Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.09 KB, 20 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy văn trong nhà trường THCS là môn học rất quan trọng và thiết thực đối với
học sinh hiện nay. Dạy như thế nào cho có hiệu quả cao, tạo sự hứng thú say mê cho
học sinh quả là một vấn đề rất lớn, có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh không
muốn học môn Văn . Vì vậy tôi đưa ra một số vấn đề, để nâng cao hiệu quả giờ học
Văn.
- Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục Đào tạo có nhiều tài liệu bồi dưỡng cho
giáo viên Ngữ văn theo tinh thần đổi mới.
- Vấn đề “ Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học Văn ” được nhiều nhà giáo, các
nhà nghiên cứu quan tâm và có nhiều bài viết đạt chất lượng.
Đó là những định hướng phương pháp dạy học cơ bản giúp giáo viên vận dụng
vào quá trình dạy học Ngữ văn Trung học cơ sở.
Người viết trên cơ sở kế thừa phương pháp giáo dục đã được định hướng kết
hợp với việc học hỏi đồng nghiệp, sự trải nghiệm của bản thân muốn qua đề tài này
được cùng các đồng chí và các bạn chia sẻ kinh nghiệm “ Nâng cao hiệu quả giờ
dạy và học Văn ” ở trường THCS.
* Căn cứ vào yêu cầu phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung và phân
môn văn nói riêng.
- Cùng với mối quan tâm chung về chất lượng giáo dục, lâu nay dư luận đang
rất quan tâm đến vấn đề dạy văn, học văn trong nhà trường. Ai cũng muốn giờ dạy
văn phải hấp dẫn hơn cuốn hút học sinh và hiệu quả hơn.
- Đổi mới dạy học bằng đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của đất nước trong giai
đoạn mới là yêu cầu và cũng là niềm mong mỏi của đội ngũ GV và cán bộ quản lý
giáo dục.
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
dộng, sáng tạo của người học; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho người học”.
Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn không nằm ngoài những định hướng


đổi mới nói trên.
- Mục tiêu năm học 2011 – 2012 đã được xác định: giảm căng thẳng, khơi dậy
hứng thú học tập, khả năng hoạt động sáng tạo tích cực của học sinh.
* Căn cứ vào những khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả giờ dạy và học
Văn
Hiện nay, số học sinh thích học môn Văn chưa nhiều. Một số không nhỏ học sinh
không thích học Văn và yếu kém về năng lực cảm thụ văn chương. Điềuđó thể hiện
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
1
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
qua những giờ học ở lớp và qua những bài kiểm tra, bài thi khiến các thầy cô chấm
bài phải cười ra nước mắt.
- Về phía học sinh, phần lớn các em chưa thực sự hài lòng với cách dạy Văn
của các thầy cô. Theo phản ánh của không ít học sinh, các giờ lên lớp của thầy cô
giáo dạy môn Ngữ văn không tạo được ấn tượng cho các em.
- Như vậy, cả thầy trò đều cảm thấy chưa thực sự thoải mái. Trò mong muốn ở
thầy cần có những giờ dạy văn hấp dẫn hơn, còn ở thầy cũng đòi hỏi trò phải say mê
và có thái độ đúng đắn đối với môn học này.
Dù giáo viên vẫn được thường xuyên tập huấn, thao giảng cụm, dự giờ thăm
lớp ở trường… nhưng dường như vẫn còn những điều đáng bàn về phương pháp dạy
học văn.
Từ đó, tôi nhận thấy cần phải làm thế nào để nâng cao chất lượng giờ học Ngữ
văn nhằm gây hứng thú và phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong giờ học
văn. Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài “ Nâng cao hiệu quả giờ dạy và
học Văn ” để nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn ở
trường THCS.
1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Rút ra một số nguyên nhân khiến giờ dạy và học Văn hiệu quả chưa cao.
2. Đề xuất một số kinh nghiệm về nâng cao hiệu quả giờ dạy học Văn.
2. ĐỐI TƯỢ NG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Đối tượng nghiên cứu học sinh học lớp 6, 7, 8, 9 trường THCS Nguyễn Kim
Vang.
- Phạm vi nghiên cứu: học sinh lớp 9 trường THCS Nguyễn Kim Vang.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Tìm hiểu tình hình dạy và học Văn ở trường THCS (chủ yếu ở lớp 9).
2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hiệu quả giờ dạy và học văn chưa cao.
3. Rút ra một số kinh nghiệm dạy và học văn.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp.
- So sánh, phân loại, đối chiếu.
- Phương pháp hổ trợ, đọc tài liệu, thăm dò ý kiến học sinh
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Đề tài nghiên cứu của tôi góp phần tìm hiểu sâu hơn và bổ sung thêm về
phương pháp để nâng cao hiệu quả giờ học văn.
Ngoài ra nó còn là tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy của
giáo viên trong nhà trường THCS.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
2
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1/ Khái niệm liên quan
“ Văn học là nhân học ”. Văn học có vai trò quan trọng trong đời sống và phát
triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn
có tầm quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh. Học tốt môn
văn sẽ tác động học tốt môn khác và ngược lại môn khác giúp học tốt môn văn. “
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ dộng, sáng
tạo của người học; phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng học sinh; bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho người học ”.
2/ Cơ sở lí luận

Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS có nhiều thay đổi. Trong giai đoạn
này, hứng thú về học tập của các em đã phát triển và ngày càng rõ nét. Đây là một
đặc điểm hết sức thuận lợi trong việc dạy học bộ môn Ngữ văn. Bên cạnh đó ý thức
tự lập và khả năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống là một ưu điểm
điển hình của học sinh bậc THCS. Song song với những ưu điểm trên, một số em còn
rút rè e ngại,đôi lúc còn nản chí trong việc tiếp cận với một văn bản khó. Vậy làm thế
nào để tiết học Ngữ văn thật sự có hiệu quả và thu hút học sinh say mê học tập ?
Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất
gần gũi với con người. Những văn bản hay, hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là
giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá điều kì diệu của cuộc sống con người.
Vì vậy để cho học sinh yêu thích giờ học văn là một việc làm cần đòi hỏi người thầy
phải chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc tìm tòi phương pháp truyền đạt thật
hiệu quả mới thu hút được học sinh đối với môn học.
3/ C Ơ SỞ THỰC TIỄN
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học, đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt
tình, quan tâm đến học sinh và biết kết hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học
trong một tiết dạy. Giáo viên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở định hướng cho học sinh tự
tìm hiểu, cảm thụ tác phẩm, để tạo tâm thế trong giờ học văn, gây hứng thú, kích
thích tính chủ động, sáng tạo, giúp các em không những yêu thích mà còn học khá,
học tốt môn Văn.
THỰC TRẠNG
1. Vẫn còn những giờ học nặng nề, học sinh luôn phải đối mặt với nhiều câu
hỏi liên tiếp; có những câu hỏi quá khó, không phù hợp với trình độ nhận thức của
học sinh hoặc câu hỏi không rõ, có nhiều câu hỏi vụn vặt, câu hỏi xa rời trọng tâm.
Học sinh như bị đưa vào “ mê trận ”, không hình dung nổi đâu là trọng tâm bài học.
Học sinh quay cuồng trong những câu hỏi, thót tim vì sợ bị giáo viên gọi trả lời.
Chính vì vậy mà học sinh không còn cảm hứng trong giờ học văn.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
3
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”

