Bùi Thị Luyên - TrờngTHCS Nhân Hoà 2007-2008
Phần I - đặt vấn đề
Nhân loại đã bớc sang thế kỉ XXI. Một thế kỉ sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi to lớn:
khoa học và công nghệ đang phát triển không ngừng, kinh tế tri thức có vai trò ngày
càng nổi bật trong quá trình phát triển của kinh tế - xã hội.
Sự biến đổi khí hậu toàn cầu đang có xu hớng ảnh hởng tiêu cực đến đời sống xã
hội loài ngời trên Trái Đất : Hiệu ứng nhà kính làm cho nhiệt độ của Trái Đất tăng lên,
hạn hán, lở đất....thờng xuyên xảy ra mà nguyên nhân sâu xa do hoạt động vô ý thức
cuả con ngời.
ở nớc ta quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi
phải có một lực lợng lao động có trí tuệ cao, có kĩ năng thực hành, có phẩm chất đạo
đức để thích ứng với những thay đổi của đất nớc trong khu vực và trên thế giới.
Chính vì vậy chúng ta phải phát triển nhanh hơn, mạnh hơn hiệu quả hơn trong lĩnh
vực Giáo dục- Đào tạo để đào tạo ra những con ngời có năng lực và phẩm chất - thích
ứng với tình hình mới của đất nớc và trên thế giới.
Chơng trình sách giáo khoa (SGK) mới là một minh chứng hùng hồn cho sự phát triển
Giáo dục - Đào tạo với một nội dung dạy học khoa học, hiện đại tiếp cận đợc với kiến
thức trong khu vực, trên thế giới và đáp ứng đợc sự phát triển kinh tế - xã hội của nớc
ta. Muốn thực hiện đợc điều đó đòi hỏi phải có phơng pháp dạy học mới phù hợp với
nội dung của chơng trình.
Môn Địa lí trong trờng THCS góp phần giúp học sinh có đợc những kiến thức phổ
thông cơ bản, cần thiết về Trái Đất -Môi trờng, về những hoạt động kinh tế của con ng-
ời trên bình diện quốc tế. Bớc đầu hình thành thế giới quan khoa học, t tởng, tình cảm
1
Bùi Thị Luyên - TrờngTHCS Nhân Hoà 2007-2008
đúng đắn làm quen với việc vận dụng kiến thức địa lí để ứng xử phù hợp với môi trờng
tự nhiên, xã hội xung quanh, phù hợp với yêu cầu của đất nớc với xu thế của thời
đại.Ví dụ môn Địa lí 6 còn chú trọng rèn kĩ năng thực hành cho học sinh.
Xuất phát từ mục tiêu trên nội dung chơng trình SGK mới có nhiều thay đổi cả về nội
dung và hình thức nên khi giảng dạy và học Địa lí 6 không thể áp dụng lối dạy - học cũ
đợc mà phải đổi mới phơng pháp cho phù hợp thì hiệu quả dạy - học mới cao.
Là giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy địa lí nhiều năm, tôi đã dành thời gian tìm
tòi, nghiên cứu, thử nghiệm trong giảng dạy và đã rút ra đợc kinh nghiệm để nâng cao
giờ dạy học địa lí. Chính vì vậy tôi quyết định chọn đề tài nâng cao hiệu quả giờ dạy
địa lí bằng điều khiển học sinh làm việc với đồ dùng trực quan .
Phần II: nội dung
1-Cơ sở lí luận :
Chơng trình sách giáo khoa địa lí 6 cung cấp cho học sinh bốn nhóm kiến thức cơ bản:
- Trái đất - Môi trờng sống của con ngời.
- Đặc điểm của tự nhiên, dân c và các hoạt động kinh tế của con ngời ở những khu
vực khác nhau trên trái đất.
- Mối tơng tác giữa các thành phần tự nhiên của môi trờng....
- Hiểu biết về đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân c, kinh tế xã hội và
những vấn đề của môi trờng, của quê hơng.
Bên cạnh đó sách giáo khoa địa lí 6 còn rèn các kĩ năng :
-Sử dụng thành thạo các các kĩ năng địa lí, quan sát, phân tích các hiện tợng tự
nhiên, kinh tế - xã hội, kĩ năng sử dụng biểu đồ, bản đồ.
