Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN ngữ văn lớp 8 Nâng cao hiệu quả giờ dạy kiểu bài văn thuyết minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.76 KB, 17 trang )

KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY KIỂU BÀI VĂN THUYẾT MINH
KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY KIỂU BÀI VĂN
THUYẾT MINH (TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 8)

PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO: Trong mấy chục năm qua, khoa học kĩ thuật “bùng nổ”.
Nhiều vấn đề cần trang bị cho người lao động để đáp ứng yêu cầu phát
triển xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân. Có những tri thức
không còn thích hợp, thậm chí đã lỗi thời cần được loại bỏ. Nội dung và
phương pháp giáo dục trong nhà trường, trong đó bậc THCS cần được
xem xét, điều chỉnh. Từ năm 1997, những đổi mới đồng bộ về giáo dục
THCS và việc xây dựng lại chương trình, biên soạn lại sách giáo khoa các
môn học theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động của học sinh đã đặt ra yêu
cầu cấp thiết về đổi mới phương pháp giáo dục. Cùng với các bộ sách giáo
khoa của các khối lớp khác, sách giáo khoa Ngữ văn 8 được biên soạn theo
nguyên tắc tích hợp ba phân môn Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn theo
định hướng tích cực hoá hoạt động học tập của người học. Sự tuân thủ hai
nguyên tắc trên này đã tạo nên những tiền đề thuận lợi cho việc vận dụng
định hướng đổi mới phương pháp dạy học.
Một điểm mới, dễ nhận thấy ở chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn 8 là sự cố gắng vừa tiếp thu những nội dung ổn định, hợp lí của bộ
sách giáo khoa Văn học – Tiếng Việt – Tập làm văn có những thay đổi phù
hợp với tinh thần tích hợp và những yêu cầu mới hiện đại hoá thể hiện rõ
nhất việc tránh xu hướng hàn lâm, quá tải, nặng nề, thiếu thiết thực, tăng
cường tính ứng dụng thực hành. Theo tinh thần này, nội dung phần Tập
làm văn đã chú ý cân đối nội dung, hướng tới tính toàn diện và gắn với
thực tiễn đời sống nhằm đào tạo năng lực đọc, viết cho học sinh. Việc đưa
kiểu văn bản thuyết minh vào giảng dạy là một minh chứng.


Đây là kiểu văn bản hoàn toàn mới, chưa có trong chương trình và trong


sách giáo khoa Tập làm văn cũ. Tuy nhiên, mới là so với chương trình và sách giáo
khoa thôi, chứ không mới so với yêu cầu thực tế của đời sống. Đưa kiểu văn bản này
vào giảng dạy là đáp ứng yêu cầu đời sống, đào tạo một năng lực cần thiết mà học
sinh ta xưa nay vốn thiếu, chưa được học chính thức. Để giảng dạy có hiệu quả kiểu
văn bản này, đòi hỏi người giáo viên phải có sự nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới phương
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu cụ thể của chương trình về kiến thức và kĩ năng. Đó
cũng chính là lí do tôi chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả giờ dạy kiểu bài thuyết minh”
(Trong chương trình văn 8)

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài Thuyết minh – một kiểu bài
mới và khó đối với học sinh.
- Cụ thể hoá lí thuyết qua các bài tập thực hành, giúp học sinh nắm
kiểu bài nhanh và dễ dàng hơn.

3. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Với nội dung đề tài Giảng dạy kiểu bài thuyết minh trong chương
trình Ngữ văn 8, giúp học sinh đạt được những yêu cầu sau:
Chuẩn:
*Kiến thức: HS nắm được
- Những đặc điểm cơ bản của kiểu bài thuyết minh.
- Các phương pháp thuyết minh.
- Một số dạng bài thuyết minh cơ bản, cần thiết trong cuộc sống.
* Kĩ năng:
- Kĩ năng phân tích mẫu, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, hình thành
kiến thức.
- Kĩ năng vận dụng lí thuyết để sáng tạo văn bản thuyết minh.
- Kĩ năng diễn đạt rõ ràng, lưu loát, có sức cuốn hút.
* Thái độ:
- HS có thái độ học tập nghiêm túc, tích cực, tư duy, sáng tạo.

- Yêu thích môn học.
- Có ý thức vận dụng lí thuyết vào thực hành: sản sinh văn bản phù
hợp với hoạt động thực tiễn.
Nâng cao: HS biết vận dụng các kiến thức và kĩ năng từ kiểu bài
thuyết minh đem lại vào học tập và thực tiễn.

4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
* Đối tượng nghiên cứu:
- Các tiết học về kiểu bài thuyết minh trong chương trình sách giáo
khoa Ngữ văn 8.
- Học sinh lớp 8 THCS – Trường THCS Triệu An
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu lí luận kiểu bài thuyết minh, lí luận
dạy - học kiểu bài thuyết minh.
- Nghiên cứu thực tiễn: Dự giờ đồng nghiệp để đánh giá tình hình đổi
mới phương pháp, vận dụng phương pháp mới trong giảng dạy kiểu bài
thuyết minh.
* Kế hoạch nghiên cứu: Đã nghiên cứu và vận dụng giảng dạy trong các
năm học


