D cho các thành viên đang phát triển, với
các cam kết cắt giảm thuế quan ít hơn, và (iii) đưa ra khái niệm "các sản phẩm
đặc biệt" và "cơ chế tự vệ đặc biệt (SSM)" đối với sự gia tăng nhập khẩu đột

ngột.
Trong thư gửi ông Derbez ngày 31/8/2003, ông Castillo và ông Supachai
đã kỳ vọng tại Can cun sẽ đạt được thống nhất về "khuôn khổ chung" cho đàm
phán nông nghiệp và chỉ đạo các bước tiếp theo để thiết lập "phương thức đàm
phán". Dự thảo Tuyên bố Cancun ngày 24/8/2003 gửi kèm theo thư này được
xem là cơ sở cho Hội nghị Can cun xem xét đã nghiêng về bản đề xuất chung
của Mỹ và EU và lạnh nhạt với những quan tâm cũng như lợi ích của các nước
đang phát triển.
Tại Cancun, các thành viên phát triển và đang phát triển (đại diện là
Nhóm G-20) đều thể hiện quan điểm bảo lưu các đề xuất nêu trên của mình và
kiên quyết không nhân nhượng nhau nên hội nghị đã không thông qua Bản Dự
thảo Tuyên bố Cancun ngày 13/9/2003 (được gọi là Dự thảo Derbez). Theo phân
tích của Mạng Third World Network (TWN), nội dung của Dự thảo Derbez về
cơ bản là tương tự Dự thảo ngày 24/8/2003. Nếu dự thảo này được thông qua tại
Cancun, thì cơ nghiệp của nông dân và vấn đề an ninh lương thực tại các nước
đang phát triển có thể bị đe doạ từ việc nhập khẩu lương thực giá rẻ của nước
ngoài. Nó cho phép các nước phát triển có thể tiếp tục duy trì hoặc thậm chí gia
tăng bảo hộ nông nghiệp thông qua những linh hoạt đáng kể trong hỗ trợ trong
nước (chuyển từ hình thức hỗ trợ này sang hình thức hỗ trợ khác), trong tiếp cận
thị trường (áp dụng công thức cắt giảm thuế "Pha trộn") và trong cạnh tranh xuất
khẩu (không có thời hạn xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp trong hệ thống tín
dụng xuất khẩu). Trong khi đó, các nước đang và chậm phát triển không được
dành S&D và những linh hoạt cần thiết trong quá trình tiếp tục cải cách nông
nghiệp.
2. NAMA:
Quá trình tự do hoá thông qua Hiệp định GATT từ năm - 1948 đã hạ thấp
đáng kể rào cản đối với thương mại hàng công nghiệp trên thế giới. Hiện tại
mức thuế quan nhập khẩu hàng công nghiệp bình quân tại các nước phát triển là
dưới 5% và tại các nước đang và chậm phát triển dưới 15%. Không giống như
hàng nông sản, với những lợi thế so sánh rõ rệt và nền thuế quan thấp, một lần

