Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Luận văn nghệ thuật thể hiện chiến tranh và người lính trong thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.4 KB, 58 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. "Bất cứ một nền văn học chân chính nào, sự ra đời và phát triển của nó đều
gắn bó sâu sắc với thời đại sinh ra nó, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ của thời đại đó"
[54, tr. 126]. Văn học Việt Nam từ 1945 - 1975, đặc biệt là mảng văn học viết về đề
tài chiến tranh cách mạng và người lính được xem là trung tâm, đáp ứng được
những đòi hỏi bức thiết của lịch sử, sáng tạo trên cảm hứng lớn của thời đại và có vị
trí xứng đáng trong tiến trình văn học dân tộc.
Chiến tranh chấm dứt "cuộc sống dần trở lại với những quy luật bình thường
của nó, con người trở về với đời thường, phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề trong
một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay của xã hội. Bối cảnh đó đã thúc đẩy sự
thức tỉnh ý thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng số phận" [46,
tr.15]. Văn học Việt Nam từ sau 1975, tồn tại, phát triển trong điều kiện lịch sử xã
hội, trong môi trường ý thức, tinh thần có nhiều thay đổi. Những yếu tố đó đã tác
động và chi phối mạnh mẽ xu hướng vận động và đặc điểm của văn học. Đặc biệt là
từ sau Đại hội VI của Đảng, những người cầm bút hầu như không phải "kị húy" hay
né tránh khi muốn đề cập đến các vấn đề trong xã hội. Những bất hạnh cá nhân,
những thói đời đen bạc, những xói mòn đạo đức, những nhu cầu bản năng đều
được các nhà văn, nhà thơ đi sâu khai thác.
Văn học từng bước trở lại với chức năng và bản chất của chính nó. Chưa bao
giờ nhu cầu sáng tạo trong dân chủ, nhu cầu sống trong mỗi vấn đề của đời sống để
tìm kiếm những giá trị phong phú của tinh thần con người lại được văn học quan
tâm như lúc này. Văn học gắn bó với hiện thực, nhưng không chỉ phản ánh hiện
thực mà còn là suy ngẫm về hiện thực. Đối tượng nghiên cứu và khám phá của văn
học không chỉ là xã hội mà còn là con người với tất cả sự phức tạp và bí ẩn của nó.
Vấn đề quyền sống, nỗi đau khổ và hạnh phúc của con người được văn chương khai
thác với cảm hứng nhân đạo sâu sắc.
1.2. Đất nước bước sang thời kì hòa bình, nhưng hậu quả, dư âm của nó vẫn
tồn tại dai dẳng trong đời sống của mỗi người. Sự khốc liệt của chiến tranh và hình
tượng người lính vẫn là cảm hứng của nhiều nhà văn, nhà thơ, đặc biệt là những
người mặc áo lính. Tuy không chiếm vị trí số một như văn học giai đoạn trước,


nhưng đề tài chiến tranh và người lính vẫn phản ánh rõ nét quá trình chuyển biến
của ý thức văn học, nhất là từ khi đất nước bước vào thời kì đổi mới. Trong quan
niệm của nhiều nhà văn chiến tranh vẫn là “siêu đề tài", người lính vẫn là "siêu
nhân vật", càng khám phá càng thấy những "độ rung không mòn nhẵn" và công việc
của những người cầm bút trong những năm chiến tranh chỉ mới nói được một phần
nào về cuộc sống, con người thời chiến. Điều đó khẳng định, văn học thời bình vẫn
luôn quan tâm dành cho đề tài chiến tranh và người lính những trang viết có giá trị.
1.3. Trong sự nhập cuộc với đời thường, thơ viết về chiến tranh và người lính
tuy chưa có những thành tựu rực rỡ, những đỉnh cao tiêu biểu, nhưng việc thẳng
thắn trong phản ánh hiện thực đã mang đến cho thơ một diện mạo mới, một sắc thái
mới. Khát vọng biểu hiện cuộc sống, thế giới tâm hồn con người sau chiến tranh đã
thôi thúc những người cầm bút có lương tri phải nói "bao điều bão tố ở bên trong"
mà một thời họ chưa kịp nói. Điều đáng mừng là những điều họ nói ra đã được xã
hội chấp nhận và đón đợi.
1
Với độ lùi thời gian, cách cảm nhận của các nhà thơ về chiến tranh có sự từng
trải, thấu đáo và đa dạng hơn. Họ đã "tái bút" về chiến tranh và người lính trên
những bình diện, cấp độ và cách diễn đạt mới. Đó là một hành trình thơ ca khởi
nguồn từ những sắc màu có phần lấp lánh, đầy hào quang của ngoại giới để đến với
sự đồng cảm âm thầm mà mãnh liệt của sức sống nội tâm. Các tác giả ý thức viết về
sự thật thay thế cho sự mô tả hiện thực. Vấn đề nhân bản, khám phá thế giới bên
trong của nhân vật trữ tình vượt lên trên những ràng buộc của tính thời sự và tuyên
truyền. Các nhà thơ đi sâu vào khai thác tâm trạng, nỗi niềm của những người lính
đã qua một thời binh lửa trở về với đời thường, cố gắng phát hiện thế giới tâm hồn
đầy phức cảm của những con người thời hậu chiến. Bên cạnh đó, còn khơi gợi được
tình yêu, niềm tin và lẽ sống của con người với con người, của con người với cuộc
đời sau những vinh quang và mất mát của chiến tranh.
Các nhà thơ viết về chiến tranh và người lính hôm nay không còn không khí ào
ạt, dữ dội của những người trong trận mạc như trước đây, mà là những hồi ức,
chiêm nghiệm, những trăn trở, suy tư đầy trách nhiệm về hiện thực. Đó là cơ sở để

có được những chuyển đổi về chất trong thơ viết về chiến tranh và người lính. Thơ
được trả về đúng nghĩa với sắc thái là "tiếng lòng" là "tiếng nói của trái tim" rất dễ
tìm được sự đồng điệu của người đọc. Có thể nói, thơ viết về chiến tranh và người
lính giai đoạn 1975 - 2000, đã nói rất thật những vấn đề của xã hội và tâm trạng của
nhân vật trữ tình trước cuộc sống. Chiều kích của thơ hình thành từ sự "vang vọng"
của hiện thực, được mở rộng trong không gian, thời gian tâm tưởng, trở thành
những rung động thẳm sâu trong tâm hồn nghệ sĩ.
Chúng tôi chọn đề tài Nghệ thuật thể hiện chiến tranh và người lính trong
thơ 1975 - 2000 với mong muốn góp phần làm rõ hơn diện mạo thơ về chiến tranh
và người lính sau 1975, từ đó xác định một số bình diện đặc sắc trong cách cảm
nhận và cách thể hiện của các nhà thơ thời kì này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Đề tài chiến tranh và người lính là một dòng chảy không ngừng của văn học
Việt Nam. Mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà văn, nhà thơ lại phản ánh vấn đề ở những
điểm nhìn và cách cảm nhận khác. Điều đó phản ánh sự trưởng thành hơn trong
nhận thức, bút pháp thể hiện của các thế hệ cầm bút qua từng thời kì. Khi tập trung
khảo sát Nghệ thuật thể hiện chiến tranh và người lính trong thơ 1975 - 2000,
chúng tôi thấy đã có nhiều bài viết trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến vấn đề này.
Những bài nghiên cứu đó, chúng tôi chia thành hai nhóm dưới đây:
2.1. Những bài nghiên cứu về văn xuôi: Người viết cần thấu hiểu chiến tranh
(Nguyễn Quang Hà), Tản mạn về tiểu thuyết sử thi (Hồ Phương), Có gì mới trong
tiểu thuyết về đề tài chiến tranh hôm nay (Hồ Phương), Sử thi và hoành tráng câu
trả lời cho một đời (Chu Lai), Viết về chiến tranh đôi điều suy ngẫm (Chu Lai), Lại
nói về chiến tranh và viết về chiến tranh (Nam Hà), Bộ đội cụ Hồ - nhân vật trung
tâm của văn xuôi, một giá trị độc đáo của văn hóa kháng chiến (Ngô Vĩnh Bình),
Văn xuôi viết về người lính hôm nay - một thách đố nhà văn (Sương Nguyệt Minh),
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang sau 1975 -
những thành tựu nghệ thuật còn bị bỏ lỡ (Nguyễn Thiệu Vũ), Vấn đề nhân vật
trong tiểu thuyết sử thi về đề tài chiến tranh cách mạng (Nguyễn Thanh Tú), Người
2

lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kì đổi mới (Nguyễn Hương
Giang), Văn học về người lính (Ngô Thảo)
2.2. Những bài nghiên cứu về thơ: Thơ Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh
(Mai Hương), Đổi mới ngôn ngữ thơ trong thơ kháng chiến (Vũ Duy Thông), Thơ
về người lính hôm nay (Vương Trọng), Suy nghĩ về thơ Việt Nam từ sau năm 1975
(Nguyễn Văn Hạnh), Thơ cách mạng và kháng chiến - một dòng sông thơ rất mới
và tuyệt đẹp (Võ Gia Trị), Thơ chống Mĩ trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam
(Lưu Khánh Thơ), Cái đẹp trong thơ kháng chiến 1945 - 1975 (Vũ Duy Thông),
Một phác thảo về thơ bộ đội sau 1975 (Nguyễn Hữu Quý), Thơ trữ tình Việt Nam
1975 - 1900 (Lê Lưu Oanh), Trước đèn thơ (Lê Thành Nghị), Thơ 75 - 95, biến
đổi của thể loại (Vũ Văn Sĩ), Thơ năm 1992 (Lưu Khánh Thơ), Chiến tranh trong
thơ hôm nay (Bích Thu), Nhân đọc Nguyễn Đức Mậu nghĩ về cũ và mới trong thơ
(Hữu Đạt), Thơ Việt Nam sau 1975 - từ cái nhìn toàn cảnh (Nguyễn Đăng Điệp),
Nhìn lại thơ 30 năm chiến tranh (Mã Giang Lân)
Đi sâu vào nghiên cứu văn học viết về chiến tranh và người lính sau 1975, các
tác giả đã phát hiện được nhiều yếu tố mới, tạo nên diện mạo riêng của đề tài so với
giai đoạn văn học trước 1975. Trong bài Văn học viết về chiến tranh cách mạng -
đòi hỏi và thách thức của thời gian, tác giả Lê Thành Nghị cho rằng: "Khi nhận ra
cuộc chiến đấu không chỉ có anh hùng quả cảm, mà còn là đau thương tột cùng, chủ
thể sáng tạo đã không hề né tránh sự thật ở những tình huống bi kịch, bi tráng xuất
hiện trong mối quan hệ giữa khát vọng sống của từng cá nhân và vận mệnh của Tổ
quốc, và đã phản ánh những tình huống bi kịch đó một cách chân thực và rắn rỏi"
[54, tr.126]. Tác giả Tôn Phương Lan khi viết Người lính trong văn xuôi viết về
chiến tranh của những nhà văn cầm súng đã đề cập cụ thể: "Người lính trong văn
học thời kì này được thể hiện nhiều trong hình ảnh người lính trở về và bước vào
cuộc sống chiến đấu mới tương đối đơn thương độc mã trong việc duy trì cuộc sống
bình thường cho cá nhân, cho gia đình, cho xã hội" [40, tr. 96].
Thơ sau 1975, có nhiều đổi mới trên nhiều phương diện, nên khi Suy nghĩ về
thơ Việt Nam từ sau năm 1975, tác giả Nguyễn Văn Hạnh nhận xét: "Thơ sau năm
1975 không chỉ còn tập trung vào cổ vũ chiến đấu, ca ngợi những mặt tích cực của