PHẦN II - NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN


1. Vai trò của văn bản thuyết minh trong đời sống
Như trên đã đề cập, văn bản Thuyết minh là kiểu văn bản lần đầu
tiên được đưa vào chương trình Tập làm văn THCS Việt Nam, cũng là
kiểu bài lạ đối với học sinh

lớp 8. Tuy không xuất hiện nhiều trong lĩnh vực văn chương nhưng
lại là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng phổ biến trong đời
sống, từ lâu nhiều nước trên thế giới đã đưa vào chương trình học cho học
sinh.
Văn bản thuyết minh là văn bản trình bày tính chất, cấu tạo, cách
dùng, lí do phát minh, quy luật phát triển, biến hoá của sự vật, nhằm cung
cấp tri thức, hướng dẫn cách sử dụng cho con người.Văn bản Thuyết minh
được sử dụng rộng rãi, ngày nào cũng cần đến. Mua một thứ đồ dùng sinh
hoạt (Ti vi, máy bơm, quạt điện, xe máy…) đều phải kèm theo những
thuyết minh về tính năng, cấu tạo, cách sử dụng, bảo quản để nắm vững;
mua một loại thực phẩm ( hộp bánh, chai rượu…) trên đó cũng có ghi xuất
xứ, thành phần, ngày sản xuất, hạn sử dụng, trọng lượng…Ra ngoài phố
gặp các biển quảng cáo giới thiệu sản phẩm ; cầm quyển sách bìa sau có
thể có lời giới thiệu tác giả, tóm tắt nội dung ; trước một danh lam thắng
cảnh có bảng ghi lời giới thiệu, lai lịch, sơ đồ thắng cảnh…Trong sách giáo
khoa, có bài trình bày một sự kiện lịch sử, tiểu sử một nhà văn, tác phẩm
được trích, một thí nghiệm…Tất cả đều là các văn bản thuyết minh . Loại
văn bản này được dùng nhiều trong văn bản giáo khoa, khoa học, nhật
dụng. Như vậy, hai chữ “thuyết minh” ở đây đã bao hàm cả ý giải thích,
trình bày, giới thiệu. Khác với các loại văn bản tự sự, biểu cảm, miêu tả,
nghị luận, điều hành, văn bản thuyết minh chủ yếu trình bày tri thức một
cách khách quan, khoa học về đối tượng nhằm cung cấp những tri thức
xác thực, hữu ích về đặc trưng, tính chất của sự vật, hiện tượng và sử dụng
chúng vào mục đích có lợi.
Tóm lại, dù ngắn hay dài, dù đơn giản hay phức tạp, văn bản
thuyết minh đều đóng vai trò cung cấp thông tin để giúp người đọc, người
nghe hiểu đối tượng, sự việc. Đưa văn bản thuyết minh vào nhà trường là
cung cấp cho học sinh một kiểu văn bản thông dụng, rèn luyện kĩ năng
trình bày các tri thức, nâng cao năng lực tư duy và biểu đạt cho học sinh ,
giúp các em làm quen với lối làm văn có tính khoa học, chính xác.



2. Những đặc điểm của kiểu bài


* Cung cấp tri thức khách quan
Văn bản thuyết minh không sử dụng khả năng quan sát và trí
tưởng tượng phong phú để tạo dựng hình ảnh, diễn biến, cốt truyện như
trong văn bản tự sự, đồng thời cũng không phụ thuộc vào cảm xúc như
văn biểu cảm, không bày tỏ ý định, nguyện vọng hay thông báo tin tức như
trong văn bản hành chính. Với mục đích cung cấp tri thức và nâng cao
hiểu biết cho con người, văn bản thuyết minh sử dụng lối tư duy khoa học,
đòi hỏi sự chính xác, rạch ròi. Muốn làm văn bản thuyết minh thì phải tiến
hành quan sát, tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu, tích luỹ kiến thức. Không có
sự hiểu biết để có lượng tri thức thì khó có thể trình bày, giải thích được
một cách sâu sắc, chặt chẽ, chính xác, rạch ròi đặc trưng, tính chất của sự
vật hiện tượng.
Mặt khác, dù có sử dụng thao tác giải thích nhưng nó không phụ
thuộc phương thức nghị luận, bởi hình thức giải thích ở đây không phải là
dùng lí lẽ và dẫn chứng làm sáng tỏ vấn đề hay bày tỏ một quan niệm nào
đó. Nói cách khác người làm văn thuyết minh không cần bộc lộ những
nhận xét, đánh giá chủ quan của mình trong quá trình cung cấp tri thức,
cũng không tự hư cấu, bịa đặt, tưởng tượng…Tất cả những gì được giới
thiệu, trình bày đều phải phù hợp với quy luật khách quan, đúng như đặc
trưng bản chất của nó ; tức là đúng như hiện trạng vốn có, đúng như trình
tự đã hoặc đang diễn ra…Tóm lại, người viết văn thuyết minh phải tôn
trọng sự thật, không vì lòng yêu ghét mà thuyết minh sai sự thật, không
dùng cảm quan cá nhân để thay đổi thông tin về đối tượng được thuyết
minh.



* Tính thực dụng
Văn bản thuyết minh được sử dụng rộng rãi trong đời sống, không
lĩnh vực nào trong đời sống lại không cần đến kiểu văn bản này. Với mục
đích cung cấp tri thức, hướng dẫn con người tiếp cận và nắm bắt sự vật,
hiện tượng, văn bản thuyết minh ngày càng trở nên phổ biến. Người
hướng dẫn du lịch dùng văn bản thuyết minh để giới thiệu danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử. Nhà sản xuất dùng văn bản thuyết minh để giới thiệu
quảng cáo về xuất xứ, thành phần, cấu tạo, tính năng, cách bảo quản sử
dụng sản phẩm…Như vậy, văn bản thuyết minh có khả năng cung cấp tri
thức xác thực cho con người giúp con người có hành động, thái độ, cách sử
dụng, bảo quản đúng đắn với sự vật, hiện tượng xung quanh mình.