2
nữa tại Vòng Doha, các quốc gia phát triển muốn nhanh chóng phá vỡ thế bảo
hộ hàng công nghiệp trên thị trường thế giới.
Tháng 8/2003, Mỹ, Canada và EU đã đưa ra Bản đề xuất chung về
phương thức đàm phán NAMA. Bản đề xuất này đã thể hiện tham vọng của các
nước phát triển muốn ép các nước đang phát triển phải cắt giảm nhanh và mạnh
thuế quan hàng công nghiệp nhưng lại không làm rõ nhiệm vụ "tính đến nhu cầu
đặc biệt và lợi ích của các nước này, trong đó có nguyên tắc có đi có lại không
tương xứng" trong Tuyên bố Doha. Các nước đang phát triển muốn đàm phán
một "công thức cắt giảm linh hoạt hơn" và tham gia "cắt giảm thuế theo ngành
trên cơ sở tự nguyện".
Theo phân tích của TWN, bản đề xuất chung đã từng bị các nước đang
phát triển phản đối trong suốt quá trình đàm phán tại Geneva vì nó làm giảm
đáng kể mức độ linh hoạt trong hoạch định chính sách phát triển công nghiệp và
đe doạ đến sự tồn tại, việc làm của ngành công nghiệp ở các nước này. Tuy
nhiên, nội dung cơ bản của nó vẫn được đưa vào trong Dự thảo ngày 24/8/2003
để các Bộ trưởng xem xét tại Cancun, đó là: (i) đưa ra công thức cắt giảm thuế
"phi tuyến tính" buộc các nước đang phát triển phải cắt giảm các dòng thuế đang
được bảo hộ với thuế suất cao; (ii) tăng diện ràng buộc thuế quan ở mức tối
thiểu là 95% đối với các nước đang phát triển để đưa vào quy định cắt giảm; (iii)
tất cả các thành viên tham gia "cắt giảm thuế theo ngành" trên cơ sở bắt buộc,
giảm thuế suất xuống 0 theo lộ trình cắt giảm nhanh.
Thư gửi ông Derbez ngày 31/8/2003 đã kỳ vọng là 2 điểm còn nhiều bất
đồng nhất trong đàm phán NAMA là "công thức cắt giảm thuế" và "cắt giảm
thuế theo ngành" sẽ được thu hẹp để đi đến thống nhất về "khuôn khổ chung",
tiến tới thiết lập "phương thức đàm phán". Tuy nhiên, do tại Cancun không đạt
được tiến triển gì đáng kể nên hầu hết nội dung của Dự thảo Derbez trùng với dự
thảo ngày 24/8/2003, nghĩa là với đề xuất của Mỹ, Canada và EU trước đây và
chỉ khác nhau về cách diễn đạt ý trong phần nội dung cắt giảm thuế theo ngành.
3. Các vấn đề Singapore:

Các vấn đề Singapore là đầu tư, cạnh tranh, minh bạch hoá mua sắm
chính phủ và thuận lợi hoá thương mại đã được các nước giàu đưa ra từ Hội
nghị Singapore năm 1996. Do gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nước nghèo
nên tại hội nghị này không có bất kỳ thoả thuận nào liên quan đến việc phát
động đàm phán. Đàm phán về các vấn đề Singapore đã tạm thời lắng xuống kể
từ đó đến Hội nghị Doha. Tại Doha, tiếp tục theo đuổi ý đồ phát động đàm phán,
các nước phát triển, đặc biệt là EU và Nhật Bản đã thành công khi đưa vào
Tuyên bố Doha cam kết: “đàm phán về các vấn đề Singapore sẽ được bắt đầu từ
sau Hội nghị Cancun nếu các thành viên có được sự nhất trí rõ ràng về các
phương thức đàm phán".
Như đã đề cập, cùng với vấn đề thương mại - môi trường, đàm phán về
các vấn đề Singapore được xem là nhân tố mới của Vòng Doha. Trong bối cảnh
đàm phán Doha trong các lĩnh vực khác chưa có bước tiến triển rõ rệt, thì việc
thúc đẩy đàm phán các vấn đề mới chắc chắn gặp khó khăn. Ngay trước Hội
nghị Cancun, các nước đang phát triển cho rằng "làm rõ" các yếu tố như nêu
trong Tuyên bố Doha là "điều kiện cần" để phát động đàm phán. Trong khi đó,
3
các nước phát triển và một số nước đang phát triển ở trình độ cao tỏ ra áp đặt khi
khẳng định là cần phải phát động đàm phán sau Hội nghị Cancun trên cơ sở các
đề xuất về phương thức đàm phán của họ. Các tổ chức xã hội trên thế giới cũng
đã lên tiếng phản đối việc phát động đàm phán các vấn đề này trong WTO vì
theo họ ít nhất 3 trong 4 vấn đề trên là các vấn đề phi thương mại và việc thiết
lập các khuôn khổ đa phương mới sẽ chỉ có lợi cho các công ty đa quốc gia và
đe doạ đến an sinh tại các nước nghèo.
Theo thư gửi ông Derbez ngày 31/8/2003, quá trình tham vấn tại Geneva
về phương thức đàm phán cho các vấn đề này đã không đạt kết quả, tuy nhiên
mức độ có khác nhau trong từng vấn đề. Do đó, để có thể phát động đàm phán,
thì tại Cancun các Bộ trưởng sẽ phải thảo luận nhiều để đi đến thống nhất về các
phương thức đàm phán. Nội dung Dự thảo ngày 24/8/2003 đã cho thấy sự phức
tạp trong đàm phán về các vấn đề Singapore. Đối với từng vấn đề, dự thảo đã