cuộc sống mà suy nghĩ về nhiều vấn đề phức tạp của cuộc sống" [25, Tr. 8]. Theo
tác giả, cuộc sống thời hậu chiến với cả mặt phải và mặt trái, ánh sáng và bóng tối,
niềm vui và nỗi đau, cao cả và thấp hèn là hiện thực phức tạp cần phản ánh một
cách chân thực. Con người với tư cách là con người của cộng đồng và cá nhân, với
quan hệ và nhu cầu nhiều mặt, trong chiến tranh chưa thể soi sáng một cách toàn
diện. Có những sự thật trong chiến tranh người ta chưa thấy, hoặc thấy nhưng
không muốn nói, không nỡ nói, không được nói. Khi cuộc sống đã trở lại bình
thường, thơ cũng phải trở lại với chức năng của nó, chú ý mọi điều liên quan đến
con người theo tinh thần tôn trọng sự thật và giá trị nhân văn được coi là những yêu
cầu tư tưởng nghệ thuật bao trùm nhất, như là lẽ sống của mọi khuynh hướng văn
học nghệ thuật chân chính. Với Những chuyển động của thơ Việt đương đại,
Nguyễn Đăng Điệp đã so sánh: “với thơ trước 1975, dòng thơ phản ánh sự vĩ đại
của dân tộc qua hai cuộc chiến tranh, có phần "hạ tông" và chứa nhiều suy tư chiêm
nghiệm hơn. Khi cuộc chiến tranh đi qua, dù chưa nhiều nhưng các nhà thơ đã có
một độ lùi cần thiết để nhìn rõ hơn cái được cái mất" [16, Tr. 43]. Tác giả Nguyễn
Hữu quý trong bài Một phác thảo về thơ bộ đội sau 1975 cho rằng: "đó là sự bù đắp
3
cho những gì nhà thơ chưa viết ra được trong thời cả nước tưng bừng ra trận, thời
từng vết thương đau cũng biết nín máu lại, giọt nước mắt tang tóc chảy ngược vào
lòng chiến tranh trong thơ các anh bây giờ có những đau đớn, xót xa. Cái sự
không trở về của những người lính trận, có lúc là nỗi ám ảnh nhức nhối trong thơ"
[62, tr. 173]. Lê Thành Nghị Trước đèn thơ viết: "chưa bao giờ thơ diễn đạt nỗi
đau bình thản đến tê dại như vậy. Chỉ có khi "nước mắt chảy vào trong", khi sự
nhức nhối đã lên đến cùng cực, khi "cấp độ" của bi kịch đã vượt lên trên giới hạn,
nỗi đau đã đi đến mút chót của cân não, lời lẽ mới trở nên lạnh lùng, ngôn ngữ mới
khoác cái vỏ "vô cảm" bề ngoài như vậy. Nhưng thực ra sau cái vỏ "vô cảm" ấy là
sự ám ảnh của số phận con người, là sự cảm thông sâu sắc với số phận con
người Bên cạnh bút pháp "tả thực" là bút pháp "biểu hiện" như một bước tiến mới
của thơ sau 1975, chứa chất nhiều vấn đề của tâm lí, đạo đức, lối sống, nhiều vấn đề
của tình cảm, của tâm linh mà nghệ sĩ có thể khám phá, tái hiện, làm kết tinh, hiển

lộ những triết lí, tư tưởng mang ý nghĩa nhân sinh của hiện thực"[56, tr. 150].
Nhìn chung, các tác giả đều có nhận định là tác phẩm viết về chiến tranh và
người lính giai đoạn sau 1975 đa dạng, phong phú về hình thức biểu hiện, chân
thực, táo bạo, với nhiều suy ngẫm, nhiều đào xới, khám phá hơn trong nội dung.
Hình tượng người lính trở về sau chiến tranh, được các tác giả tập trung khai thác
và tô đậm ở góc nhìn số phận đời thường. Nhân vật người lính được đặt ra với tư
cách con người cá thể, trong mối quan hệ chung, riêng cùng tồn tại. Thơ viết về đề
tài chiến tranh và người lính sau 1975, từng bước vượt qua những giới hạn lịch sử
của thơ kháng chiến, để tiếp cận những mảng màu đời sống còn nhức nhối sau chiến
tranh.
Những bài viết của các tác giả phần lớn đã có những phát hiện mới về nội dung,
nghệ thuật ở đề tài chiến tranh và người lính sau 1975. Tuy nhiên, đó chỉ mới là
những bài viết mang tính riêng lẽ, chưa đặt thành một hệ thống nghiên cứu chuyên
biệt. Luận văn của chúng tôi cố gắng lĩnh hội các quan điểm, các ý tưởng, sự gợi
mở của những người đi trước, tiếp tục triển khai nghiên cứu Nghệ thuật thể hiện
chiến tranh và người lính trong thơ 1975 – 2000 một cách tập trung và hệ thống
hơn.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Nghệ thuật thể hiện chiến tranh và
người lính trong thơ 1975 - 2000 trên một số phương diện cơ bản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu khảo sát thơ giai đoạn 1975 - 2000 viết về chiến tranh và
người lính. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát thơ giai đoạn 1945 - 1975 viết về chiến
tranh và người lính để đối chiếu, so sánh, tìm ra những phương thức thể hiện mới
về chiến tranh và người lính trong thơ 1975 - 2000.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với đề tài này chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:
4.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
4

Phương pháp này, đã giúp chúng tôi tiếp cận được với những đặc điểm cơ
bản của thơ, từ đó rút ra giá trị mới về nội dung, nghệ thuật của thơ giai đoạn 1975 -
2000 viết về chiến tranh và người lính.
4.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng trên hai bình diện đồng đại và lịch đại để
phát hiện những kế thừa, những cách tân của các nhà thơ viết về đề tài chiến tranh
và người lính sau 1975.
4.3. Phương pháp hệ thống
Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống, nhằm xem xét những bình diện,
những yếu tố và những mối quan hệ cơ bản tạo nên diện mạo thơ viết về chiến tranh
và người lính giai đoạn 1975 - 2000.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Với đề tài này, luận văn góp phần làm rõ diện mạo thơ viết về chiến tranh và
người lính giai đoạn 1975 - 2000.
- Luận văn khẳng định một số bình diện đặc sắc, thể hiện qua cách nhìn nhận,
lí giải về chiến tranh và người lính của các tác giả, những điểm vừa riêng biệt vừa
làm nên thành tựu của thơ sau 1975.
- Ngoài ra, cũng có thể sử dụng luận văn làm tư liệu tham khảo cho việc học
tập và giảng dạy phần thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt là thơ sau 1975.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được triển
khai trong ba chương như sau:
Chương 1:
KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG VĂN
HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
Chương 2:
CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG THƠ 1975 - 2000 NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRỮ TÌNH
Chương 3:
CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CƠ BẢN CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI

LÍNH TRONG THƠ 1975 - 2000.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
5
KHÁI QUÁT ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
1.1. ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG VĂN HỌC
TRƯỚC 1975
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của bốn nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Lịch sử của một dân tộc kiên cường, không cam chịu kiếp đời nô lệ đã đứng
lên quyết chiến chống kẻ thù xâm lược. Chúng ta có quyền tự hào về truyền thống
đánh giặc, về tinh thần bất khuất, về những chiến công hào hùng chói lọi của quân
và dân ta.
Văn học cách mạng từ 1945 đến 1975 tập trung vào chủ đề chiến đấu cho nền
độc lập - tự do của đất nước. Thời đại với những chuyển biến lớn lao của lịch sử, đã
đem đến cho văn học giọng điệu lãng mạn cách mạng, đậm chất sử thi bắt nguồn từ
những chiến công vang dội của dân tộc. "Giọng điệu thời đại đó", đã có tác dụng
hòa cái tôi cá nhân của nghệ sĩ vào cái ta chung của cộng đồng. Mọi biểu hiện mang
màu sắc cá nhân đều không phù hợp với tinh thần của cuộc kháng chiến. Trong bối
cảnh đó, người lính trở thành nhân vật trung tâm, biểu hiện khát vọng, kết tinh vẻ
đẹp chiến đấu, chiến thắng của con người Việt Nam. Từ anh vệ quốc quân trong văn
học chống Pháp đến anh giải phóng quân trong văn học chống Mĩ - những người
chiến sĩ mà cuộc đời và chiến công của họ trở thành niềm tự hào của dân tộc đã thu
hút sự say mê sáng tạo hầu hết những người cầm bút.
Văn học viết về chiến tranh và người lính giai đoạn này, chủ yếu khám phá con
người từ phương diện xã hội, từ trách nhiệm công dân. Trong các sáng tác của
mình, nhà văn, nhà thơ không xem xét con người ở bình diện cá nhân mà khám phá
và thể hiện con người của tập thể, cộng đồng, dân tộc, giai cấp. Con người của gia
đình, làng xóm không còn trong phạm vi hẹp mà trở thành con người chung của
cách mạng, vẻ đẹp và sức mạnh của họ chỉ hiện ra khi họ có mặt trong tập thể ấy.