* Ngôn ngữ và cách diễn đạt
Văn bản thuyết minh phải có cách trình bày rõ ràng, ngôn ngữ
chính xác, cô đọng. Ở loại văn bản này không chú trọng sử dụng ngôn ngữ
giàu hình ảnh, giàu sức gợi như trong miêu tả hay biểu cảm. Văn bản
thuyết minh thuộc lĩnh vực nào, liên quan đến ngành nghề nào thì phải sử
dụng những thuật ngữ, khái niệm có tính chất chuyên ngành của lĩnh vực,
ngành nghề đó. Các thông tin trong văn bản thuyết minh ngắn gọn, hàm
súc, các số liệu được nêu phải chính xác. Ví dụ : “ Lá cây có màu xanh lục
vì các tế bào của lá chứa nhiều lạp lục. Một milimet lá chứa bốn mươi vạn
lạp lục. Trong các lạp lục này có chứa một chất gọi là diệp lục, tức là chất
xanh của lá”.

II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
- Đây là một kiểu văn bản mới, lần đầu tiên được đưa vào chương
trình Tập làm văn THCS, cũng là kiểu bài lạ đối với học sinh lớp 8 nên
việc học có phần lúng túng.

- Các bài văn thuyết minh trong chương trình Ngữ văn 8 ít có yếu tố
nghệ thuật nên bài dạy dễ rơi vào tình trạng rời rạc, ít hấp dẫn.
- Muốn sản sinh văn bản thuyết minh đòi hỏi học sinh cần nhiều kiến
thức thực tế, chính xác, khoa học. Thực tế giảng dạy cho thấy, học sinh có
phần lúng túng trong vấn đề này.
Vậy, làm thế nào để giảng dạy kiểu bài thuyết minh có hiệu quả
nhất ? Đây là vấn đề tôi luôn băn khoăn. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số
giải pháp với hy vọng được sự trao đổi, đóng góp ý kiến của các bạn đồng
nghiệp.

III. GIẢI PHÁP: VẬN DỤNG GIẢNG DẠY KIỂU BÀI THUYẾT MINH TRONG
CHƯƠNG TRÌNH.
Nhìn khái quát có thể nói việc dạy học làm văn bao gồm hai việc
chính : dạy lí thuyết và dạy thực hành. Khi giảng dạy, giáo viên có thể áp
dụng nhiều phương pháp khác nhau. Song phương pháp phân tích mẫu,
luyện tập theo mẫu ; phương pháp dạy thực hành ; phương pháp giao tiếp có
thể xem là phương pháp cơ bản, phổ biến trong khoa học – kĩ thuật dạy học
hiện đại. Để áp dụng các phương pháp trên vào giảng dạy kiểu bài thuyết
minh có hiệu quả, người giáo viên cần có sự đầu tư thời gian, đào sâu suy
nghĩ, tìm tòi, sáng tạo nhằm giúp các em học sinh nắm vững bản chất của
kiểu bài với những đặc trưng mang tính khu biệt với kiểu bài khác trong
chương trình, đồng thời có những kỹ năng cơ bản để có thể tạo lập được
những văn bản thuyết minh đơn giản, gần gũi.
Sau đây tôi xin trình bày 3 phương pháp cơ bản trên mà tôi đã áp
dụng trong quá trình giảng dạy.
1. Vận dụng phương pháp phân tích mẫu trong giảng dạy kiến thức lí
thuyết kiểu bài thuyết minh .
Có thể nói phương thức đi từ mẫu chuẩn là một phương thức phổ
biến trong khoa học kĩ thuật ngày nay. Phân tích mẫu để hình thành tri
thức là con đường quy nạp giúp học sinh nắm kiến thức lí thuyết. Đây là

một phương pháp quen thuộc, không mới trong giáo dục và khoa học. Cái
mới chính là ở chỗ nhấn mạnh đến việc chỉ cho học sinh cách rút ra những
kết luận cần thiết từ việc phân tích các mẫu rồi căn cứ trên các mẫu đã có
để học sinh có thể học và sáng tạo một cách chủ động tích cực.
a. Khi vận dụng phương pháp phân tích mẫu cần chú ý lựa chọn, trình bày
ngữ liệu, từ đó giúp học sinh quan sát, phân tích để tìm ra kết luận về đặc
trưng cơ bản của kiểu bài.
* Ví dụ : Dạy tiết “ Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh” ( Sách
giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 ), giáo viên sử dụng các mẫu trong sách giáo
khoa là các văn bản “ Cây dừa Bình Định”, “ Tại sao lá cây có màu xanh
lục”, “ Huế”. Cho các em đọc từng văn bản và phân tích các mẫu bằng câu
hỏi :
( ? ) : Mỗi văn bản trình bày, giới thiệu, giải thích vấn đề gì ? Em
thường gặp các loại văn bản như trên ở đâu ? Kể thêm một số văn bản
cùng loại mà em biết ?
Trả lời câu hỏi này là các em đã bước đầu tìm ra đặc điểm nội dung
và hình thức biểu hiện của văn bản thuyết minh :
-Văn bản 1 “ Cây dừa Bình Định” : Trình bày lợi ích của cây dừa, lợi
ích này gắn với đặc điểm của cây dừa mà các loài cây khác không có và
gắn với đời sống của người dân Bình Định.
-Văn bản 2 “ Tại sao lá cây có màu xanh lục” : Giải thích về tác dụng
của chất diệp lục làm cho người ta thấy lá cây có màu xanh.
-Văn bản 3 “ Huế” : Giới thiệu Huế như một trung tâm văn hoá nghệ
thuật lớn của Việt Nam với những đặc điểm tiêu biểu và riêng biệt.
Các loại văn bản này rất phổ biến trong đời sống nhất là trong lĩnh
vực giáo khoa, khoa học, nhật dụng.
Để học sinh hiểu đúng tính chất, đặc điểm của văn bản thuyết minh,
giáo viên tiếp tục hướng dẫn học sinh phân tích mẫu bằng câu hỏi thảo
luận nhóm :
( ? ) : Các văn bản trên có thể xem là văn bản tự sự hoặc miêu tả, biểu