- Vận dụng kiến thức để giải thích một số hiện tợng địa lí xảy ra xung quanh môi tr-
ờng sống của con ngời.
2
Bùi Thị Luyên - TrờngTHCS Nhân Hoà 2007-2008
- Hình thành và rèn luyện khả năng thu nhập, xử lí, tổng hợp và trình bày lại thông tin
địa lí
Nội dung chơng trình Địa lí 6 hiện hành tuy có giảm nhẹ về lí thuyết song nội dung thực
hành có phần phong phú và đa dạng, yêu cầu cao hơn so với các bài thực hành ở sách
Địa 6 cũ. Mỗi bài học nội dung kiến thức đợc trình bày đồng bộ trên cả hai kênh : chữ
và hình
Là sách giáo khoa mở nhiều nội dung của bài không đợc trình bày một cách trọn
vẹn mà có những phần để trống dành cho sự tham gia bổ sung trực tiếp của học sinh
thông qua hoạt đông học tập đa dạng dới sự hớng dẫn của giáo viên. Nh vậy buộc học
sinh phải suy nghĩ phải làm việc thực sự từ đó lĩnh hội đợc các kiến thức và rèn luyện đ-
ợc các kĩ năng.
Kênh hình trong sách giáo khoa thể hiện phong phú nhng tựu chung lại có mấy loại
cơ bản : bản đồ, lợc đồ, tranh ảnh, các hình vẽ, bảng số liệu...Mỗi loại kênh hình phục vụ
một nội dung kiến thức vì thế khai thác kiến thức ở kênh hình là việc làm vô cùng quan
trọng không thể bỏ qua đợc khi dạy bộ môn Địa lí. Để làm tốt việc đó giáo viên và học
sinh phải nắm đợc đặc điểm của từng loại và có phơng pháp làm việc thích hợp, khoa
học mới đạt hiệu quả cao.
Dạy địa lí phải hớng vào đặc trng của bộ môn dẫn dắt học sinh tìm hiểu, rèn luyện
và phát triển kĩ năng phân tích kênh hình một cách tự chủ, năng động, sáng tạo ngay
trong từng thao tác của học sinh. Hay nói cách khác đó là phơng pháp lấy ngời học làm
trung tâm, giáo viên là ngời tổ chức định hớng dẫn dắt các hoạt động của học sinh, tự
khám phá ra chân lí tự tìm ra kiến thức của bài học. Ngời học giữ vai trò chủ động, tích
cực trong quá trình học tập không còn ở thế thụ động có nh vậy giờ dạy học địa lí
mới đạt hiệu quả cao.
2. Cơ sở thực tiễn.
3
Bùi Thị Luyên - TrờngTHCS Nhân Hoà 2007-2008
Trong quá trình giảng dạy môn Địa lí 6 ở trờng, qua những tiết dự giờ thăm lớp,
nghe báo cáo chuyên đề và kết quả học tập của học sinh tôi thấy việc dạy học địa lí 6
còn có một số hạn chế ở cả giáo viên và học sinh dẫn tới kết quả dạy học cha cao.
a- Đối với giáo viên.
Chơng trình sách giáo khoa địa lí 6 hầu hết giáo viên đợc tập huấn tiếp cận với ph-
ơng pháp mới nhng vẫn còn nhiều giáo viên cha thoát khỏi sự ảnh hởng của phơng
pháp dạy học cũ: giảng nhiều, nói nhiều, cha chú ý đến giao việc cho học sinh nên học
sinh còn thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan để tìm ra kiến thức bài học còn hạn chế, sử dụng
bản đồ mang tính chất minh hoạ chứ cha chú ý hớng dẫn học sinh phân tích để khai
thác kiến thức trên đồ dùng trực quan. Còn một số giáo viên sợ để học sinh phân tích
mất thời gian ảnh hởng đến tiết dạy nên thầy làm hộ, học sinh chỉ nghe và công nhận
nên khả năng ghi nhớ và t duy của học sinh không đợc phát triển. Mặt khác việc khai
thác kiến thức ở kênh hình mới chỉ dừng lại ở những chỗ đơn giản dễ quan sát thấy chứ
cha đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa các hiện tợng địa lí. Ví dụ khi dạy bài: Sự
chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Giáo viên đặt câu hỏi: Vào những ngày
nào trong năm Trái Đất nóng nhất ? Hầu hết giáo viên đều hớng dẫn học sinh đó là
ngày 22/6 và 22/12, mà cha liên hệ đến quỹ đạo quay của Trái Đất quanh Mặt Trời là
hình Elíp do đó không để ý đến vị trí của Trái Đất với Mặt Trời ngày 21/3 và 23/9 là
147 triệu km còn vị trí Trái Đất với MT ngày 22/6 và 22/12 là 152 triệu km.