1.1.1.Chiến tranh và người lính trong văn xuôi
Trong suốt ba mươi năm (1945 - 1975), cuộc chiến đấu giành độc lập của dân
tộc là bình diện nổi bật, bao trùm toàn bộ đời sống xã hội, thu hút và chi phối mọi
bình diện khác của hiện thực. Có thể nói, mọi chủ đề, đề tài, cảm hứng của văn học
đều được trực tiếp khai thác hoặc liên quan chặt chẽ tới những vấn đề về vận mệnh
của đất nước của nhân dân. Văn xuôi tập trung vào các nội dung có ý nghĩa toàn
dân tộc, tái hiện bức tranh hiện thực lịch sử và xây dựng những hình tượng con
người sử thi cao đẹp.
Trong các tác phẩm văn học thời kì này, mối quan hệ thế sự - đời tư không
nằm trong sự chú ý của nhà văn. Nếu được đưa vào trong tác phẩm thì cũng bị chi
phối bởi đời sống cộng đồng và mang một ý nghĩa xã hội khác. Việc đưa lên hàng
đầu con người tập thể, con người công dân đã khiến cho văn xuôi giai đoạn trước
1975 tập trung chủ yếu vào các biểu hiện tâm lí của nhân vật như lòng yêu nước,
căm thù giặc, tình nghĩa đồng bào, tình cảm tiền tuyến hậu phương, ý thức giai
cấp Nhân vật hiện lên trong các tác phẩm đều là những con người hành động. Họ
sống, chiến đấu và sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc thân yêu, bởi thế tâm lí của họ đơn
giản, dễ hiểu.
6
Khi cuộc kháng chiến nổ ra, nhân vật người lính được xem là nhân vật trung
tâm của văn học kháng chiến. Trở thành người lính Cụ Hồ với những đức tính tốt
đẹp tiêu biểu, là cả một chặng đường giác ngộ rèn luyện của bản thân mỗi người.
Nói như Nguyễn Huy Tưởng "đó là kết quả của sự biến đổi của tất cả những con
người khác nhau thành người lính Việt Nam điển hình".
Người lính trong văn học thời kì này, được dấn thân vào những nơi gian khổ ác
liệt để thử thách ý chí kiên định và lí tưởng mà họ đã chọn. Nhiều tác phẩm đặt các
chiến sĩ trước sự lựa chọn nghiệt ngã của sự sống và cái chết để khẳng định ý nghĩa
cao cả của sự hi sinh. Đó là những con người đại diện đầy đủ cho tầm vóc, sức
mạnh, ý chí và khát vọng của cộng đồng, của dân tộc. Điểm nổi bật ở người lính
văn học thời kì này là ý thức về trách nhiệm và sự gắn bó với quê hương, đất nước.
Người lính thường được thể hiện là hình ảnh của những con người lạc quan, sống vì

mọi người, tin tưởng tuyệt đối vào lí tưởng mà mình đã chọn. Họ là biểu hiện ý chí,
khát vọng của cộng đồng, dân tộc, cao hơn là của thời đại và nhân loại. Lý tưởng và
nhận thức ấy, trở thành ý chí và hành động ở mỗi người lính. Chưa bao giờ ý thức
cộng đồng, chủ nghĩa anh hùng tập thể lại được tôn vinh, đề cao và chứa đựng
nhiều ý nghĩa thẩm mĩ như vậy trong các tác phẩm. Văn xuôi thời kì này góp phần
nâng cao vị thế con người Việt Nam trong những khoảnh khắc lịch sử khốc liệt, làm
phong phú thêm cho văn chương dân tộc bởi chủ nghĩa anh hùng cao cả.
Với đề tài chiến tranh và người lính, nhiều cây bút văn xuôi muốn vươn tới sự
khám phá, lí giải, khái quát sự vận động lịch sử của cuộc chiến. Dù dung lượng hạn
chế của một truyện ngắn, một bài tùy bút hay một bức tranh toàn cảnh trong một
tiểu thuyết, thì các tác phẩm đều đề cập đến vận mệnh của đất nước và nhân dân. Có
rất nhiều tác phẩm văn xuôi ra đời trong thời kì này chiếm được cảm tình của người
đọc, tiêu biểu như: Một lần tới Thủ đô (Trần Đăng), Sống mãi với Thủ đô (Nguyễn
Huy Tưởng), Đất nước đứng lên, Rừng xà nu (Nguyên Ngọc), Cao điểm cuối cùng,
Vùng trời (Hữu Mai), Trước giờ nổ súng, Mẫn và tôi, (Phan Tứ), Một truyện chép
ở bệnh viện, Hòn đất (Anh Đức), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Chiếc lược
ngà, Bông cẩm thạch (Nguyễn Quang Sáng), Dấu chân người lính, Mảnh trăng
cuối rừng (Nguyễn Minh Châu) Những sáng tác này đã làm sống lại hình ảnh
cuộc kháng chiến trường kì và anh dũng của toàn dân trên nhiều địa phương ở nhiều
mặt trận. Tái hiện được hình ảnh người lính trong những hoàn cảnh khó khăn,
những thử thách nghiệt ngã, những chiến công to lớn và cả sự hi sinh thầm lặng.
Công bằng mà nói, các tác phẩm văn xuôi chưa có nhiều điển hình đậm nét
nhưng hình ảnh người lính được xem là hình ảnh đẹp của con người Việt Nam trong
những tháng năm bão táp, được người đọc yêu mến, ghi nhận. Các nhân vật đã gợi
lên được những vấn đề của con người trong chiến tranh, tạo được sự chú ý và ít
nhiều gây ám ảnh cho người đọc về số phận của họ. Qua nhiều tác phẩm, chúng ta
hiểu rằng cuộc đào luyện con người trong chiến tranh là vô cùng khốc liệt, nó
không nhân nhượng với bất kì ai. Lí giải những nhân tố làm nên những con người
dám đương đầu và chiến thắng những đế quốc cường bạo, là lí giải cách nhìn, tầm
nhìn về Tổ quốc, về mối quan hệ giữa dân tộc và xu thế thời đại. Thước đo duy

nhất, khẳng định nhân cách người lính của văn xuôi thời kì này là ở sự cống hiến
hết mình cho sự nghiệp chung, là chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là tinh thần hi
sinh cao cả. Vì thế, nhân vật người lính mang đậm màu sắc lí tưởng hóa. Tuy nhiên,
hướng xây dựng những biểu tượng mang tính khái quát cao rộng, nhiều khi dẫn đến
7
thiếu hẳn sự sinh động của đời sống, làm mất đi tính biểu cảm cụ thể trong các tác
phẩm văn học.
Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy văn xuôi giai đoạn 1945 - 1975 có
những đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của văn học dân tộc. Đó là sự phản
ánh nhanh nhạy, kịp thời động viên, cổ vũ cho cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc.
Nhà văn đã dẫn độc giả vào thế giới của lòng dũng cảm, tình người, đức hi
sinh nói cách khác đó là thế giới của cái cao cả, cái đẹp vượt lên trên sự tàn phá,
hủy diệt của bom đạn chiến tranh. Trên bức tranh rộng lớn của cuộc chiến, có
những mảng hiện thực tiêu biểu, tái hiện khá chân thực những thử thách và sự hi
sinh to lớn của nhiều thế hệ để làm nên chiến thắng. Văn xuôi đã tập trung biểu
hiện, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng như một lối sống cao đẹp của hàng
triệu con người Việt Nam khi đất nước có chiến tranh.
1.1.2. Chiến tranh và người lính trong thơ
Bên cạnh văn xuôi, thơ viết về cuộc kháng chiến của dân tộc là tiếng hát tự hào
của cái "Ta" nhân danh dân tộc, nhân danh chính nghĩa. Thơ viết về chiến tranh
cách mạng là "một dàn đồng ca" và tác phẩm của họ thuộc về những bài ca "giọng
cao". Với tính chất quyết liệt của cuộc chiến, điều đó có thể xem là một sự tập hợp
cần thiết để có những đóng góp kịp thời, hiệu quả, phục vụ cách mạng.
Qua hai cuộc kháng chiến, thơ Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất
định khi viết về đề tài chiến tranh và người lính. Thơ ca của các thế hệ là tiếng nói
sống động và tự tin của những người trong cuộc. Người ta bắt gặp khá nhiều trường
hợp nhân danh, nhưng mọi sự nhân danh đều tìm được cảm thông của người đọc vì
"thơ ở đây được đảm bảo bằng máu" và bằng vị thế của người cầm bút.
Ba mươi năm qua, thơ luôn bám sát cuộc sống thời chiến để thực hiện tốt đề tài
chiến tranh cách mạng. Nổi bật trong thần thái của thơ 1945 -1975 là gam giọng hào

sảng, ngợi ca đời sống chiến đấu đậm chất sử thi, chất lý tưởng. Cuộc kháng chiến
đã đưa đến những biến đổi rộng lớn, sâu sắc cho thơ ca, mở ra một giai đoạn mới
với nhiều thành tựu và đặc điểm riêng trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Thơ
thời này tập trung biểu hiện tình cảm cộng đồng, tinh thần công dân mà bao trùm là
tình yêu nước: "Đất nước/ Của những người con gái, con trai/ Đẹp như hoa hồng
cứng hơn sắt thép/ Xa nhau không hề rơi nước mắt/ Nước mắt để giành cho ngày
gặp mặt" (Chúng con chiến đấu - Nam Hà). Con người cá nhân lúc này cảm thấy
nhỏ bé, thế giới của cái tôi trở nên chật hẹp, thậm chí bị coi là lạc lõng, vô nghĩa khi
nó không hòa nhập vào cái ta cộng đồng. Con người kháng chiến sống với những
biến cố dữ dội, những sự kiện lịch sử, những rung động mới lạ và mạnh mẽ, họ chỉ
thực sự tìm thấy sức mạnh, niềm vui và niềm tin tưởng ở trong đội ngũ tập thể, của
giai cấp và dân tộc.
Tình yêu quê hương, đất nước vẫn luôn là nguồn mạch dồi dào, tạo cảm hứng
cho thơ ca Việt Nam ở nhiều thời đại. Từ cuối năm 1954, nước ta tạm thời bị chia
cắt hai miền. Hơn bao giờ hết, tình dân tộc lại trỗi dậy hướng về miền Nam ruột thịt
và bật lên thành ý chí, khát vọng thống nhất đất nước: "Những chuyến tàu chạy về
phương Nam/ Nghe tiếng gọi tiền phương giục giã/ Chúng tôi đi, áo quần xanh màu
cỏ / Những chuyến tàu chạy về phương Nam/ Ga tàu đến cuối cùng nơi tim ta
thương nhớ!/ Mỗi lần tàu ra đi/ Dù đêm đông hay trưa hè đổ lửa/ Đất nước trải bao
la làm đường rộng nâng tàu" (Những chuyến tàu - Hoàng Cát). Thơ vẫn chủ yếu đề
8
cập đến những vấn đề và tình cảm mang ý nghĩa chung, nhưng trong nhiều trường
hợp, các tác giả đã tiếp cận và cảm nhận cái chung ấy từ những cách nhìn, sự trải
nghiệm, ấn tượng của riêng mình, nhờ thế mà thơ có thêm sức thuyết phục, cảm hóa
mọi người.
Để làm vũ khí chiến đấu, thơ không ngần ngại cất lên thành lời kêu gọi, khẩu
hiệu, mệnh lệnh tiến công. Trong thơ thường có hình ảnh những cuộc lên đường với
khát vọng chiến đấu và chiến thắng mãnh liệt. Cuộc chiến tranh càng lan rộng và
quyết liệt, thì thơ càng bám sát đời sống, mở ra cho thơ khả năng chiếm lĩnh thực tại
phong phú, đa dạng của hiện thực chiến tranh. Các nhà thơ đã đem đến cho thơ