cảm, nghị luận, điều hành được không ? Vì sao ?
Trả lời câu hỏi này sẽ giúp cho học sinh phân biệt văn bản thuyết
minh với các kiểu văn bản khác trong chương trình.
Yêu cầu :
- Nhớ, nêu lại những đặc điểm của các loại văn bản tự sự, biểu cảm, nghị
luận, miêu tả.
- Đối chiếu đặc điểm các văn bản mẫu với những đặc điểm đó xem tương
đồng hay khác biệt ( về cơ bản ).
Sau khi thảo luận, giáo viên cần giúp các em rút ra những kết luận về
sự khác biệt của những văn bản mẫu với các loại văn bản khác. Cụ thể :
- Các văn bản trên không nhằm mục đích trình bày diễn biến sự việc xoay
quanh các nhân vật từ đó thể hiện một ý nghĩa nào đó như trong văn bản
tự sự.
- Nếu văn bản miêu tả nhằm tái hiện chi tiết, cụ thể về đối tượng giúp
người đọc, người nghe cảm tháy hình ảnh, chân dung về đối tượng thì các
văn bản trên chủ yếu làm cho người ta hiểu về đối tượng.
- Nếu văn bản nghị luận trình bày ý kiến, luận điểm ( trình bày cách hiểu
thể hiện quan điểm tư tưởng của cá nhân về vấn đề theo suy luận chủ quan
) thì các văn bản mẫu không nhằm mục đích trên mà cung cấp những hiểu
biết về đối tượng dựa trên những tri thức và dữ liệu khách quan, khoa học.
- Khi trình bày tri thức về đối tượng đối với các văn bản trên không phụ
thuộc vào cảm xúc chủ quan của cá nhân như trong văn bản biểu cảm, mà
đúng như đặc trưng bản chất của nó ( tức là đúng sự thật ). Và cũng không
nhằm bày tỏ ý định, nguyện vọng, hay thông báo tin tức như trong văn
bản điều hành….
Từ những lí do trên có thể khẳng định đây là kiểu văn bản khác mà
các văn bản tự sự, miêu tả, nghị luận, biểu cảm không thay thế được.
Thấy được sự khác biệt trên, giáo viên hướng dẫn tìm ra đặc trưng
khu biệt của các văn bản trên với các văn bản khác bằng câu hỏi :
( ? ) : Các văn bản trên có những đặc điểm chung nào làm chúng trở

thành một kiểu riêng ( thuyết minh ) ?
-> Các văn bản trên cung cấp tri thức khách quan về sự vật, giúp con
người có được hiểu biết về sự vật một cách đúng đắn đầy đủ.
Giáo viên cần nhấn mạnh :
- Đã là tri thức thì không thể hư cấu, bịa đặt hay tưởng tượng, suy luận.
- Nói là tri thức khách quan nghĩa là thực dụng, cung cấp kiến thức khách
quan là chính, không đòi hỏi bắt buộc phải làm cho người đọc thưởng thức
cái hay, cái đẹp như tác phẩm văn học. Tuy nhiên, nếu viết có cảm xúc,
biết gây hứng thú cho người đọc thì vẫn tốt.
Để tiếp tục tìm hiểu đặc điểm, tính chất của kiểu bài thuyết minh,
giáo viên cho học sinh phân tích mẫu bằng câu hỏi :
( ? ) : Các văn bản trên chủ yếu thuyết minh về đối tượng bằng những
phương thức nào ? Ngôn ngữ, cách diễn đạt của cả 3 văn bản có những đặc
điểm gì ?
-> Phương thức thuyết minh : Giới thiệu, trình bày, giải thích ( cần
lưu ý cho học sinh về bản chất của hai chữ “ giải thích” trong văn bản
thuyết minh. Giải thích trong nội dung đã học là một thao tác trong văn
nghị luận, thực chất là trình bày cách hiểu của cá nhân về một vấn đề nghị
luận. Cách giải thích trong văn nghị luận có thể theo suy luận chủ quan
nhằm phát biểu quan điểm. Còn “ giải thích” trong thuyết minh là trình
bày lai lịch, cấu tạo, hoạt động hay tác dụng để người đọc, người nghe có
được hiểu biết về sự vật, hiện tượng một cách đúng đắn và biết cách sử
dụng chúng vào mục đích có lợi. Như vậy, thuyết minh là một kiểu văn
bản còn giải thích trong văn nghị luận chỉ là một phép lập luận ).
-> Ngôn ngữ trong văn bản thuyết minh ( thể hiện ở 3 văn bản mẫu ) :
chính xác, gãy gọn, mạch lạc.
Từ những phân tích trên, giáo viên hướng dẫn cho học sinh rút
ra những kết luận chung trong nội dung phần ghi nhớ ( sách giáo khoa
Ngữ văn 8 tập 1 / 117 ) và vận dụng vào làm các bài tập phần luyện tập.
b. Bên cạnh những kiến thức manh tính lý thuyết cơ bản về kiểu văn