Trong quá trình giảng dạy, một số giáo viên chỉ mới chú ý đến các đối tượng:
yếu, kém, trung bình mà chưa quan tâm đến đối tượng học sinh khá giỏi nên không
phát hiện được những học sinh có khả năng cảm thụ văn chương.
2. Giáo viên chưa sử dụng câu hỏi gợi mở để những học sinh yếu, được tham
gia vào tiết học. Các em gần như bị đứng ngoài cuộc, cả lớp chỉ vài ba em trả lời.
3. Những ý kiến học sinh đưa ra chưa được sự động viên khuyến khích của
giáo viên.
Hạn chế này là do người dạy chưa sử dụng tốt các phưong pháp dạy học.
Trước đây mọi người đều cho rằng văn bản chỉ có một ý nghĩa duy nhất và đều tìm
cách tiếp cận cái ý nghĩa duy nhất ấy. Nhưng không có một tác phẩm xuất sắc nào lại
chỉ đóng khung trong một cách hiểu duy nhất. Có nhiều cách hiểu khác về một văn
bản: có ý nghĩa do tác giả dụng ý biểu đạt trong văn bản, có ý nghĩa do cấu tạo của
văn bản gợi lên, có ý nghĩa do người đọc liên hệ, suy diễn hay áp đặt cho nó. Vì vậy,
việc phủ nhận những ý nghĩa phù hợp với văn bản do học sinh phát hiện ra sẽ làm
mất đi hứng thú sáng tạo, phát hiện của các em.
4. Thảo luận còn mang tính hình thức
+ Một giờ học văn đưa ra quá nhiều câu hỏi thảo luận. Cảm thụ văn bản ( nhất
là văn bản nghệ thuật) thuộc về khả năng của mỗi cá thể học sinh. Do vậy hoạt động
cá nhân tự bộc lộ phải là hình thức dạy học thường xuyên hàng đầu.
+ Câu hỏi thảo luận không có sức thu hút học sinh: quá đơn điệu, quá dễ hoặc
quá khó với khả năng học sinh. Ví dụ: Câu thơ “ Vầng trăng đi qua ngõ - Như người
dưng qua đường ” ( Ánh trăng - Nguyễn Duy ) sử dụng biện pháp tu từ gì ?
5. Các phương pháp và hình thức dạy học chưa phong phú. Hoạt động chủ yếu
là hỏi, trả lời, vài lần thảo luận nhóm.
6. Giáo viên chưa chú ý đến ngữ điệu văn chương. ( đặc biệt đối với các văn
bản trữ tình )
7. Về phía học sinh:
- Không đọc kĩ trước văn bản, chuẩn bị bài ở nhà còn mang tính đối phó (Chép
ở sách tham khảo).
- Những kiến thức để đọc – hiểu văn bản còn thiếu hụt (Tiếng Việt, Văn học,

Lịch sử…)
GIẢI PHÁP THAY THẾ
1. Xác định những điểm mới về nội dung của phân môn văn học trong chương
trình sách giáo khoa ngữ văn.
2. Xác định nội dung, chương trình của phân môn văn học trong từng lớp.
3. Giờ văn đó phải tạo nên tâm lí thoải mái, nhẹ nhàng cho cả người dạy và
người học.
4. Học sinh được khơi gợi hứng thú, say mê có nhu cầu khám phá.
5. Học sinh có tình cảm, thái độ đúng đắn trước những con người, sự việc, vấn
đề… mà tác phẩm phản ánh.
6. Học sinh biết lấy tác phẩm để soi vào cuộc sống bản thân, bạn bè, những
người xung quanh…. Học được ở đó bao điều tốt đẹp.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
4
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
Sau đây là cụ thể hóa về một số giải pháp:
1. Xác định những điểm mới về nội dung của phân môn văn học trong
chương trình sách giáo khoa Ngữ văn.
a. Về tên gọi đọc hiểu văn bản:
Một nhiệm vụ quan trọng của việc dạy học Ngữ văn là tập trung thực hành cho
học sinh cách đọc văn bản, để dần dần các em có thể tự đọc - hiểu tác phẩm văn học
một cách đúng đắn, khoa học. Phân môn văn học trong chương trình Ngữ văn hiện
nay có một số điểm đáng lưu ý:
- Thứ nhất, giờ văn theo cách trình bày của sách giáo khoa Ngữ văn được gọi
là giờ đọc hiểu văn bản. Như vậy, khi dạy các tác phẩm văn học trong chương trình,
giáo viên cần hiểu đặc điểm về tên gọi của phân môn. Chính là muốn khẳng định
công việc lao động của học sinh, muốn hướng tới người học, coi người học là trung
tâm, phát huy chủ động, tích cực, sáng tạo của người học.
- Thứ hai, nói đọc hiểu văn bản còn có ý nghĩa khẳng định bản chất dạy - học
văn trong nhà trường phổ thông là hướng dẫn đọc hiểu văn bản: cách đọc, cách tiếp