giọng điệu đầy nhiệt huyết của một thế hệ sẵn sàng gánh vác sứ mệnh lịch sử theo
tiếng gọi của Tổ quốc:"Ơi tuổi thanh xuân/ Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim/
Ta sung sướng được làm người con Đất nước/ Ta băng tới trước quân thù như triều
như thác/ Ta làm bão làm giông/ Ta lay trời chuyển đất/ Ta trút hờn căm đã làm
nên những vinh quang bất diệt/ Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành bão lửa
ngút trời" (Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi - Nam Hà).
Các nhà thơ đã khai thác cảm hứng sử thi và chất chính luận, theo hướng tăng
cường chất triết lý, suy tưởng, nhằm hướng tới nhận thức và phát hiện về đất nước,
nhân dân, về cuộc chiến đấu trong chiều sâu và ý nghĩa lịch sử. Nhu cầu này đã thúc
đẩy tạo ra những biến đổi về hình thức thơ, mà rõ nhất là sự xuất hiện khá nhiều
những bài thơ dài, những tuỳ bút thơ và các trường ca.
Cái "tôi" sử thi trong thơ đại diện cho tiếng nói của dân tộc, lương tri của nhân
loại để vạch mặt, lên án, chất vấn, tố cáo những âm mưu và tội ác của kẻ thù: "Hãy
nhìn xem, nhìn xem chiếc bàn/ Nơi giục giã ước mơ, hoài bão/ Bom Mĩ tung, xác trẻ
máu tràn/ Ta thấm máu, viết lời thơ tố cáo" (Bài thơ máu - Phan Sinh Viên). Tư thế
của cái "tôi" sử thi cho nhà thơ có chỗ đứng ở đỉnh cao của thời đại để bao quát, để
phát hiện, suy ngẫm, hình dung, dự đoán mọi vấn đề mang tính hệ trọng, lớn lao của
đất nước: "Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng/ Trông lại nghìn xưa trông đến mai
sau/ Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu" (Bài ca xuân 1961 - Tố Hữu). Nhờ
thế mà thơ thời kì này đã có sự mở rộng rất đáng kể về không gian và thời gian, nối
liền quá khứ lịch sử với hiện tại và tương lai, liên kết dân tộc với thời đại và nhân
loại.
Viết về đề tài chiến tranh và người lính giai đoạn này, luôn có một lực lượng
sáng tác hùng hậu, tiêu biểu như các nhà thơ: Tố Hữu, Quang Dũng, Hoàng Trung
Thông, Nguyễn Đình Thi, Thôi Hữu, Hữu Loan, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật,
Thu Bồn, Bùi Minh Quốc, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa
Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Trần Đăng Khoa, Phan Thị
Thanh Nhàn, Lâm Thị Mĩ Dạ, Trần Mạnh Hảo Đối với thế hệ nhà thơ trưởng
thành trong kháng chiến, việc phản ánh hiện thực cách mạng "vừa là trách nhiệm
vừa là niềm say mê" và "chiến trường trở thành điểm tụ hội những cảm xúc, suy

nghĩ của họ".
Văn học giai đoạn 30 năm chiến tranh, người lính luôn là nhân vật trung tâm,
là hình ảnh đẹp trong thơ ca. Tuy nhiên, bên cạnh nhân vật người lính, nhân vật trữ
tình trong thơ ngày càng được mở rộng đến nhiều đối tượng. Có một điểm chung là
nhân vật nào cũng được nhìn nhận từ góc độ bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm công
dân, tư cách chiến sĩ là chủ yếu. Vẻ đẹp rực rỡ nhất của con người trong giai đoạn
9
này được thể hiện ở chỗ biết hi sinh quyền lợi, hạnh phúc cá nhân, cống hiến tất cả,
kể cả máu xương của mình cho Tổ quốc.
Có thể nói, tủ sách đồ sộ nhất, hay nhất của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 -
1975 là sách viết về đề tài chiến tranh cách mạng, lực lượng sáng tác đông đảo nhất,
tài năng nhất là lực lượng các nhà văn chiến sĩ, nhân vật trung tâm được khắc họa
thành công nhất trong các tác phẩm văn học là người lính.
1.2. ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG VĂN HỌC SAU
1975
Sau 1975, cùng với hiện thực đa chiều, con người được nhìn nhận trong hoàn
cảnh xã hội cụ thể với muôn mặt tốt - xấu, thiện - ác đan xen. Đặc biệt với sự thức
tỉnh và trỗi dậy của cái tôi, quan niệm về con người cá nhân trở lại trong văn học
nhưng phát triển ở một tầm cao mới so với văn học giai đoạn 1930 -1945. Có thể nói,
văn học thời kì này đã đưa con người về đúng vị trí và bản chất vốn có của nó. Bởi
con người vừa là điểm xuất phát, vừa là đối tượng khám phá, vừa là cái mốc cuối
cùng của văn học. Nếu trước đây với cảm hứng sử thi, văn học chủ yếu quan tâm đến
con người trong các vai trò xã hội, thì cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của các tác
giả thời kì này là cảm hứng nhân bản. Văn học hôm nay lấy con người làm chất liệu,
làm tiêu chuẩn để soi ngắm mọi giá trị đời sống. "Văn học và đời sống là hai vòng
đồng tâm và tâm điểm của nó là con người" (Nguyễn Minh Châu).
Bản chất con người là một cái gì bền vững, nhưng không phải là "bất biến".
Con người lúc này hiện ra như một tiểu vũ trụ với những bí ẩn phức tạp, đòi hỏi
những người cầm bút phải có khả năng tìm tòi, phân tích, nhận định. Chính vì lẽ đó
"con người được đưa vào văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều

tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng tình cảm và đời sống tự nhiên, bản
năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con
người trong tính nhân loại phổ quát" [46, tr. 16]. Điều dễ nhận ra, là trong phần lớn
các tác phẩm văn học thời kì này, con người không còn đơn diện, mà là con người
đa diện. Các tác giả không ngần ngại đi vào khai thác các yếu tố "nhạy cảm" nhất
của con người. Vì thế người lính hôm nay cũng được soi chiếu, khám phá ở nhiều
khía cạnh, nhiều mức độ khác nhau, thể hiện "tính chất đa tạp, muôn màu muôn vẻ
của vũ trụ, của cái thế giới bao quanh con người và ngay trong nội tâm con người"
(Nguyễn Minh Châu). Người lính được nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều
của mọi mối quan hệ: con người xã hội, lịch sử, gia đình, gia tộc, con người với
phong tục, thiên nhiên, với những người khác và với chính mình. Hình tượng người
lính không còn được lý tưởng hóa, họ cũng sai lầm, cũng thường xuyên chiến đấu
với phần bóng tối của mình. Đây chính là những điểm khác biệt, nổi bật của văn
học viết về chiến tranh và người lính thời hậu chiến.
1.2.1. Chiến tranh và người lính trong văn xuôi
Văn học bao giờ cũng là mối quan hệ giữa hiện thực khách quan và ý thức chủ
quan, là kết quả của sự nhào nặn những chất liệu cuộc sống thông qua thế giới chủ
quan của nhà văn. Hiện thực không đơn giản, xuôi chiều, có thể biết trước, mà chứa
đầy trong nó những yếu tố bất ngờ, phi lý, tác động sâu sắc đến cuộc sống của con
người. Nhờ vào chủ trương đúng đắn của Đảng, đặc biệt là hướng dân chủ hóa
trong đời sống sáng tác mà hiện thực trong văn xuôi viết về chiến tranh được nhìn
từ nhiều chiều, được phản ánh toàn diện. Mỗi nhà văn có quyền trình bày ý kiến,
10
quan điểm và cách thể hiện của mình về hiện thực. Không còn ngại bị quan niệm
cứng nhắc, đòi hỏi hiện thực trong văn học phải trùng khít với hiện thực của đời
sống, làm cản trở đến việc sáng tạo.
Từ sau 1975, quan niệm về hiện thực của các nhà văn có sự thay đổi. Văn xuôi
có những chuyển biến rõ rệt về quan niệm hiện thực. Trong các tác phẩm, phạm vi
hiện thực được mở rộng, có sự bổ sung những miền hiện thực mới mà trước đây
chưa có hoặc rất ít nói đến. Nếu hiện thực trong chiến tranh đề cập đến những cam

go, khốc liệt nhưng rất hào hùng của dân tộc, thì hiện thực sau chiến tranh còn nêu
lên được mặt trái của cuộc chiến với những thất bại, những sai lầm, thiếu sót, thậm
chí cả sự tha hóa, phản bội, hèn nhát trong hàng ngũ cách mạng.
Hiện thực lúc này, được nhận thức là cái chưa biết, không thể biết hết, hiện
thực phức tạp cần phải khám phá, tìm tòi. Hiện thực trong tác phẩm là hiện thực
được lựa chọn, chắt lọc, khái quát, tái tạo. Theo Nguyễn Minh Châu "phản ánh hiện
thực không có nghĩa là xâu chuỗi các sự kiện như lâu nay văn xuôi viết về chiến
tranh đã làm, tất cả các thể loại văn học đều phải lấy con người làm đối tượng phản
ánh". Những sáng tác thời kì này, không chỉ mô tả hiện thực mà còn suy ngẫm về
hiện thực. Nhà văn đóng vai trò chủ động đối với việc lựa chọn hiện thực, thoát ra
khỏi sự ràng buộc của chủ nghĩa đề tài, vì thế tư tưởng và kinh nghiệm cá nhân của
nhà văn trở nên quan trọng.
Là những người đã trải qua chiến tranh, những nhà văn mặc áo lính hiểu rằng,
con đường đi đến vinh quang phải bước trên xương máu, nước mắt, của biết bao
đồng bào, chiến sĩ nhưng điều đó trong chiến tranh chưa thể viết ngay được. Chiến
tranh chấm dứt, đòi hỏi văn học phải phản ánh, ghi nhận đúng tính khách quan của
lịch sử, bản chất của vấn đề. Những người cầm bút có trách nhiệm phải lưu lại cho
hậu thế, cho người ngoài cuộc hiểu đúng về cuộc chiến, đó chính là nhiệm vụ sáng
tác trong thời bình.
Sau 1975, khi nhu cầu nội tại văn học gặp được điều kiện khách quan thuận lợi
thì đổi mới văn học là điều tất yếu. Nhà văn Nguyễn Minh Châu có thể xem là một
minh chứng cụ thể về sự vận động từ phạm trù sử thi sang phạm trù thế sự của tư
duy văn học. Ngay từ khi viết Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu đã tâm
niệm "bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc, sau này ta phải
chiến đấu cho quyền sống của từng con người sao cho con người ngày càng sống tốt
đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài". Các tác phẩm của ông và của một số tác
giả khác viết ngay sau khi chiến tranh kết thúc như Miền cháy (1977), Năm 1975 họ
sống như thế (Nguyễn Trí Huân - 1978), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh - 1979),
Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi - 1979) cho thấy văn học đang quan
tâm đến con người hơn. Sự mở rộng bối cảnh hiện thực về phía những thời điểm