bản, chương trình còn bố trí một số tiết cung cấp cho học sinh những hiểu
biết về một số dạng bài thuyết minh cơ bản. Như : Thuyết minh về một thứ
đồ dùng ; Thuyết minh về một thể loại văn học, Thuyết minh về một
phương pháp ( cách làm ) ; Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh.
Các mẫu được chọn là văn bản : “Chiếc xe đạp”, “ Vào nhà ngục
Quảng Đông cảm tác”, “ Đập đá ở Côn Lôn”, “ Cách làm đồ chơi em bé đá
bóng bằng quả khô”, “ Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn”.
Qua tiết học “ Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh”,
giáo viên đã giúp học sinh rút ra bố cục chung của một bài văn thuyết
minh là :
- Mở bài : Giới thiệu về đối tượng thuyết minh.
- Thân bài : Trình bày, giới thiệu về đối tượng thuyết minh.
- Kết bài : Bày tỏ thái độ với đối tượng thuyết minh.
Đến đây, giáo viên cần tiến hành cho học sinh quan sát văn bản mẫu,
tìm ra đặc điểm và cách làm của từng dạng bài cụ thể.
*Dạng bài : Thuyết minh về một thứ đồ dùng.
Cần quan sát, tìm hiểu kĩ cấu tạo, cơ chế hoạt động, tính năng, tác
dụng của đồ dùng đó. Bố cục chung của dạng bài này là :
- Mở bài : Giới thiệu đồ dùng.
- Thân bài : Trình bày đặc điểm cấu tạo, cơ chế hoạt động, tính năng,
tác dụng, cách sử dụng, bảo quản đồ dùng.
- Kết bài : ích lợi của đồ dùng trong cuộc sống.
-> Phương pháp chủ yếu : Định nghĩa, giải thích, nêu ví dụ, sử dụng
số liệu.
*. Dạng bài : Thuyết minh về một thể loại văn học.
Cần quan sát, nhận xét, sau đó khái quát thành những đặc điểm ( tiêu
biểu và quan trọng ). Bố cục chung của bài văn này là :
- Mở bài : Giới thiệu khái quát về thể loại.
- Thân bài :
+ Trình bày những đặc điểm hình thức của thể loại ( Thơ : thể thơ,

vần, nhịp, thanh điệu, cấu trúc…Truyện : thể loại, dung lượng, cốt truyện,
tình huống, nhân vât…Tác phẩm chính luận : bố cục, luận điểm, phương
pháp lập luận…)
+ Tác dụng của thể loại trong việc thể hiện chủ đề.
-Kết bài : Vai trò của thể loại trong nền văn học.
Giáo viên lưu ý mở rộng cho học sinh, dạng bài này có thể gồm cả
thuyết minh về một tác giả, một tác phẩm.
-> Phương pháp chủ yếu : định nghĩa, giải thích, nêu ví dụ, phân tích.
*. Dạng bài : Thuyết minh về một phương pháp ( cách làm ) :
Đối tượng thuyết minh của dạng bài này không phải là sự vật, hiện
tượng mà là quá trình hoạt động đề làm ra một sản phẩm hoặc đạt một kết
quả nào đó nên bố cục bài viết khá linh hoạt. Song bài cũng cần theo một
trình tự :
- Mở bài : Giới thiệu sản phẩm.
- Thân bài : Giới thiệu lần lượt :
+ Điều kiện ( nguyên vật liệu, dụng cụ ),
+ Cách thức, qui trình thao tác ( có thể kèm theo hình vẽ ).
-Kết bài : Yêu cầu thành phẩm ( Hình thức và chất lượng ).
-> Phương pháp chủ yếu là định nghĩa, giải thích, phân tích.


*. Dạng bài : Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh.
Để làm được kiểu bài này, cần quan sát ( tham quan ), tra cứu sách
vở, học hỏi để có những tri thức đáng tin cậy. Bố cục chung của dạng bài
này là :
-Mở bài : Giới thiệu danh lam thắng cảnh.
-Thân bài :
+ Giới thiệu vị trí địa lí, xuất xứ ( các thần thoại, truyền thuyết sự
kiện lịch sử gắn liền với di tích, thắng cảnh ).
+ Đặc điểm nổi bật ( Qui mô, cấu trúc, cảnh quan )

+ Vai trò, tầm quan trọng của di tích, thắng cảnh ( về lịch sử, văn
hoá, du lịch…) đối với đời sống con người.
-Kết bài : ý nghĩa giáo dục của thắng cảnh đối với hiện tại và tương
lai
Cần chú ý : Bên cạnh cơ sở kiến thức đáng tin cậy thì việc sử dụng lời
giới thiệu kèm miêu tả, bình luận, sử dụng một số biện pháp nghệ thuật
một cách hợp lý thì bài văn sẽ hấp dẫn hơn.
c. Qua việc nắm được đặc điểm của kiểu bài, ta dễ dàng nhận thấy đối
tượng thuyết minh là vô cùng phong phú nên giáo viên có thể cung cấp cho
học sinh một số mẫu, định hướng cho các em yêu cầu cơ bản khi thuyết
minh một số đối tượng khác. Cụ thể là :
* Thuyết minh về một cuốn sách, một tập truyện : Cần giới thiệu được
tác giả, thể loại, nhà xuất bản, năm xuất bản, dung lượng, những đặc sắc
về nội dung, nghệ thuật, những đóng góp ảnh hưởng tích cức của cuốn
sách ( truyện…) với người đọc, xã hội.
* Đối tượng thuyết minh là người ( một tác giả, danh nhân, một gương
mặt tiêu biểu…) : Cần giới thiệu tên, tuổi, quê quán gia đình, ngành nghề,
môi trường sinh hoạt làm việc, biểu hiện tư chất, năng khiếu, quá trình
học tập, rèn luyện, thành tích nổi bật và ý nghĩa của những thành tích của
nhân vật được thuyết minh.
* Thuyết minh về một vật dụng ( chiếc nón lá, đôi dép lốp, chiếc áo
dài…) : Cần trình bày nguồn gốc, chất liệu, kiểu dáng, màu sắc, quá trình
tồn tại, vai trò, tác dụng, ưu việt, giá trị thẩm mĩ của vật dụng đối với đời
sống, sinh hoạt con người.
* Thuyết minh về một loài cây, một loài vật nuôi : Cần trình bày được
tên, nguồn gốc, các đặc điểm nổi bật ( hình dáng, màu sắc, hương vị, tập
tính, thói quen…), quá trình sinh trưởng và phát triển, cách chăm sóc,
nuôi dưỡng…Vai trò, quan hệ của cây ( con vật ) đối với đời sống con
người.
Dạy Tập làm văn cũng như dạy kiểu văn bản thuyết minh rất cần