cận, cách giải mã. Tất nhiên chúng ta cần lưu ý rằng đọc hiểu văn bản không có nghĩa
là thủ tiêu vai trò của người thầy, mà khẳng định vai trò của người thầy, tạo nên vị trí
của người thầy trong giờ đọc hiểu văn bản. Người thầy ở đây có tư cách là một người
hướng dẫn học sinh trong cuộc tranh luận để giải mã vấn đề. Vấn đề cần quan tâm là
người thầy hướng dẫn như thế nào cho phù hợp để học sinh hiểu bài học.
b. Các bước dạy - đọc hiểu văn bản:
- Để có thành công trong giờ đọc hiểu văn bản, giáo viên cần lưu ý các bước
sau:
* Thứ nhất: xác định tìm hiểu những thông tin, kiến thức ngoài văn bản nhưng
có liên quan đến văn bản.
- Câu hỏi tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản.
+ Hỏi về tác giả: cuộc đời, sự nghiệp.
+ Hỏi về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
* Thứ hai:
+ Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản.
+ Hướng dẫn học sinh phát hiện và phân tích các yếu tố nghệ thuật của văn bản
bằng hệ thống câu hỏi mang tính tích hợp với các phân môn Tiếng Việt và tập làm
văn.
- Câu hỏi dạng đọc hiểu:
+ Hỏi về thể loại.
+ Hỏi về vai trò, tác dụng của thể loại.
- Câu hỏi tìm hiểu, cảm thụ văn bản:
+ Câu hỏi đọc lướt, đọc thông: tìm bố cục, tóm tắt văn bản, thống kê nhân vật
(đối với văn bản tự sự), nêu cảm nhận chung về văn bản.
+ Câu hỏi đọc sâu, cảm nhận về ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu, các
biện pháp tu từ, đối với văn bản trữ tình.
2. Xác định nội dung, chương trình của phân môn văn học trong từng lớp
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
5
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”

a. Về thời lượng: Thời lượng dành cho môn Văn học từ lớp 6 đến lớp 9 được
chia thành 2 vòng theo trục đồng tâm. Vòng 1 thuộc lớp 6,7; vòng 2 thuộc lớp 8, 9.
Số tiết của phân môn này được phân phối như sau:
THỐNG KÊ SỐ GIỜ PHÂN MÔN VĂN HỌC TỪ LỚP 6 ĐẾN LỚP 9
Lớp Tự sự Trữ tình Nghị
luận
Kịch Văn bản
nhật
dụng
Chương
trình địa
phương
Ôn tập
tổng kết
Tổng
6 36 4 5 2 2 49
7 9 22 7 2 5 2 2 49
8 17 12 7 2 5 2 4 49
9 31 16 10 5 8 2 8 80
TC 93 54 24 9 23 8 16 227
b. Về hệ thống văn bản chung:
Chương trình văn bản hiện nay được xây dựng theo thể loại phù hợp với các
kiểu văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận. Vì vậy, người giáo
viên cần nắm vững hệ thống văn bản chung để có thể vận dụng thích hợp với các
phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn.
Ví dụ: ở chương trình lớp 6, nội dung học về văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị
luận chủ yếu tập trung vào các kiến thức cơ bản như: khái niệm, sự kiện và nhân vật,
chủ đề và dàn bài, lời văn, đoạn văn, ngôi kể, thứ tự kể. Sang lớp 8 và 9, nội dung
học về văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận được mở rộng, nâng cao hơn, tức là đã
đề cập đến những vấn đề khó như: yếu tố biểu cảm và lập luận trong văn bản tự sự,

yếu tố miêu tả, tự sự trong văn bản nghị luận
3. Giờ văn đó phải tạo nên tâm lí thoải mái, nhẹ nhàng cho cả người dạy
và người học
Điều đó thể hiện ở nhiều phương diện: giọng nói của thầy nhẹ nhàng, lượng
kiến thức nhẹ nhàng, lượng câu hỏi vừa phải. Học sinh có giây phút được lắng đọng
trong cảm xúc của tác phẩm, được suy nghĩ về một vấn đề các em muốn tự mình
khám phá… Các hoạt động của giờ học phải diễn ra thật tự nhiên không hề gò ép,
khiên cưỡng.
4. Học sinh được khơi gợi hứng thú, say mê, có nhu cầu khám phá
Nói như nhà văn Tạ Duy Anh thì “bản chất của việc học văn là khám phá
những bí mật về vẻ đẹp: khám phá những bí mật về con người, khám phá sự kì lạ của
ngôn ngữ… khi đó mỗi giờ học văn giống như một cuộc thám hiểm vào những miền
đất mới luôn hứa hẹn vô số bất ngờ thú vị”. Người thầy phải là người hướng các em
đi đến những miền đất ấy.
5. Học sinh có tình cảm, thái độ đúng đắn trước những con người, sự việc,
vấn đề… mà tác phẩm đề cập, phản ánh
Đó là những tình cảm, thái độ: vui – buồn, yêu – ghét, yêu thương – căm thù, ca
ngợi – phê phán…. Thương “ Cô bé bán diêm ” chết vì đói rét giữa đêm giao thừa,
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
6
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
bất bình trước thái độ thờ ơ, ích kỉ của con người trước nỗi đau đồng loại… Ngưỡng
mộ,
trân trọng lẽ sống “Lặng lẽ dâng cho đời” của những con người mới nơi Sa Pa thơ
mộng ( Lặng lẽ Sa Pa )… Xúc động bởi dòng cảm xúc dạt dào của tình bà cháu
( Bếp lửa)… Nghĩ suy về những lời cha nói với con ( Nói với con).
Thật đáng tiếc khi học những áng văn “ sống mãi với thời gian ” ấy mà các
em thờ ơ không mấy xúc động.
6. Học sinh biết soi từ tác phẩm vào cuộc sống bản thân, bạn bè, những
người xung quanh… Học được ở đó bao điều tốt đẹp