khốc liệt, gay cấn của cuộc chiến chính là để nắm bắt diễn biến tâm lý sâu xa trong
mỗi con người. Trong các tác phẩm, cùng với những "nhân vật tính cách" đã thấp
thoáng kiểu "nhân vật số phận". Bên cạnh "con người lý tưởng" đã bắt đầu xuất
hiện "con người phi lý tưởng".
Chiến tranh ngày càng lùi xa, nhưng bóng đen về chiến tranh vẫn không thôi
ám ảnh trong đời sống mỗi người. Với những người lính từng tham gia chiến trận
thì chiến tranh vẫn là một kí ức nguyên vẹn trong tâm trí. Theo dòng hồi tưởng,
chiến tranh hiện ra như bản thân nó vốn có, đó là những chiến công, tinh thần quyết
11
chiến nhưng đó cũng là chết chóc, chia lìa, tan tác, đau thương. Các tác phẩm cho
người đọc thấy rõ sự thật của chiến tranh, phía sau những tấm huân chương và vầng
hào quang chiến thắng là những mất mát, những nỗi buồn trĩu nặng. Viết về đề tài
này, các tác giả như được "giải tỏa" cảm xúc, như được "tri ân" với người đã khuất
và cả những người đang sống hôm nay.
Từ khi có đổi mới quan niệm về con người, về đời sống và quan niệm về bản
thân văn học nghệ thuật, thì một số tác giả đã có cái nhìn trực diện hơn về chiến
tranh, tác phẩm của họ tái hiện chiến tranh với những mảng màu đen trắng, mang
đến cho người đọc những cảm nhận khác biệt so với các tác phẩm trước đây. Trong
số các tác phẩm đó, phải kể đến Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh), Ăn mày dĩ vãng, Phố, Vòng tròn bội bạc (Chu Lai ), Chim én bay (Nguyễn
Trí Huân), Không phải trò đùa (Khuất Quang Thụy), Sao đổi ngôi (Chu Văn) Các
tác phẩm có cách nhìn nhận, đánh giá hiện thực trong chiến tranh một cách trung
thực, mạnh dạn hơn. Các nhà văn dành nhiều sự quan tâm về số phận con người
thời hậu chiến. Họ tìm thấy ở đó niềm vui - nỗi buồn, yêu thương - căm hận, dũng
cảm - đớn hèn, trung thành - phản bội khoảng cách thời gian giúp những người
cầm bút bình tĩnh nhìn lại cuộc chiến với tầm nhìn đầy nhân văn và mong muốn
đóng góp một tiếng nói có giá trị cho văn học nước nhà.
1.2.2. Chiến tranh và người lính trong thơ
Trước 1975, vì điều kiện cuộc chiến, các nhà thơ chưa có đủ thời giờ để nhìn
nhận chiến tranh và người lính một cách thấu đáo và sâu sắc. Họ thường chỉ nhìn ở

những mặt "được", những niềm vui nên thơ thường tập trung ca ngợi vẻ đẹp của
quê hương, ca ngợi lí tưởng, ca ngợi những con người từng lập bao chiến công hiển
hách cho đất nước. Thơ có nói đến mất mát nhưng là để tố cáo tội ác của kẻ xâm
lược, bởi họ ý thức tất cả những mất mát đó sẽ thôi thúc mọi người càng quyết tâm
chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Trở về thực tế cuộc sống thời bình, đối mặt với muôn vàn khó khăn của cuộc
mưu sinh, cảm hứng thế sự đậm màu hơn trong sáng tác văn học. Vẫn những vấn
đề con người, chiến tranh, cuộc sống, tình cảm nhưng lại được các tác giả cảm
nhận một cách sâu lắng, đầy trăn trở: "Tôi bước ra ngoài bậc cửa chiến tranh/ Trời
đã cao xanh, đất đã bình yên/ Nhưng lòng còn khắc khoải/ Tôi sợ sự kiếm tìm/ Của
những người mẹ mất con/ Những người vợ mất chồng" (Xin đừng của riêng ai -
Phạm Minh Tâm).
Trong hành trình trở về cuộc sống thời bình, thơ đang có sự vận động cân bằng
trở lại với các mối quan hệ của đời thường. Trước kia con người quên mình vì cộng
đồng thì nay con người có nhu cầu khẳng định mình, thể hiện rõ những tình cảm
riêng tư, những nỗi buồn thời cuộc: "Chiến tranh qua rồi/ Không ai còn bấm đốt
ngón tay/ Những người lính cùng thời với anh tóc chưa phai màu lửa/ Đâu chỉ lỡ
một chuyến đò đánh chìm duyên đôi lứa/ Trái tim trẫm mình trong máu đỏ tươi/
Bây giờ anh vào tuổi bốn mươi/ Vẫn hốc hác khuôn mặt thời lính trận/ Manh áo,
miếng cơm chưa ủ ấm nụ cười/ Lại giật thột lạnh người khi bắt gặp một bàn tay để
ngửa" (Sấp ngửa bàn tay - Hoàng Trần Cương). Thơ lúc này không còn né tránh mà
cố gắng chạm đến những miền còn chìm khuất, để hiểu hơn về đời sống nội tâm đầy
phức tạp của con người. Đó là nhu cầu của các nhà thơ, cũng là mong mỏi, là đòi
hỏi của công chúng. Có thể nói, khát vọng dân chủ, ý thức tôn trọng sự thật, biến
12
cái nhìn của các nhà thơ trở nên hiện thực, gai góc hơn. Với chiều hướng này, các
tác giả đã mở ra những bình diện mới trong lý giải, thể hiện về con người, về cuộc
chiến. Các nhà thơ không chỉ ca ngợi sự hi sinh, chiến công, ý thức, khí phách của
nhân dân mà còn thể hiện cả nỗi đau, mất mát tột cùng của nhân dân:
Một bàn thờ

Mười một bát hương
Mười một bằng Tổ quốc ghi công
Trên mái đầu tóc bạc.
(Thưa mẹ - Lê Anh Dũng)
Sau chiến tranh, cảm hứng chủ đạo của thơ ca, chuyển từ tự hào, ca ngợi,
chiêm ngưỡng, xuống lắng đọng, suy tư. Những vấn đề sử thi dần chuyển sang thế
sự - đời tư. Dòng thơ sử thi giảm chất hùng tráng nhưng lại mang vẻ đẹp của sự cảm
nhận chiến tranh ở chiều sâu tâm trạng. Đã đến lúc văn nghệ nói chung và thơ ca
nói riêng phải quan tâm hơn nữa đến số phận con người giữa đời thường. Bên cạnh
đề cập tới những vấn đề lớn lao như: Tổ quốc, lí tưởng, nhân dân thì thơ ca cần
phải thể hiện cụ thể hơn, thẳng thắn hơn trong vấn đề quyền sống của mỗi con
người, đặc biệt là những người trở về từ chiến trận:
Sau chiến tranh
Cánh đồng hoang chồng cày, vợ cấy
Nhường bạn "ngôi nhà tình thương"
Chẳng ham nói chuyện huân chương
Chiến công thuộc về đồng đội.
(Gia tài người lính - Hải Đường)
Nếu như trước 1975, khát vọng độc lập - tự do như một biểu hiện đặc trưng
cho tinh thần thời đại thì sau 1975, đặc biệt từ 1986 trở đi, khát vọng dân chủ như
một đòi hỏi bức xúc, để từ đó thiết lập những mối quan hệ xã hội khác, đáp ứng xu
thế đổi mới toàn diện cuộc sống. Đối với sáng tạo văn học nghệ thuật, tinh thần dân
chủ nếu được tôn trọng, chủ thể thẩm mĩ được tự do bộc lộ, con người cá nhân sẽ là
những tiền đề để tạo nên một "tiếng nói nghệ thuật riêng biệt" của từng ngòi bút.
Trong xu hướng dân chủ hóa của xã hội, văn học còn được xem là một phương tiện
cần thiết để tự biểu hiện, bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng quan niệm, chính kiến
của mỗi người nghệ sĩ về xã hội và con người. Người đọc hôm nay, đòi hỏi mỗi nhà
thơ không phải là người được quyền ban bố, phán truyền các chân lí, mà còn khơi
gợi suy nghĩ, để cùng đối thoại với họ về mọi vấn đề của cuộc sống. Từ đó tạo nên
mối quan hệ bình đẳng, người đọc thực sự được tôn trọng, được quyền bàn luận.

Cùng với sự thay đổi quan niệm về nhà văn thì quan niệm về hiện thực như là
đối tượng phản ánh, khám phá của văn học cũng được mở rộng và mang tính toàn
diện. Hiện thực trong thơ không chỉ là hiện thực cách mạng, các biến cố lịch sử
mang tính cộng đồng, mà đó còn là hiện thực của đời sống hàng ngày với các quan
hệ thế sự đa đoan, đa sự phức tạp, đan dệt nên những mạch nổi, mạch ngầm của đời
sống. Hiện thực đó còn là cuộc sống riêng tư của mỗi con người, bao gồm cả hạnh
phúc lẫn bi kịch. Tóm lại, hiện thực đời sống trong tính toàn vẹn của nó đã mở ra
những không gian vô tận cho thơ thỏa sức chiếm lĩnh, khám phá, khai vỡ.
13
Các nhà thơ giai đoạn này đi sâu vào phản ánh mặt sau của cuộc chiến, để phát
hiện ra những vấn đề còn bỏ ngỏ mà văn học giai đoạn trước chưa kịp nói đến. Vì
thế, sự khốc liệt của chiến tranh, chiều sâu tâm lý của nhân vật trữ tình, những trăn
trở và giằng xé trong thế giới tinh thần của người lính hiện lên qua mỗi thi phẩm ngày
càng rõ nét: "Giải phóng rồi gặp nhau ở thành phố Hồ Chí Minh/ Chúng ta cùng một
tuổi/ Tôi phơi phới hồng hào, anh xanh xao gầy guộc/ Được giao một việc làm nhũn
nhặn/ Anh không còn thời gian để học hành/ Công tác mới anh vụng về kém cỏi/
Chẳng lẽ tôi hèn hạ tự vỗ về rằng trong kiến thức tôi có máu anh đổ ra ở chuồng cọp/
Trả ơn anh bằng nương nhẹ xuê xoa/ Anh phải được kính trọng biết bao lần hơn thế/
Anh đang nhận cái bất công của sự thật, cái tàn nhẫn của cuộc đời đến tận cùng"
(Đắng - Việt Phương). Qua những lời nói thật, người đọc thấy được chiến tranh hiện
hữu không chỉ ở nỗi đau thể xác, mà còn là nỗi đau tinh thần ẩn chứa bên trong khó
nhìn thấy, khó nói nên lời, đòi hỏi mỗi người phải tự mình chiêm nghiệm lấy. Các
nhà thơ đã kí thác, gửi gắm những tình cảm chân thành, làm thức dậy một thời đã
qua và khai thác sâu thêm vào phẩm chất người lính trong chiến tranh cũng như hòa
bình. Bởi thế, một số tập thơ ra đời trong giai đoạn này đã tạo được ấn tượng với
độc giả như: Hoa đỏ nguồn sông, Từ hạ vào thu (Nguyễn Đức Mậu), Đất hai vùng
(Phạm Ngọc Cảnh), Một chấm xanh (Phùng Khắc Bắc), Phải lòng (Văn Lê), Về
thôi nàng Vọng Phu, Những ngày xa (Vương Trọng), Nói thầm (Hoàng Đình
Quang), Bài thơ tình của lính (Trần Nhương)
Có thể khẳng định rằng, với sự đổi mới về tư tưởng sáng tác, về quan niệm