đưa ra 2 phương án để các Bộ trưởng xem xét tại Cancun là: (i) quyết định phát
động đàm phán sau Hội nghị Cancun; (ii) tiếp tục quá trình làm rõ vấn đề tại
Geneva.
Sự khác biệt về quan điểm đó vẫn không được thu hẹp mà còn trở nên sâu
sắc hơn tại Cancun. Đa số các nước đang phát triển tiếp tục yêu cầu làm rõ các
vấn đề này, đặc biệt là tác động của chúng đối với thương mại. Để tránh làm ảnh
hưởng đến tiến bộ đàm phán tại các mặt trận khác của vòng Doha, họ cũng yêu
cầu không gắn việc đàm phán này với việc đàm phán về các vấn đề khác và
không được lấy nó ra "mặc cả" đàm phán. Một nhóm nhỏ các nước đang phát
triển cho rằng cần phải xem xét từng vấn đề theo mức độ tác động riêng của nó
và ủng hộ phát động đàm phán về vấn đề thuận lợi hoá thương mại và minh
bạch hoá mua sắm chính phủ vì 2 vấn đề này có nhiều khả năng đạt được đồng
thuận hơn 2 vấn đề còn lại. Chính mâu thuẫn trong đàm phán về các vấn đề
Singapore là một nguyên nhân dẫn đến thất bại của Hội nghị Cancun.
Tại Cancun, các nước phát triển đã lập luận rằng đàm phán về các vấn đề
Singapore, giống như các lĩnh vực khác, là một nhiệm vụ của Vòng Doha. Bảy
(07) năm thảo luận vừa qua đã làm rõ các vấn đề này, nếu trì hoãn đàm phán, thì
các nước đang phát triển sẽ chịu tổn thất nhiều hơn. Tuy nhiên, trước quan điểm
cứng rắn của các nước đang phát triển, một số nước phát triển, trong đó có EU
đã "chịu lùi" khi tỏ ra sẵn sàng tiếp tục quá trình làm rõ vấn đề đầu tư và cạnh
tranh, và chỉ bắt đầu đàm phán về thuận lợi hoá thương mại và minh bạch hoá
mua sắm chính phủ. Theo phân tích của TWN, Dự thảo Derbez đã không đi theo
phương án nào nêu trên, dưới hình thức nguỵ trạng bằng ngôn ngữ, thực chất dự
thảo đã ủng hộ quan điểm trước đây của các nước phát triển là phát động đàm
phán cả 4 vấn đề Singapore.
4. Vấn đề phát triển:
Đàm phán về vấn đề phát triển bao gồm 2 vấn đề chính là vấn đề thực
hiện các cam kết đã có và vấn đề S&D. Từ sau Hội nghị Doha, các nước phát
triển đã tỏ ra không mặn mà với việc đàm phán về vấn đề phát triển vì một số lý
do sau: Bản thân các nước phát triển đã không thực hiện một số cam kết đã có;