Một trong những yêu cầu đổi mới của dạy học chính là “ Làm cho việc học gắn
với môi trường thực tế, gắn với kinh nghiệm sống của cá nhân người học, tạo điều
kiện cho người học có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào những tình huống khác
nhau trong học tập và thực tiễn cuộc sống ”.
( Đổi mới PPDH môn Ngữ văn THCS – Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Thuý Hồng ).
Từ văn bản “ Ca Huế trên sông Hương ”, học sinh thêm yêu những khúc dân
ca quê mình, trân trọng giữ gìn bản sắc văn hoá có từ bao đời. Từ lời người cha “ Nói
với con ”, các em tìm thấy ở đó lời nói với chính mình về tình cảm gia đình, tình yêu
quê hương, ý thức gắn bó cội nguồn, ý chí vươn lên trong cuộc sống…
Nhưng môn văn không phải là những lời giáo huấn khô khan, gượng ép,… mà lay
động tâm hồn con người rất tự nhiên, tinh tế và tràn đầy cảm xúc. Tự các em thấy
mình phải như thế, nên như thế, ước ao được như thế… Không cần lúc nào phải nói
ra mà tự nhủ trong lòng. Đó là sự thành công của giờ học văn.
7. Một điều rất quan trọng đó là từ một giờ dạy học văn cụ thể, học sinh
hiểu thêm cách học văn để dần dần các em có thể tự đọc – hiểu tác phẩm văn
học một cách khoa học, đúng đắn.
“ Hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều
hơn ” ( A. Kômenxki ). Tên gọi “ Đọc – Hiểu văn bản ” đã lưu ý giáo viên về mặt
phương pháp, không chỉ giúp học sinh nắm những kiến thức cụ thể về nội dung cũng
như nghệ thuật của một văn bản nhất định mà còn giúp học sinh nắm được đặc điểm
của kiểu văn bản để từ đó cách đọc – hiểu thích hợp với kiểu văn bản.
MỘT SỐ KINH NGHIỆM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY VÀ HỌC VĂN
1/ Trước khi tìm hiểu văn bản, giáo viên cũng cho học sinh xác định thể loại.
Nhưng qua nhiều tiết học được dự, tôi thấy sau khi xác định tác phẩm thuộc thể thể
loại gì, giáo viên chuyển sang phần khác học sinh chưa hiểu xác định thể loại để làm
gì. Và sau khi học xong văn bản, giáo viên vẫn chưa lưu ý cho học sinh cách khám
phá văn bản theo thể loại đó. Như vậy mặc dù được học nhiều bài thơ, nhiều truyện
ngắn, nhiều văn bản nghị luận… học sinh vẫn còn lúng túng khi phải tự đọc – hiểu
một văn bản nào đó.

Một trong những nguyên lí của việc đọc – hiểu văn bản là đọc tác phẩm theo
đặc trưng thể loại. Đọc – hiểu văn bản không chỉ nhằm tiếp nhận giá trị riêng của một
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
7
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
văn bản cụ thể. Với vị trí tiêu biểu cho một thể loại nào đó, việc tiếp nhận mỗi văn
bản đều bao hàm sự định hướng về cách thức tiếp cận kiến thức của thể loại hoặc
kiểu bài văn.
Như vậy, khi tìm hiểu một văn bản, giáo viên cần khắc sâu kiến thức về thể
loại đã học, cách tiếp cận, khám phá văn bản để học sinh có thể vận dụng với một văn
bản có cùng thể loại.
* Tổ chức cho học sinh khám phá tác phẩm theo một thể loại nào đó là giúp học
sinh trả lời được câu hỏi: cần dựa vào những yếu tố nào để tìm ra nội dung và ý nghĩa
văn bản.
+ Với kiểu văn bản trữ tình: Yếu tố quan trọng về nội dung là cảm xúc của
nhân vật trữ tình. Yếu tố quan trọng về nghệ thuật là từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, vần
điệu câu thơ, các biện pháp tu từ.
+ Với kiểu văn bản tự sự: Yếu tố quan trọng là các sự kiện, nhân vật, các tính
cách, là ngôn ngữ tự sự, tình huống, kịch tính…
+ Với kiểu văn bản nghị luận: là trình tự lập luận mối quan hệ giữa các lập luận:
Sau khi học bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ ”, cần khắc sâu cho học sinh chú ý khai
thác cảm xúc của nhân vật trữ tình với các cung bậc cảm xúc. Ban đầu sự tác động
vào xúc cảm nhân vật thường là những gì gần gũi nhất, dễ tác động vào các giác quan
con người.
Cụ thể: khổ thơ đầu đi từ cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên với dòng sông,
bông hoa, tiếng chim hót rồi những khổ tiếp theo mở rộng thành cảm xúc trước mùa
xuân của đất nước. Những khổ cuối trở về với mùa xuân trong tâm hồn nhà thơ.
Học sinh sẽ không còn bỡ ngỡ khi tìm hiểu những bài thơ tiếp:
- Bài “ Viếng lăng Bác ”: từ cảm xúc trước hàng tre bên lăng Bác tới mùa
xuân về cuộc đời Bác và tình cảm của nhân dân dành cho Bác rồi khổ cuối lắng đọng

những tình cảm, ước nguyện thiết tha của nhà thơ.
- Bài “Sang thu”: cảm xúc được khơi lên từ hương ổi gần gũi quen thuộc trong
một ngõ nhỏ rồi mở rộng trong không gian bao la ( dòng sông, cánh chim, đám
mây…) và khép lại bằng những suy ngẫm của nhân vật trữ tình.
Ví dụ 2 : Đọc văn bản “ Làng ” – Kim Lân
Sau khi xác định thể loại : Truyện ngắn
- GV đặt câu hỏi: tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm tự sự em cần khai thác
những yếu tố nào ?
- Học sinh đưa ý kiến ( có thể còn thiếu thì giáo viên bổ sung ):
+ Tình huống truyện để nhân vật bộc lộ, để thử thách nhân vật.
+ Nội tâm
+ Ngôn ngữ
+ Xác định cách tiếp cận văn bản.
+ Tìm hiểu tình huống: cuộc gặp gỡ giữa các nhân vật phụ với nhân vật anh
thanh niên. Qua cái nhìn và cảm nghĩ của các nhân vật, anh thanh niên hiện lên như
một bức chân dung tuyệt đẹp.
+ Tìm hiểu nhân vật qua hoàn cảnh sống và làm việc, những suy nghĩ, việc
làm, cách sống, tình cảm và quan hệ với mọi người.
+ Hành động.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
8
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
2. Xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí trên cơ sở mục tiêu cần đạt
2.1. Xác định mục tiêu cần đạt (Về nội dung và nghệ thuật) từ đó phác
thảo hệ thống.
* Ví dụ: Văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”

a. Biểu hiện sự hợp lí, hấp dẫn của hệ thống câu hỏi: Dựa trên hệ thống các ý,
giáo viên phác thảo hệ thống câu hỏi. Như vậy hệ thống câu hỏi sẽ luôn hướng về
trọng tâm.