nhận thức, quan niệm thẩm mĩ, cùng lực lượng sáng tác, thơ viết về đề tài chiến
tranh và người lính sau 1975 đã có những vận động và phát triển phù hợp với yêu
cầu xã hội, góp một phần quan trọng trong tiến trình chung của văn học.
CHƯƠNG 2
14
CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG THƠ 1975 - 2000
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRỮ TÌNH
2.1. KHÁI NIỆM TRỮ TÌNH
Trữ tình là một trong ba phương thức cơ bản thể hiện đời sống, làm cơ sở cho
sáng tác văn học. Trữ tình phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của
con người, nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm
xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh. Phương thức trữ tình tái hiện
các hiện tượng của đời sống nhưng không mang mục đích tự thân, mà tạo điều kiện
để chủ thể bộc lộ những cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình. Nguyên tắc
chủ quan là nguyên tắc cơ bản trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là nhân tố cơ bản
quy định những đặc điểm cốt yếu của tác phẩm trữ tình. Trong phương thức trữ
tình, "cái tôi" trữ tình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó là nguồn trực tiếp duy
nhất của nội dung tác phẩm, "cái tôi" trữ tình thường là nhân vật trữ tình.
Do tác phẩm trừ tình trình bày trực tiếp cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ của con
người, nên xúc động trữ tình bao giờ cũng mang thời điểm hiện tại. Ngay cả khi tác
phẩm trữ tình nói về quá khứ, về những chuyện đã qua, xúc động trữ tình vẫn được
xuất hiện như một trạng thái sống động, một quá trình đang diễn ra. Nhờ đặc điểm
này mà những rung động thầm kín mang tính chất chủ quan, cá nhân, thậm chí cá
biệt của tác giả dễ dàng được người đọc tiếp nhận như những rung động của chính
bản thân họ. Đây là cơ sở tạo nên sức mạnh truyền cảm lớn lao của tác phẩm trữ
tình. Hơn thế, việc tập trung thể hiện những nỗi niềm thầm kín, chủ quan đã cho
phép tác phẩm trữ tình thâm nhập vào những chân lí phổ biến nhất của tồn tại con
người như sống, chết, tình yêu, lòng chung thủy, ước mơ, tương lai, hi vọng. Đây là
nhân tố tạo nên sức khái quát và ý nghĩa xã hội to lớn của tác phẩm trữ tình [ 23, tr.
373].

2.2. CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG THƠ 1975 - 2000 TỪ GÓC
NHÌN SỬ THI
2.2.1. Sử thi là một khái niệm dùng để chỉ đặc điểm của một thể loại hoặc một
loại hình nội dung văn học, thường xuất hiện trong những giai đoạn lịch sử nhất
định.
Văn học sử thi phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân.
Nhân vật trung tâm của nó thường là những con người đại diện cho giai cấp, dân
tộc với tính cách dường như kết tinh đầy đủ những phẩm chất cao quý của cộng
đồng. Khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn. Con người sống chủ
yếu với lịch sử và tương lai [58, tr. 82].
Hiện thực phong phú của cách mạng giải phóng dân tộc, những cuộc chiến đấu
anh hùng của quân và dân ta, sự thất bại của bọn đế quốc, những huyền thoại từ
chiến trường Đó là cơ sở xã hội, lý do thời đại, là nền tảng sâu xa của cảm hứng
sử thi - anh hùng ca. Gắn với các sự kiện, các biến cố lịch sử có tầm thời đại đó,
khuynh hướng sử thi trong thơ viết về chiến tranh và người lính có thể được xem
như một tất yếu.
Sau 1975, dư âm sử thi vẫn còn vang vọng trong những bài thơ về chủ để chiến
tranh, nhân dân, Tổ quốc, người lính. Trong các tác phẩm, tính sử thi vẫn tiếp tục
những cảm hứng lớn mang tính ngợi ca, khẳng định và tự hào trên những sự kiện
15
lớn, những chiến công vĩ đại của dân tộc. Tuy nhiên, với khoảng cách lịch sử nên
cách nhìn nhận, đánh giá, thể hiện có sự khác biệt so với thơ trước 1975.
2.2.2. Với mỗi người lính, khi ra trận họ đều mang ý thức, chiến đấu là để bảo
vệ nền độc lập của dân tộc, thống nhất đất nước. Đó là cuộc chiến giữa tình yêu
thương chống lại sự độc ác, giữa khát vọng sống chống lại sự hủy diệt điên cuồng.
Tình yêu Tổ quốc, là lẽ sống lớn lao mà các thế hệ tự dâng hiến, tình yêu đó
đã được nhìn nhận bằng chiều sâu tâm lí của con người thời đại: "Chúng tôi đã đi
không tiếc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc
tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc" (Những người đi tới biển - Thanh Thảo). Biểu
hiện ý thức trách nhiệm của thế hệ đầy cao cả, song đó cũng là một sự lựa chọn

không giản đơn mà nhiều trăn trở. Với việc phát hiện ra sự hoán đổi giữa việc "tự
dâng hiến đời mình" và "không ai không tiếc đời mình" cho Tổ quốc đã thể hiện
được chiều sâu trong nhận thức. Với những người lính thì: "Tổ quốc bây giờ là thịt,
là da/ Đau ở đâu cũng trên mình Tổ quốc" ( Xin đừng của riêng ai - Phạm Minh
Tâm), chỉ là một cách nói bình dị nhưng chứa đựng tính triết lí cao cả của sự cống
hiến. Chiến thắng vĩ đại của dân tộc được làm nên bởi hàng vạn con người biết hi
sinh vì mục đích cao cả đó.
Những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là những người mang
trong mình hành trang tri thức mới. Với họ, ý thức về trách nhiệm thế hệ là một sự
tự giác, nguyện gắn bó với vận mệnh của dân tộc. Cuộc đời của mỗi người có rất
nhiều con đường để chọn, nhưng những người lính đã chọn cho mình con đường ra
trận và nếu được tái sinh người lính chỉ ước có một điều giản dị: "Được cầm súng
vì linh thiêng đất nước/ Xin ước mong tuổi trẻ có hai lần" (Nguyễn Đức Mậu). Một
sự khẳng định đầy quyết tâm, đầy nhiệt huyết, bởi họ hiểu rằng mình phải cầm súng
vì: "Cũng không có viên đạn từ ngực ta bay đi/ Nếu không có viên đạn kẻ thù nhằm
ngực ta bay đến" (Khẩu súng trên tay tôi - Nguyễn Duy). Tự nguyện gắn bó với
công cuộc giải phóng đất nước, cùng chung sức chung lòng, cùng hướng về mục
đích cao cả là trách nhiệm của thế hệ. Âm thầm mà mãnh liệt, bền bỉ mà dẻo dai,
mỗi người lính đứng trong hàng ngũ đều ý thức được họ chỉ là giọt nước trong biển
người tranh đấu.
Những người lính tham gia cuộc chiến khi còn rất trẻ nhưng họ lên đường đánh
giặc tự tin kiêu hãnh. Họ chấp nhận cuộc sống gian khổ, thiếu thốn nơi chiến trường
khắc nghiệt để đánh thắng kẻ thù. Ngay từ đầu, họ đã nhận thức được trách nhiệm
nặng nề của mỗi người đối với lịch sử dân tộc. Cả một thế hệ thể hiện tình yêu Tổ
quốc không phải bằng những lời nói suông mà bằng hành động. Họ tự hào vì được
ra trận cùng những năm đất nước mình khốc liệt nhất: "Trường Sơn một thời chẳng
thể nào quên/ Những binh đoàn sống giữa rừng xanh sống trong lòng đất/ Ngủ
võng ngủ hầm/ Lính trẻ lưng còng dáng lệch/ Chính ủy tuổi năm mươi bạc trắng
đầu/ Cô gái thanh niên xung phong tóc rụng da nhàu/ Chẳng thể tránh thứ bom
tọa độ/ thường rơi bất thần trong giấc ngủ, bữa ăn/ Mảnh bom phạt ngang/ Rắn

độc quấn chân/ Chất độc da cam ngấm vào cây cỏ" (Mây Trắng - Nguyễn Thái
Sơn).
"Chiến tranh như một cơn bão dữ quật lên những cuộc đời, những số phận, ở
đó sự sống và cái chết chỉ cách nhau một đốt ngón tay, phẩm chất anh hùng và sự
hèn nhát chỉ cách nhau một tầng thép gai" [79, tr.153]. Viết về chiến tranh và người
16
lính, điều cốt tử nhất, cơ bản nhất của cuộc chiến đã được các nhà thơ cảm nhận
một cách thật bình dị mà cũng thật sâu sắc. Người ra đi trong sự "không bình
thường" của chiến tranh đã trở thành bình thường của những con người biết đặt
quyền lợi của dân tộc lên trên hết. Các tác giả ngoài việc khắc họa không gian chiến
trường, còn chú trọng đến những vùng không gian khác như ở hậu phương, ở những
nơi vùng địch tạm chiếm. Mở rộng không gian thơ như thế chính là một sự khẳng
định cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu toàn dân, chứ không phải của riêng
những người xông pha lửa đạn, khắp mọi nơi trên đất nước, đâu đâu cũng là không
khí chiến trường.
Chiến tranh không chỉ kéo các chàng trai ra trận, mà còn kéo hàng vạn nữ
thanh niên dấn thân vào lửa đạn. Khó có thể cắt nghĩa nổi sức mạnh nào đã nâng
bước những con người trẻ tuổi quả cảm như vậy. Phải chăng vì nghĩa lớn của cuộc
đời, truyền thống lịch sử hàng nghìn năm giữ nước của cha ông, ý thức trách nhiệm
thế hệ đã nâng họ lên ngang tầm những dũng sĩ thời đại, nâng sức mạnh của dân tộc
đạt đến những giá trị tinh thần cao cả. Cũng là trách nhiệm với Tổ quốc khi có giặc
ngoại xâm, nhưng trách nhiệm của thế hệ lúc này nghiêng về suy nghĩ, phân tích, lí
giải vị trí, sự ứng xử của mình và đánh giá được nó: "Người ta không thể chọn để
được sinh ra/ Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy" (Thanh
Thảo). Người lính khẳng định mình là một thành viên của cuộc trường chinh giải
phóng, họ hiện diện với tư cách người nhập cuộc, người tham gia lịch sử chứ không
phải người ngợi ca lí tưởng, nên mọi lựa chọn đều day dứt, trăn trở hơn: "Phải đối
diện với chính mình/ Những ước muốn thèm khát đơn sơ/ Cứ day dở bên này bên
nọ" (Thanh Thảo). Trong giây phút cầm súng với trái tim tự nguyện, người lính vẫn
nghĩ về gia đình, về vợ con, về bản thân mình. Họ đi tới chiến trường không chỉ