thiết việc hình thành lý luận một các có hệ thống. Nhưng lý thuyết chỉ thực
sự được củng cố và tiêu hoá thông qua hệ thống bài tập. Rèn luyện bền bỉ,
tỉ mỉ từng bước, thường xuyên thông qua hệ thống bài tập chặt chẽ từng
thao tác một cho học sinh là một yêu cầu có tính nguyên tắc, phù hợp đặc
thù của giảng dạy Tập làm văn. Thông qua luyện tập thực hành, lý thuyết
làm văn mới được định hình và đạt đến trình độ thông hiểu thực sự.
2. Vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu vào giảng dạy nội dung
thực hành.
Khi vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu, giáo viên hướng
dẫn học sinh tiến hành phân tích và sản sinh văn bản ( nói, viết ) theo mẫu.
Qua việc tìm hiểu các ngữ liệu, học sinh đi đến những kết luận về lí thuyết
( như phần trên đã đề cập ) rồi vận dụng linh hoạt những kiến thức này
vào hoạt động luyện tập và tạo lập sáng tạo văn bản theo những yêu cầu
của từng bài tập. Với hoạt động tạo lập sáng tạo theo mẫu không thể
không đặt học sinh vào những tình huống giao tiếp nhất định. Đó phải là
những tình huống thực sự có ý nghĩa, gần gũi với chính học sinh chứ
không thể là tình huống có tính chất giả thiết, không thể thực hiện. Cách
dạy làm văn ( trong đó văn thuyết minh ) theo tình huống hành động giao
tiếp và trên mẫu là cách dạy hiện đại có hiệu quả.
* Ví dụ 1 : Sau khi các em có những định hướng về cách làm một bài
văn thuyết minh từ việc phân tích mẫu văn bản “ Xe đạp”. Giáo viên
hướng dẫn học sinh luyện tập bằng bài tập :
Tìm ý và lập dàn ý cho đề bài “ Giới thiệu về chiếc nón lá Việt
Nam”.
Để làm được bài tập trên, học sinh phải vận dụng những kiến thức
lý thuyết để tiến hành tìm hiểu đề bài ( xác định đối tượng – chiếc nón lá ) ;
tìm hiểu, tích luỹ tri thức về đối tượng ( xuất xứ, hình dáng, nguyên liệu,
cách làm nón, những địa phương nổi tiếng trong nghề làm nón, vai trò, ý
nghĩa của chiếc nón với đời sống con người Việt Nam…) ; lựa chọn
phương pháp thuyết minh ( định nghĩa, giải thích, phân tích, phân loại,

nêu ví dụ ) ; từ đó lập dàn ý cho đề bài ( trên tinh thần thảo luận, thống
nhất nhóm ).
* Ví dụ 2 : Để củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng về kiểu bài
thuyết minh một thể loại văn học, ngoài các bài tập nhận diện, giáo viên có
thể cho các em luyện tập bằng bài tập sau :
Lập dàn ý cho đề bài : “ Thuyết minh về về thể loại truyện ngắn
dựa trên cơ sở các tác phẩm truyện ngắn đã học”.
Căn cứ vào những kết luận về lý thuyết kiểu bài vừa tìm được từ
việc thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật, kết hợp với việc
quan sát tìm hiểu các truyện ngắn trong phần đọc hiểu văn bản, để tìm ra
những đặc điểm của truyện ngắn về dung lượng, cốt truyện, kết cấu, vai
trò, tác dụng để tạo lập một dàn ý hợp lý.
3. Vận dụng phương pháp giao tiếp vào giảng dạy nội dung thực hành.
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh rèn luyện theo mẫu thì việc đưa
các em vào những tình huống giao tiếp để sản sinh văn bản cũng là một
việc làm quan trọng. Điều này thể hiện ở việc giáo viên đưa ra các câu hỏi.
* Ví dụ : Một bạn học sinh trình bày bài thuyết minh về chiếc bàn là
điện ( theo dàn ý đã chuẩn bị ). Giáo viên hỏi các học sinh khác :
( ? ) : Theo em, bạn đã trình bày đầy đủ và hợp lý về một đồ dùng bàn
là điện chưa ? Vì sao ? Nếu là em, em sẽ trình bày bài này như thế nào ?
Hoặc : ( ? ) : Nếu có một du khách nước ngoài muốn tìm hiểu về
những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở quê hương em, em sẽ giới
thiệu thắng cảnh nào ? Và giới thiệu như thế nào ?
Việc đặt ra những câu hỏi để đưa học sinh vào tình huống giao tiếp
như trên chủ yếu vận dụng trong tiết dạy thực hành “ Luyện nói”.
a.Trong chương trình Ngữ văn nói chung, Ngữ văn 8 nói riêng,
ngoài mục luyện tập chiếm một nửa thời lượng mỗi tiết làm văn, còn khá
nhiều số giờ thực hành luyện tập riêng, đặc biệt là số giờ luyện nói. Giờ
học này rất quan trọng. Bởi vì nó không chỉ củng cố lý thuyết mà còn góp
phần rèn luyện kĩ năng, hình thành kĩ xảo. Để giờ làm văn miệng thực sự