Khi lên lớp ngại làm việc với đồ dùng trực quan, nhiều khi dạy chay hoặc th viện
không có đồ dùng thậm chí cũng không tự làm đồ dùng mà sử dụng ngay những kênh
hình trong SGK. Việc làm đó rất hạn chế tập trung quan sát của học sinh. Nhiều đối t-
ợng địa lí trên hình vẽ thầy chỉ nói cho học sinh nghe chứ cha chỉ ra cho học sinh nhìn
thấy nên học sinh hình thành biểu tợng địa lí rất khó khăn.
4
Bùi Thị Luyên - TrờngTHCS Nhân Hoà 2007-2008
Trong giảng dạy nhiều khi giáo viên cha thực sự chú ý đến lệnh làm việc.Nhiều lệnh
làm việc còn dài, rờm rà khó hiểu, nhiều lệnh cha đầy đủ, đôi khi tối nghĩa. Cha phân
phối thời gian hợp lí cho từng phần, các thao tác bản đồ, biểu đồ...còn lúng túng chậm
chạp.
Hình thức trong giờ dạy; nhiều giáo viên cho rằng đổi mới phơng pháp là cứ phải
chia nhóm thảo luận, phải phát phiếu học tập.Thực ra khi dự giờ tôi thấy việc này đôi
khi cha mang lại hiệu quả bởi lẽ nếu giáo viên không quán xuyến đợc lớp học thì đó là
lúc những học sinh yếu kém có cơ hội để làm việc riêng.
Tuy nhiên không phủ nhận mặt tích cực của hoạt động nhóm đối với những giáo
viên già dặn kinh nghiệm, khéo léo trong việc điều khiển và đạo diễn.
Cha quan tâm đúng mức đối với các đối tợng trong lớp. Đa số các câu hỏi đều dành
cho học sinh khá, số học sinh trung bình ít có cơ hội đợc làm việc còn số học sinh yếu
chỉ ngồi nghe rồi ghi chép và công nhận ý kiến của thầy, của bạn, cha đợc đánh giá th-
ờng xuyên, kịp thời nên mặt bằng kiến thức không đợc đều, tiết học gò bó nặng nề.
Bên cạnh những hạn chế, tồn tại cơ bản của giáo viên đứng lớp còn một hạn chế
không nhỏ về phía trò.
b - Đối với học sinh
Học sinh cha thực sự hiểu đợc vị trí, vai trò và tầm quan trọng của bộ môn Địa lí
trong nhà trờng, nhiều học sinh cho rằng đó là môn học phụ môn học bổ sung.. .nên
dành thời gian cho các môn Toán, Lí, Hoá, Văn.... Từ nhận thức trên dẫn đến động cơ,
thái độ học tập cha cao. Các em cho rằng chỉ cần học thuộc là đợc vì thế không quan
tâm đến việc khai thác kiến thức từ đồ dùng trực quan nên hiệu quả học tập không cao.
Học sinh cha có phơng pháp học tập địa lý. Hầu hết việc học bài ở nhà mới chỉ
dừng lại ở việc học thuộc những ý thầy cho ghi trên lớp. Một vài em tự giác làm bài tập
5
Bùi Thị Luyên - TrờngTHCS Nhân Hoà 2007-2008
song chỉ là những bài tập dễ nh bài nhận biết...Phần lớn học sinh cha tìm hiểu nghiên
cứu bài mới ở nhà,việc học bài mới còn chờ thầy gợi ý, cho nên khi học bài trên lớp
còn thụ động cha có sự suy nghĩ tìm tòi để giải quyết vấn đề.