2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí, hấp dẫn
+ Tính trọng tâm: các câu hỏi đều phải hướng về trọng tâm, phục vụ cho mục
tiêu cần đạt.
+ Tính liên kết: các câu hỏi phải gắn kết với nhau hợp lí, không lộn xộn. Trả
lời câu hỏi đó có nghĩa là đã hình thành được nội dung chính của bài.
+ Tính chắt lọc: Không ôm đồm, nhiều câu hỏi lan man, nhiều câu hỏi phát
hiện quá dễ làm mất thời gian, học sinh không tập trung. Chắt lọc câu hỏi sẽ tạo nên
sự nhẹ nhàng cho giờ học.
+ Tính phân hoá: Phân hoá thành nhiều mức độ giúp cho mọi đối tượng học
sinh đều được tham gia vào bài.
+ Tính hấp dẫn: Đó là những câu hỏi phải đạt được yêu cầu: độc đáo, mới, lạ,
kích thích sự cảm thụ, thu hút sự chú ý, khả năng thích nghĩ, thích nói của trò. Có thể
sử dụng câu hỏi nêu giả định đảo ngược để tạo không khí tranh luận. Đảo ngược cũng
là cách lạ hoá cho cách nhìn, cách nghĩ về đối tượng nhận thức.
* Ví dụ: Ta thử đặt ra hai cách kết thúc: một kết thúc như truyện (Vũ Nương
không trở về). Một kết thúc: Vũ Nương được về với Trương Sinh và con. Em nghĩ
xem kết thúc nào hay hơn, làm cho ý nghĩa câu chuyện sâu sắc hơn? Vì sao ?
b. Ví dụ hệ thống câu hỏi cho “ Chuyện người con gái Nam Xương ”
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
9
- Số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
- Nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật, yếu tố kì ảo.
Nguyên
nhân nỗi
oan
(Thắt nút,
kịch tính)
Tự minh
oan bằng
cái chết

(nút thắt
đỉnh điểm)
Nỗi oan
sáng tỏ
bằng cái
bóng
(mở nút)
Cuộc sống
dưới thuỷ
cung, khát
vọng giải
oan
(Yếu tố kì
ảo)
Oan tình
được giải,
Vũ Nương
vẫn không
trở về
(Tính bi
kịch yếu tố
kì ảo)
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
?1. Tình huống nào đã khiến bản tính ghen tuông của Trương Sinh có cơ hội
bùng nổ? Tình huống ấy có vai trò gì trong câu chuyện về cuộc đời Vũ Nương ?
?2. Em có suy nghĩ gì về cách tự minh oan của Vũ Nương? (Nó có mang tính
tích cực không? Nàng có cách giải oan, thanh minh nào khác không ?)
?3. Hình tượng cái bóng có ý nghĩa gì cho câu chuyện ?
?4. Hãy chỉ ra những chi tiết kì ảo của truyện truyền kì trong truyện? Tác dụng
của những chi tiết đó.

?5. Ta thử đặt ra 2 cách kết thúc: một kết thúc như truyện (Vũ Nương không
trở về), một kết thúc là Vũ Nương được về với Trương Sinh và con. Em nghĩ xem kết
thúc nào hay hơn, làm cho ý nghĩa câu chuyện sâu sắc hơn? Vì sao ?
Từ việc đọc – tìm hiểu văn bản bằng trả lời các câu hỏi học sinh sẽ giải mã
được ý nghĩa của văn bản. Đó là:
1. Nghệ thuật dựng truyện (tạo tình huống truyện) hấp dẫn.
2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
- Trương Sinh xử sự hồ đồ, độc đoán; xã hội phong kiến xem trọng quyền uy
của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình.
3. Vũ Nương dùng cái chết để tự minh oan, đó là sự đầu hàng số phận, chưa
thực sự đấu tranh để chống lại số phận, giành lại hạnh phúc cho mình. Nhưng nàng
không có cách nào khác vì lễ giáo phong kiến.
4. Hình tượng cái bóng là chi tiết nghệ thuật vừa có tính thắt nút và giải nút
cho câu chuyện.
5. Dù câu chuyện có kết thúc phần nào có hậu, Vũ Nương được ở trong một
thế giới khác nhưng tất cả chỉ là ảo ảnh. Người đã chết không thể sống lại được hạnh
phúc thực sự đâu còn có thể làm lại được. Đó chính là bi kịch cuộc đời số phận người
phụ nữ vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái lung linh kì ảo ấy.
c. Xây dựng một số câu hỏi gợi mở
Không phải mọi câu hỏi mà giáo viên đưa ra học sinh đều trả lời ngay mà các
em còn phải suy nghĩ. Giáo viên phải có cách gợi mở, dẫn dắt suy nghĩ cho học sinh
bằng các câu hỏi gợi mở (như thêm dữ kiện để học sinh dễ trả lời, thay đổi trật tự kết
cấu câu hỏi)
* Ví dụ:
? Hình ảnh Vũ Nương giữa dòng sông lúc ẩn lúc hiện nói lời vĩnh biệt “Đa tạ
tình chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” và “bóng nàng loang loáng mờ
nhạt dần mà biến đi mất” để lại cho em cảm nghĩ gì?
Giáo viên gợi:
- Cảm nghĩ gì về số phận “ Người con gái Nam Xương ” ?
- Cái giá phải trả của Trương Sinh ?

- Tình cảm tác giả dành cho nhân vật ?
3. Vận dụng các phương pháp dạy học hợp lí
Có nhiều phương pháp dạy học văn, trong đề tài này, tôi chỉ xin đề cập đến
một số kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học văn để học sinh tích cực hứng
thú học tập.
3.1. Phương pháp vấn đáp gợi tìm
Bản chất của phương pháp này là sử dụng một hệ thống câu hỏi để gợi học sinh
tìm tòi suy nghĩ nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Giáo viên không trực
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
10
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
tiếp đưa ra kiến thức mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để tự hoàn thành kiến
thức.
Các bước tiến hành : Ví dụ khi tìm hiểu khổ cuối bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt:
* Bước 1: Xác định yêu cầu cần đạt sau khi vấn đáp
VD: Tình cảm của cháu dành cho bà, rộng hơn là tình yêu đất nước, tình cảm
cội nguồn.
* Bước 2: Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với việc tìm hiểu nội dung đó.
Ví dụ
?1. Cháu đã đi xa là cháu ở nơi nào? cuộc sống nơi đó có gì khác nơi quê nhà ?
(câu hỏi tái hiện, so sánh)
?2. Câu hỏi ở cuối bài thơ có tác dụng gì ? (câu hỏi phân tích giá trị nghệ thuật)
- Không chỉ dừng lại ở ý nghĩa bề mặt câu chữ, giáo viên nên gợi cho học sinh
ý nghĩa sâu xa hơn mà tác giả gửi gắm.
?3. Đằng sau nỗi nhớ bà, nhớ bếp lửa quê nghèo lam lũ, người đọc còn tìm
thấy ở đây một nỗi niềm, một tình cảm sâu xa nào ở người cháu ?
- Đó là tình cảm thuỷ chung, gắn bó với cội nguồn dù quê hương, đất nước.
GV: Như vậy, từ tình yêu nỗi nhớ bà và một bếp lửa cụ thể, Bằng Việt đã gợi
cho ta tình yêu cội nguồn, tình yêu quê hương, tổ quốc.
Để học sinh tiếp tục rộng mở cánh cửa tâm hồn, có sự đồng điệu với tác giả,