có hiệu quả, tránh cho các em cảm giác nhàm chán, đơn điệu, tẻ nhạt,
người giáo viên cần ý thức được tầm quan trọng của tiết học. Giáo viên
cần chuẩn bị, xây dựng kế hoạch giảng dạy thật kĩ lưỡng, tạo được những
tình huống sư phạm để phát huy hiệu quả đào tạo học sinh về nhiều mặt.
So với làm văn viết, làm văn miệng có những đặc thù riêng. Thời
gian chuẩn bị ít, khoảng cách giữa tư duy và ngôn ngữ rút ngắn , đòi hỏi
sự nhanh nhạy, linh hoạt, cơ động trong chọn từ, sắp ý và diễn đạt. Đã thế
trong giờ làm văn miệng, học sinh còn phải biết vận dụng yếu tố đặc thù
của lời nói kết hợp với những hoạt động hình thể. Song bên cạnh những
khó khăn trên, giờ làm văn miệng lại có thế mạnh là học sinh hoạt động
giao tiếp tập thể dễ kích thích hứng thú hoạt động của học sinh nếu giáo
viên ý thức được ưu thế của giờ này. Chính vì vậy, hình thức lên lớp giờ
Tập làm văn miệng cần đa dạng hoá, nhằm phát huy tính chủ động, sáng
tạo của từng học sinh tuỳ thuộc vào sự chuẩn bị của các em. Giáo viên có
thể cho cả lớp chuẩn bị một vấn đề song chỉ định một vài học sinh ( không
nhất thiết phải giỏi nhất ) chuẩn bị kĩ hơn để trình bày trước tập thể, lớp
trao đổi, giáo viên tổng kết. Có thể đến lớp mới ra đề cho học sinh chuẩn bị
trong 15 – 20 phút rồi phát biểu, trao đổi, từng nhóm cử đại diện trình
bày, học sinh nhận xét, giáo viên tổng kết. Cũng có thể tổ chức giờ làm văn
miệng thành một buổi sinh hoạt tập thể ( thi giữa các nhóm tổ )…
Dù tổ chức theo hình thức nào thì qua cách diễn đạt, phong cách,
điệu bộ của học sinh, giáo viên cần động viên hay uốn nắn kịp thời về mặt
ứng xử đồng thời bổ sung, điều chỉnh kiến thức cho các em. Giờ làm văn
miệng cần có ý nghĩa giáo dục toàn diện, song trọng tâm vẫn là rèn luyện
ngôn ngữ nói, phương pháp tư duy, nghệ thuật giao tiếp.
* Ví dụ : Khi dạy bài “ Luyện nói : thuyết minh về một thứ đồ dùng”.
Đề bài : thuyết minh về cái phích nước.
Giáo viên yêu cầu tất cả học sinh có sự chuẩn bị trước.
Hoạt động trên lớp :
-Bước 1 : Xác định yêu cầu đề bài và những yêu cầu cơ bản để có

được một bài nói thuyết minh về đối tượng ( chiếc phích ).
-Bước 2 : Học sinh thảo luận theo nhóm ( 4 nhóm ), bổ sung ý kiến để
hoàn chỉnh dàn ý trên cơ sở đã chuẩn bị ở nhà ( 10 phút ).
-Bước 3 : Tổ chức thi giữa các nhóm, đại diện các nhóm lên trình bày,
các nhóm khác chấm điểm theo tiêu chí nhất định. ( Mỗi nhóm tổ cử ra
một đại dịên là Ban giám khảo ).
Tiêu chí chấm điểm :
+ Bài nói đúng lý thuyết thuyết minh, đảm bảo các yêu cầu cơ bản khi
giới thiệu một đồ dùng. ( 5 điểm )
+ Ngôn ngữ rõ ràng, tác phong bình tĩnh tự tin, tự nhiên, trình bày
mạch lạc, chặt chẽ. ( 5 điểm )
-Bước 4 : Giáo viên công bố kết quả trên cơ sở tập hợp điểm của Ban
giám khảo, tuyên dương, động viên, khuyến khích. Sửa chữa, bổ sung, uốn
nắn những thiếu sót ở học sinh .
-Bước 5 : Củng cố kiến thức những yêu cầu cụ thể đối với kiểu bài
thuyết minh về một thứ đồ dùng để chuẩn bị cho bài viết đầu tiên về văn
thuyết minh.
Để có hiệu qủa thực sự trong giờ luyện làm văn, giáo viên cần đối
chiếu yêu cầu thực hành của bài học theo những vấn đề lí thuyết của nó,
quan tâm tới phạm vi kiến
thức sẽ được học sinh huy động vào làm bài, tạo được nhu cầu thể
hiện, cần bộc lộ ở học sinh cũng như sự lắng nghe, sự quan tâm của giáo
viên với những gì học sinh sẽ bộc lộ.
b. Trong chương trình Ngữ văn còn có tiết “ Trả bài”. Đây cũng là
tiết thực hành và vận dụng tập trung phương pháp giao tiếp trong giảng
dạy. Đối với kiểu bài thuyết minh – kiểu bài lần đầu tiên xuất hiện trong
chương trình Ngữ văn thì tiết trả bài càng cần phải có sự chuẩn bị công
phu đúng với ý nghĩa cần và vốn có của nó. Giáo viên căn cứ vào dữ kiện
của đề bài, tình hình làm văn của học sinh đề xác định yêu cầu của tiết dạy
về các mặt tư tưởng, kĩ năng, phương pháp. Giờ trả bài cần tiến hành theo