Là trờng gần thị trấn của huyện Vĩnh Bảo, nhng cuộc sống chủ yếu dựa vào nông
nghiệp , mặt bằng văn hoá, kinh tế còn thấp, sự quan tâm của gia đình có hạn. Học
sinh còn lời học, mải chơi, cha có ý thức cao trong học tập, cha nhận thức đợc vai trò,
tầm quan trọng của việc học cũng nh nhiệm vụ của học sinh. Tất cả những lí do trên
ảnh hởng rất lớn đến việc học của các em.
Trên đây là những tồn tại, khó khăn cơ bản từ phía ngời dạy và ngời học ảnh hởng
đến kết quả học tập bộ môn địa lý trong trờng THCS. Để giải quyết những tồn tại đó
theo tôi cần làm tốt một số nội dung sau:
3.Một số biện pháp
Để có giờ dạy- học môn Địa lý đạt kết quả cao đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn từ
khâu soạn bài - giảng bài- hớng dẫn học bài ở nhà.
a.Soạn bài theo tinh thần đổi mới hớng vào ngời học.
Để có tiết dạy tốt không thể xem nhẹ việc soạn bài, bài soạn có khoa học, hơp lí,
chu đáo là tiết dạy thành công một nửa. Trớc khi soạn bài phải tìm hiểu kĩ nội dung bài
học, xác định mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ của từng bài trên cơ sở đó nghiên
cứu xem ở mỗi mục cần dạy theo phơng pháp nào? tổ chức học sinh hoạt động nh thế
nào? Trên cơ sở đó lạ chọn thiết bị dạy học cho phù hợp.
6
Bùi Thị Luyên - TrờngTHCS Nhân Hoà 2007-2008
Khi soạn bài xây dựng các hoạt động phải phù hợp với đối tợng học sinh tránh
việc làm hình thức đa ra các hoạt động vợt quá khả năng học của học sinh. Đổi mới ph-
ơng pháp cũng không có nghĩa phủ nhận hoàn toàn phơng pháp dạy học truyền thống
mà giáo viên phải linh hoạt thừa kế và phát huy những mặt tích cực của phơng pháp
dạy học truyền thống trên cơ sở đó xây dựng hệ thống câu hỏi hớng vào việc phát huy
tính độc lập sáng tạo của học sinh. Vì thế các câu hỏi đa ra có tính chất gợi ý, lên vấn
đề học sinh phải hớng vào đó suy nghĩ trả lời, tổng hợp thành kiến thức bài học. Khi
xây dựng hệ thống câu hỏi chú ý các câu hỏi dành cho các đối tợng học sinh khá giỏi,
câu hỏi dành cho học sinh trung bình, câu hỏi dành cho học sinh yếu và đảm bảo ba
loại câu hỏi: câu hỏi phát hiện, câu hỏi phân tích, câu hỏi khái quát. Hệ thống câu hỏi
phải ngắn gọn dễ hiểu, khi phát câu hỏi học sinh suy nghĩ và trả lời đơc ngay, tiết học
sẽ sôi nổi nhẹ nhàng còn nếu hệ thống câu hỏi không khoa học, lô gíc tiết học sẽ rơi
vào bế tắc, trầm, lúc đó không còn cách nào hơn thầy giảng trò nghe.
b.Đổi mới dạy học trên lớp.
Khi lên lớp giáo viên phải là ngời tổ chức các hoạt động học tập cho cho học sinh.
Hạn chế việc thuyết trình giảng giải cần tạo mọi điều kiện để học sinh chủ động, tích
cực làm việc với các phơng tiện học tập địa lý, trao đổi với nhau trong quá trình tìm
hiểu lĩnh hội tri thức rèn luyện kĩ năng.
Đối với những bài học có nhiều kênh hình. Kiến thức dợc ẩn trong các kênh hình đó
giáo viên phải hớng dẫn học sinh cách phân tích từng đối tợng, từng yếu tố trên kênh
hình đó. Trên cơ sở ấy giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các yếu tố mà tổng hợp
thành kiến thức của bài học, ở khâu này nếu giáo viên không có phơng pháp thích hợp
dễ thất bại học sinh sẽ không làm đợc nh mong muốn của thầy. Khi đó thầy lại phải
làm hộ trò. Với loại bài học kiểu này giáo viên phải hớng dẫn học sinh làm thành thục
các thao tác cơ bản sau:
7