thanh thản, vô tư bề ngoài, mà có sự xáo động và thử thách thường xuyên của nhân
cách. Mô típ ngày ra trận như một ngày hội đầy háo hức đã không còn, những người
lính lên đường mang theo cả tâm trạng buồn, vui, lưu luyến. Chiến trường là nơi thử
thách với từng người lính. Có người chiến đấu quả cảm trở thành anh hùng, dũng sĩ,
hi sinh đến giọt máu cuối cùng, biến mình thành vô danh trong lòng đất mẹ nhưng
cũng có người không chịu nổi gian lao, bom đạn.
Thơ hậu chiến không bị ràng buộc vào những thời điểm lịch sử nhất định, mà
nó bừng sáng ở những thời điểm bình thường, ở tầng sâu của tâm hồn con người.
Những chi tiết của thực tế chiến tranh và người lính được các nhà thơ chắt lọc, cảm
nhận, khắc họa rõ hơn diện mạo của cuộc chiến. Nhờ vậy, người đọc phần nào hình
dung được những khốc liệt, mất mát mà người lính phải trải qua cũng như thấy
được bản lĩnh anh hùng của họ qua những năm tháng gian lao ấy.
Chiến tranh là điển hình của sự gian nan vất vả, là nơi thử thách lòng dũng cảm
vô song: "Ai hèn nhát sẽ chết trong hèn nhát/ Chỉ một con đường tiến thẳng mà
thôi" (Nguyễn Đức Mậu). Lòng dũng cảm của người lính ở mặt trận được đo đếm
bằng những hành động cụ thể chứ không phải chỉ bằng những khái niệm chung
chung. Họ luôn sẵn sàng đối mặt với mọi khắc nghiệt của chiến tranh. Bằng lòng
dũng cảm, bằng nghị lực, ý chí của mình, người chiến sĩ lần lượt vượt lên những
khó khăn để đi đến thắng lợi. Sở dĩ có được nghị lực mạnh mẽ như thế bởi người
lính có những suy tư sâu sắc về lịch sử dân tộc, đặc biệt là ý thức trách nhiệm cao
cả về thế hệ mình.
17
2.2.3. Người lính luôn được ngợi ca bởi khí phách hào hùng, thái độ bất khuất,
sự hi sinh và lòng trung thành với Tổ quốc. Các anh được tôn vinh là "những con
người đẹp nhất", lập nên những kì tích vĩ đại. Cuộc đời của những người lính gắn
liền với những cuộc hành quân không nghỉ. Gian khổ, ác liệt nơi chiến trường,
không làm người lính nao núng tinh thần, bởi trong họ luôn có tình cảm dành cho
hậu phương, cho đồng đội. Thời điểm sau chiến tranh, thơ về người lính không chỉ
được đánh giá qua ý thức, trách nhiệm, lòng dũng cảm, mà các nhà thơ còn tìm thấy
ở họ đời sống tình cảm tinh tế, sâu sắc: "Anh thương em rồi đơn độc/ Chỉ mình em

hờn giận buồn vui/ Ngôi sao kia còn tìm đôi để mọc/ Một vầng trăng góa bụa ở ven
trời/ Con thương má chẳng thể về với má/ Để đẵn cây dựng tạm một căn lều/ Nỗi
đau lớn má không cần hóa đá/ Trái tim người bầm nát một tình yêu" (Trần Mạnh
Hảo). Những người lính luôn nghĩ suy, luôn trăn trở về số phận của mình cũng như
vận mệnh của dân tộc. Điều này góp phần làm cho bức chân dung tinh thần của các
anh hoàn hảo hơn.
Cảm xúc về tình yêu Tổ quốc, quê hương không phải là tình cảm xa lạ trong
thơ Việt Nam. Tình yêu đó trở thành tình cảm tự nhiên và thường trực trong thơ ca
suốt hai cuộc kháng chiến. Tuổi trẻ nhiều ước mơ, nhiều hoài bão, nhưng giữa
nhiều chiều chọn lựa, người lính vẫn đặt hai tiếng Tổ quốc thiêng liêng lên hàng
đầu. Họ yêu Tổ quốc bằng tình yêu mang đậm màu sắc thế hệ, gắn liền với nhân
dân, quê hương, gia đình, bản thân. Sau nhiều năm chiến đấu giành lại được độc
lập, hình ảnh Tổ quốc hiện lên trong thơ càng gần gũi vô cùng. Tình yêu Tổ quốc
trong trái tim người lính, không còn là khái niệm trừu tượng mà trở nên máu thịt:
"Tiếng Tổ quốc không còn là danh từ trừu tượng/ Đã trở thành thân quen/ Ngôi
nhà, gốc cây, đường cái, góc sân/ Tổ quốc hợp thành từ những gì bình dị nhất" (Ấn
tượng về mẹ - Phạm Quang Đẩu). Tình yêu đó luôn thường trực trong trái tim người
lính từ cách hình dung cho tới những biểu hiện cụ thể. Các anh kiên quyết giữ cho
được mảnh đất quê hương không cho rơi vào tay giặc dù chỉ là "gốc sim cằn".
Từ giã hậu phương, dấu chân người lính in khắp nẻo đường đất nước. Gia tài
của người chiến sĩ không chỉ là những gì nằm gọn trong chiếc ba lô quàng vai mà
còn là tình cảm không thể nào nguôi quên với người thân nơi hậu phương. Kí ức về
những năm tháng ở quê hương như những đợt sóng ngầm dội vào trái tim người
lính, tạo nên một thứ tình cảm kì diệu.
Hình tượng mẹ đã trở thành trung tâm mọi suy nghĩ, hành động của những
người chiến sĩ. Bởi thế, trong muôn vàn nỗi nhớ thì mẹ là nỗi nhớ da diết nhất. Hình
ảnh mẹ tảo tần, lo toan cuộc sống, chịu nhiều đắng cay được người lính thấu hiểu
sâu sắc:
Đất nước có giặc giã
Mẹ cho tôi lên đường

Thương con và thương nước
Người nhận đời cô đơn.
(Mẹ của người lính - Văn Lê).
Phải mang ơn, trân trọng bao nhiêu sự hi sinh, chịu đựng lớn lao của người mẹ
mới có được những câu thơ xúc động như thế. Từ người mẹ riêng của các chiến sĩ
đã hòa nhập làm một và trở thành người mẹ chung: người mẹ nhân dân, người mẹ
18
đất nước. Mọi ý nghĩ, tình cảm của các anh đều xuất phát từ mẹ để rồi từ đó chiếu
rọi lên tất cả, mẹ chính là "nguồn sáng" trong tâm hồn của các anh.
Cùng với hình ảnh mẹ, trái tim của những người lính còn có cả bóng hình
người thương, tạo nên nguồn lực thứ hai về tinh thần. Dù bản thân họ phải chịu
nhiều vất vả nhưng họ luôn dành sự quan tâm, lo lắng cho "một nửa của mình": "Ta
xa nhau không tính bằng năm tháng/ Mà tính bằng cả cuộc đời/ Đêm ngủ rừng nằm
nghe tiếng mưa rơi/ Nhớ thương em suốt đêm dài không ngủ/ (Mai anh sẽ về - Phạm
Minh).
Không chỉ sâu sắc trong tình yêu Tổ quốc, nặng lòng với tình cảm quê hương,
đời sống tinh thần của người lính còn được thể hiện qua tình đồng đội. Tình đồng
đội là chủ đề khá quen thuộc trong thơ kháng chiến, thơ giai đoạn 1975 - 2000 vẫn
tiếp tục mạch cảm xúc này. Đó là tình người trong thử thách gian nan, cùng nhau
chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, cùng nhau vượt qua khó khăn. Đồng đội chính là nguồn
động viên, là cánh tay dìu đỡ nhau đi trọn cuộc đời người lính. Trong suốt cuộc
trường chinh gian khổ, có biết bao chuyện vui buồn nhưng kỉ niệm đẹp nhất còn lại
trong trái tim mỗi người vẫn là những kỉ niệm về tình đồng đội: "Chuyện riêng
đồng đội cùng nghe/ Bao nhiêu tâm sự vỗ về sang nhau/ Bài ca chiến trận dài lâu/
Đã thương áo lính bạc màu vẫn thương" (Một thời áo lính - Ngọc Bái). Tình đồng
chí, đồng đội sâu nặng luôn hiện diện trong tâm hồn họ, giây phút chiến thắng đầu
tiên giữa thành phố Sài Gòn, những người lính còn sống bùi ngùi nhớ tới đồng đội
của mình - những người đã nằm lại dọc đường: "Người bạn tôi không về đến nơi
này/ Anh ngã gục bên kia cầu xa lộ/ Anh nằm lại trước cửa vào thành phố/ Giây
phút cuối cùng chấm dứt cuộc chiến tranh" (Nguyễn Duy).

Tình cảm với Tổ quốc, quê hương, gia đình, đồng chí là tình cảm luôn thường
trực trong trái tim người lính. Đời sống tình cảm đó, càng làm cho bức chân dung
tinh thần của người lính tỏa sáng. Các tác giả tỏ ra nhạy cảm khi viết về người lính
với những cung bậc tình cảm, những suy nghĩ riêng tư sâu sắc. Xây dựng hình ảnh
những người lính như thế các nhà thơ đã cố gắng tìm hướng khai thác mới tạo nên
chân dung thế hệ một cách toàn diện.
2.2.4. Thơ sau 1975 đã kế thừa truyền thống thơ ca chống Mĩ (tính chất sử thi,
tầm vóc dân tộc ) và đã mở ra những bình diện mới trong việc lý giải và thể hiện
người lính. Trong chiến tranh, người lính thường được nhìn ở tầm cao chiến lược,
sức mạnh quật khởi, ở sự nối tiếp của hùng hậu của các thế hệ thì nay người lính
được nhìn với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới, người lính được chú ý khai
thác ở góc độ không chỉ là cái phi thường mà còn ở cái bình thường. Nếu tư duy thơ
viết về chiến tranh và người lính trước 1975 có phần nhất quán, đơn giản theo một
giọng "sử thi hóa", thì sau 1975 thơ viết về đề tài này phóng khoáng hơn trong biểu
đạt, phức tạp hơn trong tư duy và cảm nhận của các tác giả. Chính sự đa dạng ấy đã
cho phép thơ nói được những vấn đề còn bỏ ngỏ vì chưa có thời điểm thích hợp.
Với một khoảng cách về thời gian, cái tôi trữ tình có điều kiện để suy ngẫm, nhìn
nhận các vấn đề và con người một cách tỉnh táo, đầy đặn, cụ thể, vươn tới được cả
những góc khuất, những miền kiêng kị trước đây chưa thể đề cập tới: nỗi cô đơn
của người vợ, phút xao xuyến trước giờ ra trận, hạnh phúc riêng tư, sự thiệt thòi, ý
thức về bản thân, sự trả giá. Nhân vật sử thi không chỉ được lí giải ở bình diện nghĩa
vụ, ý chí, không bị gò ép trong những giá trị về lòng yêu nước mà còn mở rộng sang
tự khẳng định những giá trị bản thân.
19
Thơ viết về chiến tranh và người lính giai đoạn 1975 - 2000, đặt tầm khái quát,
vấn đề thời đại thông qua số phận, tâm trạng của mỗi người với những suy nghĩ,
cảm xúc vui buồn, những gian khổ, mất mát, một cách chân thực. Khi đất nước có
chiến tranh, tự bản thân mỗi người yêu nước đều biết lấy nhân danh cộng đồng mà
suy nghĩ và hành động. Tổ quốc còn hay mất, độc lập tự do hay nô lệ? Câu hỏi ấy
khiến mỗi người Việt Nam chân chính tự nguyện dẹp bỏ mọi lợi ích cá nhân, hi sinh