giáo viên có thể thêm câu hỏi giả định:
?4. Nếu một ngày nào đó, em cũng rời làng quê đến một nơi phồn hoa xa xôi,
thì bài thơ này sẽ có ý nghĩa gì với em ?
Câu hỏi 1: ưu tiên cho học sinh yếu, trung bình yếu.
Câu hỏi 2: dành cho học sinh trung bình trả lời.
Câu hỏi 3: nên gọi học sinh khá giỏi
Câu hỏi 4: dành cho các đối tượng học sinh.
Nghĩa là, với mỗi mức độ của câu hỏi cần xác định nên gọi đối tượng nào trả
lời để các loại đối tượng đều được tham gia. Các em học yếu, trung bình, khá, giỏi
đều được phát huy vai trò của mình trong việc tham gia xây dựng bài. Tất nhiên, nêu
học sinh yếu, trung bình muốn được trả lời các câu hỏi khó hơn cũng nên khuyến
khích các em. Nên xây dựng những câu hỏi mang tính chất tư duy, cảm thụ, khái
quát, giảm những câu hỏi phát hiện để học sinh được phát triển năng lực tư duy, cảm
thụ.
3.2. Phương pháp dùng lời (Giảng bình)
- Nhiều giáo viên đã vận dụng đổi mới thái quá biểu hiện ở việc hầu như chỉ
đưa ra các câu hỏi, hướng dẫn học sinh thảo luận mà quên đi việc thêm những lời
bình giảng vào giờ dạy.
- Nếu bình, giảng đúng lúc, đúng chỗ sẽ có tác dụng hỗ trợ, gây lòng tin và
hứng thú thẩm mĩ cho người học. Thậm chí lời bình hay còn góp phần rèn kĩ năng
cảm thụ văn chương, kĩ năng biết nghe những lời hay ý đẹp, từ đó làm nảy sinh tình
yêu tác phẩm văn học.
Để học sinh được phát huy năng lực cảm thụ cùng hứng thú với tác phẩm, giáo
viên cần hướng dẫn học sinh tự biết bình các chi tiết, hình ảnh nghệ thuật có giá trị.
Điều này rất cần thiết giúp cho học sinh viết văn tốt hơn.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
11
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
- Ở đây, tôi muốn nói đến việc khuyến khích học sinh có những lời bình (bộc
lộ sự rung động,say mê, sự cảm kích, cảm phục của mình trước các bình diện nào đó

của áng văn, bài thơ, trước tâm hồn và tài hoa của tác giả ). Trong các giờ văn, lời
bình hầu như chỉ xuất hiện ở phía giáo viên (thầy nói cái hay mà trò cảm nhận được
cho học sinh nghe). Học sinh chưa được chú ý, phát huy khả năng này.
Để học sinh được phát huy năng lực cảm thụ cùng hứng thú với tác phẩm, giáo
viên cần hướng dẫn học sinh tự biết bình các chi tiết, hình ảnh nghệ thuật có giá trị.
Điều này rất cần thiết giúp cho học sinh viết văn tốt hơn.
* Ví dụ: Hướng dẫn học sinh bình về lẽ sống “ lặng lẽ dâng cho đời ” trong
bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải - Nhà thơ Thanh Hải sắp từ giã cõi đời
nhưng vẫn không ngừng khát khao cống hiến cho cuộc đời. Em có cảm nghĩ gì về lẽ
sống ấy, hãy nói cho các bạn cùng nghe ?
- Em có thể dùng câu bộc lộ cảm xúc đánh giá về lẽ sống ấy ? Hoặc đưa ra một
hình ảnh so sánh để làm đẹp hơn lẽ sống ấy ?
Học sinh đưa ra lời bình, giáo viên nhận xét.
3.3 Thảo luận nhóm
- Hình thức thảo luận nhóm chỉ xuất hiện khi
- Có những phạm vi kiến thức mang tính khái quát
- Tránh tình trạng chỉ có học sinh khá giỏi làm việc một nhóm.
+ Bước 1: Mỗi học sinh trong nhóm đều đưa ra ý kiến trên phiếu học tập của
mình. (để mọi đối tượng học sinh đều được tham gia )
+ Bước 2: Nhóm trưởng tập trung các phiếu và điều hành nhóm.
+ Bước 3: Các nhóm đi đến thống nhất, cử đại diện trình bày.
+ Bước 4: Giáo viên là người chốt lại bằng đáp án chuẩn.
4. Đa dạng các hình thức dạy học
4.1 Kể một câu chuyện nhỏ về tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm, đọc
đoạn thơ, đoạn văn mình thích nhất. (giáo viên và học sinh cùng tham gia)
Đây là những hình thức hoạt động khiến học sinh hào hứng và nhiệt tình tham
gia. Giáo viên có thể cho điểm để khuyến khích các em.
Để có những câu chuyện hay về tác giả và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm, giáo
viên cần tích cực sưu tầm.
Ví dụ: Câu chuyện về tác giả Thanh Hải – người sáng tác “ Mùa xuân nho nhỏ ”

Được tập kết ra Bắc năm 1959 (tuổi 20) nhưng Thanh Hải vẫn xin ở lại miền
Nam chiến đấu. Ông sống cùng đồng bào Tà ôi, Vân Kiều ăn củ nâu, củ chuối thay
cơm. Cuộc đời bao gian khổ nhưng ông vẫn kiên cường. Khi vào tuổi 50 (tóc bạc),
ông lâm bệnh nặng, sự sống chỉ tính bằng giờ, bằng phút. Nhạc sĩ Trần Hoàn, người
bạn thân thiết của ông khuyên ông hãy nghỉ ngơi, đừng viết nữa nhưng ông vẫn viết,
viết hối hả vì sợ mình không còn viết được nữa, chỉ một tháng sau (12/ 1980), ông đã
qua đời. Sau khi ông mất, vợ ông dọn giường bệnh và tìm thấy dưới tấm nệm bài thơ
này….
Từ câu chuyện, học sinh hiểu và đồng cảm với nhà thơ hơn, trân trọng bài thơ,
xúc động trước những tình cảm chân thành, cao đẹp mà tác giả gửi gắm trong đó.
4.2. Đóng vai nhân vật, diễn xuất một đoạn trong truyện là hoạt động khiến
học sinh ghi nhớ, in sâu ấn tượng và cảm xúc về nhân vật.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
12
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
* Ví dụ : 2 em học sinh đóng vai ông Hai và bà chủ nhà (Làng – Kim Lân) diễn
xuất đoạn kết truyện.
4.3. Nói lời sẻ chia với tác giả, với nhân vật (hoạt động vào cuối giờ học)
hoặc
Đây là hình thức để học sinh được nói lên cảm nghĩ của mình về tác giả, về
nhân vật trong tác phẩm, làm các em được mở rộng tâm hồn mình với con người và
cuộc sống, biết yêu thương con người, biết trân trọng cuộc sống
* Ví dụ : Sẻ chia với “ Em bé bán diêm” ( Truyện Cô bé bán diêm- An đéc
xen).
Sẻ chia với Thanh Hải về ước nguyện “Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ
dâng cho đời” …
5. Nghệ thuật sư phạm khi người thầy đóng vai trò hướng dẫn học sinh
Người dạy văn không chỉ là nhà khoa học, nhà sư phạm mà còn là nghệ sĩ trên
bục giảng.
5.1. Khi đặt câu hỏi