Vấn đề S&D là quyền lợi của các nước đang phát triển;và các nước phát triển
muốn tập trung thúc đẩy đàm phán trong các lĩnh vực khác.
4
Ngược lại, vấn đề phát triển là vấn đề luôn được các nước đang phát triển
quan tâm vì nó gắn liền với quyền lợi của họ và các nước này đang gặp khó
khăn trong việc thực hiện các hiệp định của Vòng Urugoay.
Theo đánh giá của TWN, trước Cancun chưa có tiến triển gì đáng kể trong
đàm phán về vấn đề S&D ngoài 24 đề xuất về S&D được đưa ra trong dự thảo
ngày 24/8/2003 để các Bộ trưởng xem xét tại Cancun. Về vấn đề thực hiện các
cam kết đã có, theo thư gửi ông Derbez ngày 31/8/2003, tại Cancun các Bộ
trưởng cần có chỉ đạo thực hiện Điều 12 của Tuyên bố Doha vì điều này đã dẫn
đến cách diễn giải là chỉ đàm phán về các vấn đề thực hiện trong các lĩnh vực có
nhiệm vụ đàm phán Doha cụ thể.
Tại Cancun, các nước đang phát triển đã yêu cầu tăng cường S&D sao
cho tương xứng với nhu cầu của họ và tinh thần của Tuyên bố Doha. Họ cũng
yêu cầu cải tiến 24 đề xuất trên theo hướng gia tăng giá trị kinh tế và mở rộng
đáng kể sự linh hoạt cho các nước đang phát triển. Về vấn đề thực hiện các cam
kết đã có, tại Cancun, các nước đang phát triển đã đề nghị phải dành ưu tiên đàm
phán vấn đề thực hiện các cam kết đã có và đề xuất thành lập một Nhóm đàm
phán về các vấn đề thực hiện còn lại thay vì ưu tiên đàm phán tại các cơ quan
chức năng của WTO như nêu trong Tuyên bố Doha.
Tuy nhiên, các đề xuất của các nước đang phát triển đã không được đưa
vào Dự thảo Derbez và trong dự thảo này cũng không có các thời hạn cụ thể đối
với các nhiệm vụ đàm phán về vấn đề thực hiện và vấn đề S&D.
5. Dịch vụ:
Như đã đề cập, đàm phán Doha về dịch vụ là tiếp tục nhiệm vụ của Vòng
Urugoay được nêu tại Hiệp định GATS (Điều XIX). Cho tới nay, có thể nói đàm
phán trong lĩnh vực dịch vụ là "thuận buồm xuôi gió" hơn cả bởi lẽ lĩnh vực này
đã có phương thức đàm phán(Bản hướng dẫn và trình tự về đàm phán dịch vụ
ngày 28/3/2001 của Hội đồng Thương mại Dịch vụ). Nhiệm vụ đàm phán Doha

về dịch vụ chỉ đơn thuần là: trên cơ sở phương thức đàm phán, các thành viên sẽ
đưa ra Biểu cam kết cụ thể của mình thông qua cách thức đàm phán dịch vụ
thông thường là "yêu cầu "và "bản chào".
Thực tế cho thấy khâu khó khăn nhất và phức tạp nhất trong toàn bộ quá
trình đàm phán Doha là đàm phán để đi đến thống nhất về phương thức đàm
phán trong các lĩnh vực. Do đã có phương thức đàm phán, nên đến nay đàm
phán về vấn đề dịch vụ đã không trở nên gay cấn như các lĩnh vực khác. Tại
Cancun, các thành viên đã không đả động gì đến lĩnh vực đàm phán dịch vụ.
Kết luận chung:
Mục đích của Hội nghị Cancun là rà soát và có chỉ đạo để tiếp tục tiến
trình đàm phán Doha. Trong thực tế, hội nghị đã không đạt được mục đích đề ra.
Các Bộ trưởng WTO đã không đạt được bất kỳ sự đồng thuận nào đáng kể để
định hướng cho đàm phán tiếp theo. Tuyên bố Cancun chỉ bao gồm 6 điểm vẻn
vẹn trong chưa đầy nửa trang A4 với mục đích duy nhất là: các Bộ trưởng WTO
thể hiện quyết tâm hoàn thành các nhiệm vụ đàm phán của Vòng Doha đúng
thời hạn đã tuyên bố. Đây là một bước lùi trong tiến trình đàm phán Doha.
Tuy nhiên, hội nghị đã cho thế giới thấy rõ hơn quan điểm của nhóm
nước phát triển và đang phát triển cũng như sự bất đồng quan điểm sâu sắc giữa
5

×