một trình tự hợp lý.
- Yêu cầu học sinh nhắc lại đề bài, tìm hiểu đề.
- Xây dựng, định hướng cho bài viết ( dàn ý ).
- Giáo viên nhận xét bài làm của học sinh ( ưu điểm và tồn tại ), trả
bài cho học sinh.
- Học sinh tự chữa lỗi cho bài làm của mình và bạn ( trên cơ sở lời
nhận xét và lời phê của giáo viên).
- Giáo viên chọn một số đoạn văn mắc các lỗi tiêu biểu, chữa trước
lớp.
- Đọc bài văn hay.
- Củng cố kiến thức bài học ( lý thuyết, kĩ năng làm bài ), khuyến
khích, động viên học sinh làm bài sau.
Giờ trả bài là giờ học được xây dựng từ sự lao động trực tiếp và vốn
liếng nhiều mặt của học sinh. Điều cốt yếu là qua giờ trả bài, các em nhận
ra mặt mạnh, mặt yếu của mình, để có hướng phát huy hay khắc phục.
Giáo viên có thể dành thì giờ giải đáp thắc mắc của học sinh về dàn ý, các
lỗi, kể cả số điểm trong bài viết của mình. Có như thế mới phát huy được
vai trò của một tiết thực hành. Muốn đạt được điều đó thì quy trình chấm,
trả bài là quy trình tỉ mỉ, công phu, gắn liền với tinh thần trách nhiệm,
lương tâm nghề nghiệp, tình thương yêu của giáo viên đối với học sinh.


IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.



Qua việc vận dụng các phương pháp mang tính đặc thù và đổi mới
phương pháp trong giảng dạy kiểu bài thuyết minh trong chương trình
Ngữ văn 8, tôi đã đạt được những kết quả ban đầu :
-Học sinh qua các bài học không chỉ thông hiểu mà nắm vững vàng

những đặc trưng cơ bản của kiểu bài. Việc nắm vững các phương pháp,
các mô hình về các kiểu bài thuyết minh đã giúp các em có cơ sở đề tạo lập
được các văn bản thuyết minh đơn giản, gần gũi.
-Vận dụng phương pháp thực hành qua việc hướng dẫn học sinh
luyện tập theo mẫu, tổ chức tốt các tiết học luyện nói, tiết trả bài, giáo viên
không chỉ giúp các em củng cố lý thuyết mà còn hình thành được kĩ năng
làm bài. Điều này thể hiện rõ qua bài viết của các em.
Sau đây là một số đoạn văn tiêu biểu :
“ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh bây giờ đã trở thành một điểm thu
hút khách du lịch trong và ngoài nước. Ai cũng muốn được vào thăm để
tận mắt nhìn thấy vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Lăng mở cửa
đón khách vào tất cả các ngày trong tuần trừ thứ 2 và thứ 6. Lăng là công
trình lịch sử của Thủ đô cũng như của cả nước thể hiện lòng kính trọng,
biết ơn của dân tộc đối với vị Cha già kính yêu”.


( Đoạn văn của em Hoàng Thị Lan– lớp 8C).
“ Từ sau năm 1975, chiếc áo dài Việt Nam thực sự lên ngôi. Nó
chiếm vị trí độc tôn trong các dịp lễ hội, giao dịch quốc tế. Nó xuất hiện
trên các diễn đàn, các sân vận động trong và ngoài nước, trong các buổi
biểu diễn nghệ thuật thời trang, thi hoa hậu. Chiếc áo dài đã như câu quan
họ bay đi khắp thế giới, ở đâu nó cũng có một vị trí xứng đáng. Nó được
cải tiến thêm và mang sắc thái riêng từng miền trong những chi tiết nhỏ để
đáp ứng được sở thích và yêu cầu thẩm mĩ của thời đại”.


( Đoạn văn của em Lê Thị Nhi – lớp 8D )


PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Đánh giá
Trên đây là kết quả thực nghiệm mà tôi áp dụng với học sinh lớp
8A, 8B. Kết quả cho thấy học sinh có tiến bộ, số lượng học sinh đạt khá,
giỏi tăng lên, học sinh ham học và dễ nhớ kiến thức.
Các biện pháp trên cùng với kết quả mà tôi đã trình bày khẳng
định được phương pháp giảng dạy kiểu bài thuyết minh như trên là có
hiệu quả.
2. Khuyến nghị
Đây là một kiểu bài hoàn toàn mới trong chương trình. Để giảng
dạy có hiệu quả kiểu bài này không phải là chuyện dễ dàng mà đòi hỏi giáo
viên phải đầu tư thời gian, tìm hiểu, tích luỹ kiến thức và làm việc với tinh
thần trách nhiệm cao. Với chút kinh nghiệm nhỏ bé của mình, tôi xin được
mạnh dạn đưa ra ý kiến về việc “ Nâng cao hiệu quả giờ dạy kiểu bài thuyết
minh” để cùng được trao đổi với các đồng nghiệp, chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong được đồng nghiệp nhận xét, giúp đỡ, đóng
góp ý kiến bổ sung.

Tôi xin chân thành cảm ơn !

×