Giáo viên phải thể hiện được sự băn khoăn thực sự trước một vấn đề đặt ra từ
tác phẩm. Thể hiện được sự băn khoăn thực sự trước một vấn đề đặt ra từ tác phẩm và
khao khát nhận được câu trả lời từ các em. Từ giọng hỏi, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt…
đều phải thể hiện được điều đó.
5.2. Khi nghe học sinh trả lời
- Không nên nghĩ rằng thầy ở tầm cao, luôn thâu tóm được tất cả mà phải
“ luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
- Luôn có sự trân trọng, biết ơn, đồng cảm chân thành trước những câu trả lời,
những ý hiểu độc đáo sáng tạo của các em. (Tránh nồng nhiệt thái quá như kịch).
* Ví dụ:
+ Ý của em thật sáng tạo, cảm ơn em
Em có một cách hiểu thật mới mẻ, thầy sẽ bổ sung vào giáo án của mình.
- Học sinh nói chưa đúng, giáo viên nên nhẹ nhàng tỏ ý tiếc và nhờ những bạn
khác giúp đỡ bạn chứ không nên phủ nhận bằng các từ “sai rồi!”, “Em chậm hiểu
quá !”…
- Khuyến khích những cách hiểu, cách cảm mới mẻ sáng tạo về nhân vật, về
chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm…
Như chúng ta đã biết, đọc một tác phẩm mỗi người đều có thể đưa ra một cách
giải mã cho riêng mình. Nhưng muốn hiểu theo nghĩa nào thì đều phải xuất phát từ
văn bản, phải căn cứ vào hình tượng, câu chữ cụ thể của bài thơ, áng văn.
Nếu như ý hiểu của học sinh phù hợp và thể hiện sự sáng tạo mới mẻ thì giáo
viên cần đón nhận, khuyến khích, tạo hứng thú cho các em, khơi gợi nhu cầu thích
khám phá, được khám phá.
Với 3 câu thơ :
“ Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
(Nói với con – Y Phương)
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
13

Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
Học sinh có nhiều ý hiểu khác nhau:
- Người đồng mình sống mạnh mẽ như sông như suối vượt qua mọi ghềnh
thác.
- Người đồng mình sống như sông như suối chảy về biển, chỉ biết cho, không
biết nhận.
- Người đồng mình tâm hồn trong trẻo, vô tư hồ
thiên nhiên như sông như suối, không ngại gì gian khó.
Giáo viên nhận xét : những cách hiểu của các em đều đúng vì các em đã cảm
nhận được qua hình ảnh so sánh đó một tâm hồn, cách sống của người miền Núi thật
đẹp, phong phú, khoáng đạt, tràn đầy niềm tin…
5.3. Giải quyết những tình huống
Ví dụ : Khi học sinh đưa ra những câu hỏi bất ngờ:
* Có học sinh trách Vũ Nương : tại sao Vũ Nương không bỏ đi đến một nơi
nào đó tự kiếm sống nuôi thân, chả lẽ cứ phải rời nhà của Trương Sinh nàng không
sống được hay sao ?
- Giáo viên có thể hỏi lại học sinh :
? Điều gì khiến Vũ Nương đau khổ đến mức phải tự vẫn ?
- Giáo viên giải thích nguyên nhân cái chết của Vũ Nương.
Tóm lại, người giáo viên cần biết tạo tâm thế cho giờ học văn qua ứng xử các
tình huống sư phạm.
6. Chất văn trong dạy và học văn
Một điều dễ nhận thấy, trong một số tiết dạy và học văn là người thầy nhiều
khi biến thành một nhà đạo đức vụng về, một tác phẩm văn học bị biến thành một bài
học lịch sử Ví dụ : dạy văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh”, giáo viên chủ yếu
phân tích những phẩm chất của Bác qua trang phục, ăn uống, nơi ở và cuối cùng kết
luận cần học tập theo tấm gương của Bác. Như vậy, chất văn của văn bản chưa được
khai thác. Để giờ dạy học mang chất văn, giáo viên cần cho học sinh liên tưởng đến
một số câu thơ ngợi ca vẻ đẹp trong phong cách sống của Bác, tìm hiểu nghệ thuật kể
kết hợp với bình luận, những hình ảnh so sánh mang tính chất khẳng định, giọng văn

chuyển mạch nhẹ nhàng, lắng sâu đầy xúc cảm.
Để giờ học văn không trở thành nhàm chán, khô khan. Theo tôi người dạy văn
cần nâng cao tinh thần nhân bản của bộ môn văn “trả lại bản chất nghệ thuật kì diệu
cho bộ môn văn trong nhà trường”.
Chất văn có thể tạo nên từ :
- Phần giới thiệu bài, giới thiệu tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm.
- Từ lời dẫn dắt chuyển ý (chiếc cầu nối uyển chuyển giữa các phần của
bài)
- Từ việc khai thác tìm hiểu văn bản, cách hỏi học sinh.
- Giọng điệu của người thầy.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
14
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu thực trạng: học sinh ít hứng thú và tích cực, chủ động.
- Sử dụng phương pháp kết hợp nhiều loại hình câu hỏi trong giờ học có nâng
cao kết quả học cho học sinh không ? Có gây khó khăn cho học sinh không?
- Đối vơớ giáo viên phải biết xác định và cho câu hỏi, nội dung phù hợp vơớ
từng tiết học. Không nên đưa ra những câu hỏi quá khó ,
- Giáo viên phải giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà chuẩn bị trước.
- Đối với học sinh phải chủ động tìm hiểu tài liệu và hoàn thành nhiệm vụ
của giáo viên giao.
a) Đối với học sinh đại trà: Xác định rõ những trọng tâm bài học, kiểm tra
những phần học sinh còn hổng kiến thức, hiêể sơ sài bài học.
b) Đối với học sinh giỏi: Phát hiện là yếu tố quan trọng trong quá trình bồi
dưỡng học sinh giỏi. Đối với học sinh giỏi môn Ngữ văn, cần chsy ý mấy
điểm sau:
+ Cần cù chịu khó, ham hiểu biết văn học.
+ Cảm thụ tốt văn học.
+ Có trí nhớ tốt, khả năng so sánh, nhận xét nhạy bén.

+ Chữ viết sạch đẹp, trình bày rõ ràng cẩn thận.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
15
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
THIẾT KẾ
1. Điều tra ban đầu:
Bắt đầu nhận dạy Ngữ văn 9 từ năm 2010 – 2011 đến nay tại trường THCS
Nghĩa Lâm, tôi đã tiến hành kiểm tra, đánh giá, chất lượng của học sinh như
sau:
a/ Lớp thực nghiệm: lớp 9A năm học 2010 - 2011
Chất lượng thi học kì I môn Ngữ văn năm học 2010 – 2011 của trường.
Tổng
số học
sinh
Kết quả
Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5
TS % TS % TS % TS %
35 6 17.2 12 34.3 14 40 3 8.6
b/ Lớp dối chứng: lớp 9B năm học 2010 - 2011
Chất lượng thi học kì I môn Ngữ văn năm học 2010 – 2011 của trường
Tổng
số học
sinh
Kết quả
Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5
TS % TS % TS % TS %
35 2 5.8 12 34.2 16 48.7 5 14.3
ĐO LƯỜNG
Sau một năm thực nghiệm, kết quả đo lường đạt được của học sinh khối 9 như sau:
Tổng

số học
sinh
Kết quả
Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5
TS % TS % TS % TS %
150 35 36.7 47 31.3 46 30.7 2 1.3
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
16
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN
Bảng thống kê điểm trước và sau tác động
Lớp HS
Điểm/ số học sinh đạt Tổng
số
điểm
Điểm
trung
bình
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Lớp
thực
nghiệm
9A
35 0 0 0 1 2 10 4 8 4 2 222 634,3
Lớp
đối
chứng
9B
35 0 0 1 4 8 8 5 7 2 0 216 617,1
Bảng so sánh điểm trung bình của bài kiểm tra sau tác động

Năm học Số học sinh Giá trị trung bình
Lớp thực nghiệm 9A 35 634,3
Lớp đối chứng 9B 35 617,1
Chênh lệch 17,2
Kết quả kiểm tra đầu vào của 2 nhóm đối chứng và thực nghiệm tương đương
nhau. Kết quả trung bình môn Ngữ văn của nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm
đối chứng là 17,2 điểm. Có thể kết luận: tác động bước đầu có kết quả.
KẾT QUẢ
1. Kết quả thi cuối năm môn Ngữ văn khối 9 năm học 2010 – 2011 của
trường THCS Nguyễn Kim Vang.
Tổng số
HS dự
thi
Kết quả
Điểm 9 -10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5
TS % TS % TS % TS %
150 55 36,7 47 31,3 46 30,7 2 1,3
2. Kết quả thi học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp huyện trong năm học 2010 –
2011 của trường THCS Nguyễn Kim Vang.
Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải
04 em 02 em
2. Kết quả thi học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp tỉnh trong năm học 2010 –
2011 của trường THCS Nguyễn Kim Vang.
Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải
02 em 01 em
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
17
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Đối với phụ huynh:

- Cần quan tâm đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều hơn về cơ
sở vật chất, tạo điều kiện cho con em mình học tập tốt.
- Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục cho con
em của mình thông qua học tập môn Ngữ văn ở nhà trường.
2. Đối với nhà trường:
- Cần mua sắm thêm tài liệu tham khảo, đầu tư cơ sở vật chất và ĐDDH nhất
là các tài liệu Ngữ văn, các băng đĩa phục vụ cho việc dạy học Ngữ văn.
- Luôn luôn đổi mới việc giảng dạy, áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy môn Ngữ văn.
- Tổ chức thảo luận các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học cho tất cả
các giáo viên thường xuyên trong từng đợt, từng năm để ngày một nâng cao
chất lượng dạy học.
3. Đối với địa phương:
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất.
- Luôn quan tâm, động viên kịp thời đối với đội ngũ giáo viên, học sinh nâng
câo chất lượng dạy học.
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
18
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
KẾT LUẬN
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay
đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học nhằm giúp học sinh phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo, có thói quen và khả năng tự học, có tinh thần
hợp tác, vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong
thực tiễn, có niềm vui hứng thú học tập.
Để đạt được mục tiêu đó ở giờ dạy và học Văn, giáo viên luôn phải suy nghĩ
tìm tòi, vận dụng và rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Trong quá trình dạy học trên lớp, chúng tôi đã rút ra một số kinh nghiệm để
góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy và học Văn:
- Chú ý việc xác định thể loại và cách tiếp cận văn bản.

- Xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí trên cơ sở mục tiêu cần đạt.
- Đa dạng hoá các phương pháp và hình thức dạy học.
- Nghệ thuật khi người thầy đóng vai trò hướng dẫn học sinh.
Tuy nhiên để một giờ dạy và học Văn đạt kết quả cao còn là vấn đề nhiều khó
khăn và khiến giáo viên phải trăn trở. Đề tài này vẫn còn nhiều vấn đề chưa khai thác
hết và chắc hẳn cần góp ý bổ sung thêm.
Rất mong được sự đóng góp của các đồng chí, các bạn đồng nghiệp để đề tài
hoàn thiện hơn.
Nghĩa Hành, ngày 21/11/2011
Người viết
Ngô Văn Tâm
XÁC NHẬN CỦA TRƯỜNG THCS NGUYỄN KIM VANG
Xác nhận của Tổ Khoa học xã hội





Tổ trưởng
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm
19
Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: “Nâng cao hiệu quả giờ dạy và học văn”
Xác nhận của BGH Trường THCS Nguyễn Kim Vang





Hiệu trưởng
Trường THCS Nguyễn Kim Vang GV: Ngô Văn Tâm

20

×