tất cả cho công cuộc giải phóng đất nước. Giành được chủ quyền, nhân dân phải đổ
biết bao xương máu và nước mắt. Bởi vậy, đối với mỗi người "hi sinh vì Tổ quốc
cũng là hạnh phúc". Chủ đề về cái chết luôn luôn được đề cập, bởi nó nằm trong
quỹ đạo của những vấn đề nhân bản, mang tính vĩnh cửu của thơ. Thơ ở giai đoạn
trước 1975 đã nói đến cái chết, nhưng đó là cái chết của sự hi sinh, dấn thân vì lí
tưởng, vì sự nghiệp của đất nước nên thường mang khí vị lãng mạn, bi tráng, đẹp
như huyền thoại: "Anh đi bộ đội sao trên mũ/ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường/ Em
sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm" (Núi Đôi - Vũ Cao). Cái
chết của những người lính không phải mất đi, tan biến mà là sự thăng hoa, hồi sinh
trong lòng đất mẹ. Cái chết được đặt trong sự vĩnh hằng của đất nước nên vừa có
cái nhẹ nhàng thanh thản, vừa có dấu ấn của bất tử: "Tên anh đã thành tên Đất
Nước/ Ôi anh giải phóng quân/ Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn
Nhất/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân" (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh xuân).
Sự hi sinh của họ trở thành tấm gương, là nguồn động viên khích lệ cho đồng đội
tiếp tục cầm súng ra trận. Bởi vậy, tư thế con người bước vào cuộc chiến trong thơ
trước 1975 tràn đầy lạc quan, dường như không chút day dứt về số phận cá nhân:
"Những buổi vui sao cả nước lên đường/ Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục/
Xóm dưới làng trên con trai con gái/ Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau/ Súng nhỏ
súng to chiến trường chật chội/ Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu" ( Đường ra
mặt trận - Chính Hữu).
Thơ sau 1975, những cảm nhận về sự hi sinh không chỉ còn là sự hồi sinh,
thăng hoa mà có cả mất mát, đau thương, một nỗi buồn chiến tranh khó nguôi:
"Chết không còn tuổi, đã đành/ Cái tên mẹ đặt cũng thành khói mây/ Biết hồn xanh
cỏ, xanh cây/ "Vô danh" vẫn cứ đắng cay lòng mình!" (Ghi ở cõi Trường Sơn -
Nguyễn Hữu Quý). Bởi vậy, cái chết được miêu tả, được cảm nhận là cái chết nằm
trong quy luật tử sinh của kiếp người. Hình ảnh cái chết, cảm giác về sự tiêu tan, về
ngày tận số của cuộc đời đè nặng lên khá nhiều trang thơ. Trong tập Một chấm
xanh, Phùng Khắc Bắc dường như linh cảm được cái chết sẽ đến với mình. Người
cựu chiến binh này cố tỏ ra bình tĩnh mà vẫn không khỏi đau đớn khi đành phải
chấp nhận số mệnh: "Hôm nay đúng là tuổi, là ngày ta đi về quê tiên tổ". Cái chết

do hậu quả của chiến tranh để lại trên thân thể anh với: "Tế bào lạ biến hình của
chất độc da cam nằm lặng im, mỉm cười thâm trầm trong máu", là điều không tránh
được, nhưng có lúc nhà thơ cảm thấy day dứt với những mặc cảm về thân phận:
"Chết là hết/ Mọi cái đều không/ Vì ta không chết trên chiến địa/ Vì vết thương này
không chứng minh được ta là liệt sĩ/ Ta chết đây". Tác giả đã đề cập đến nghịch lí
giữa sự sống và cái chết, giữa thiên đường và địa ngục, giữa cõi dương và cõi âm:
"Sống và chết có gì khác mấy đâu/ Người chết hóa linh thiêng, người sống phải sở
cầu Ta đi giữa công bằng tầng dưới, và sự bất công bằng ở tầng trên". Quan niệm
về cái chết trong thơ không thuần túy là cái chết vật chất, là sự tan biến của thể xác
20
mà còn hàm ẩn cái chết tượng trưng, cảm nhận cái chết trong quá trình nhận thức,
nghiền ngẫm, suy tư. Sống có nghĩa là tiệm tiến dần đến cõi chết.
Được soi chiếu qua lăng kính riêng ấy, hiện thực về chiến tranh có thêm sức
hấp dẫn mới. Cái nhìn về chiến tranh và người lính chuyển từ cao xuống thấp, từ số
phận chung của đất nước, dân tộc đến số phận riêng. Sự cố gắng cao giọng, lên gân
mất đi, nhiệt độ cảm xúc hạ xuống. Xuất hiện tâm thế đối thoại, một tâm thế xác
nhận những quan niệm, giá trị, các tiêu chuẩn khác với cách nhìn nhận truyền
thống. Tư thế người lính không còn cao vòi vọi để người đời chiêm ngưỡng, mà
chính bản thân họ ý thức được giá trị của mình, họ chối bỏ mọi hào quang phù
phiếm: "Ta là đất đai thôi/ Xin đừng nặn ta thành những tượng thần/ Xin đừng nặn
ta thành những núi cao" (Thu Bồn). Hiện thực của chiến tranh hiện ra không cần tô
vẽ: "Con trai vừa lớn lên, chưa biết yêu đã biết cầm súng đứng vào đội ngũ /
Đường đến với Tổ quốc là đường đi qua cái chết" (Lê Lâm).
Đứng ở thời điểm hậu chiến, các tác giả đã có cách cảm mới về người lính từ
góc nhìn sử thi. Tâm hồn con người sử thi không đơn giản mà có suy nghĩ sâu sắc
về cuộc sống, quê hương, lương tâm, nghĩa vụ, sự hi sinh. Cái tôi sử thi không chỉ
được nhìn ở góc độ nhiệm vụ, cống hiến, anh hùng mà còn được nhìn từ phía sau
đời thường với bao nỗi niềm trăn trở. Con người sử thi vẫn là con người vĩ đại, cao
cả nhưng rất đỗi bình thường. Họ được đồng nhất vào đội ngũ trùng điệp, vào lịch
sử ngàn năm của dân tộc. Sự lựa chọn cuối cùng được đền đáp bằng chiến thắng

hào hùng, chấm dứt cuộc hành quân dài ba mươi năm của dân tộc.
2.3. CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG THƠ 1975 - 2000 TỪ GÓC
NHÌN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ
Chiến tranh chấm dứt, đất nước chuyển sang thời kì mới, không còn tiếng
súng, không còn đạn bom nhưng cuộc sống thời bình chẳng hề đơn giản, mà đầy
khó khăn, thử thách. Những người lính, một thời chỉ quen cầm súng, chỉ biết sống
rõ ràng, minh bạch trên chiến trường, giờ cuộc sống mưu sinh đặt họ trước trận
chiến mới.
Khi hào quang chiến thắng bớt rực rỡ, ồn ào, thì thơ viết về chiến tranh và
người lính cũng mang sắc màu khác. "Cảm hứng trữ tình chuyển từ tự hào ca ngợi,
chiêm ngưỡng xuống lắng đọng, suy tư. Không gian chuyển từ rộng sang hẹp, từ
không gian lịch sử sang không gian đời tư. Những vấn đề sử thi chuyển dần sang
màu sắc thế sự" [58, tr. 92]. Đây là những yếu tố hết sức quan trọng, khiến cho thơ
giai đoạn này thể hiện tinh thần dân chủ sâu sắc. Nhà thơ không còn bị vướng bận
với những kiểu hiện thực chủ yếu hay hiện thực thứ yếu, không bị bó buộc trong
những khung tư tưởng định sẵn mà được thể hiện tự do hơn tính đa chiều của hiện
thực. Nói đúng hơn, hiện thực trong thơ phải là thứ hiện thực của suy tư. Các nhà
thơ đã thật lòng nói lên nỗi buồn của mình, khi nhìn thấy sự nghèo khổ và bất hạnh
còn tìm đến bao số phận: "Mười mấy năm trận mạc/ Anh lính trở về làng/ Mẹ già
thì mới mất/ Nhà cửa thì tan hoang" (Khúc bi ca - Văn Lê). Nhiều thi phẩm sau
chiến tranh đã thể hiện một cách khá riết róng những mặt trái của đời sống, những
thay đổi các thang bậc giá trị, không né tránh việc nói đến những bất công trong xã
hội. Đây là những cảm hứng hiếm khi xuất hiện trong thơ 1945 - 1975, khi mà số
phận dân tộc và số phận cá nhân hòa làm một, cái tôi và cái ta hoàn toàn thống nhất.
21
Cái nhìn nghệ thuật trong thơ ca sau 1975 là cái nhìn trần trụi, không mang màu sắc
lí tưởng hóa.
Thơ viết về chiến tranh và người lính vẫn là đề tài được nhiều nhà thơ quan
tâm. Số phận người lính và người thân của họ trong chiến tranh, sau chiến tranh
hiện lên trong thơ rất chân thực và xúc động. Nhiều người mẹ, người vợ của các liệt

sĩ còn phải gánh tiếp nỗi đau chiến tranh trọn cuộc đời mình. Nhiều cựu chiến binh
còn mang mảnh đạn, chất độc da cam trong người. Nhiều binh nhất, binh nhì còn
phải xuyên rừng lội suối, đi tìm hài cốt cha anh. Hiểu được nỗi lòng của người lính
trở về từ cuộc chiến phải kể đến các nhà thơ mang quân phục, tiêu biểu như: “Một
Nguyễn Đức Mậu nồng hậu, nhiều giải bày trăn trở, một Anh Ngọc buồn lặng đa
sầu, một Vương Trọng thông minh thế sự, một Nguyễn Hồng Hà nhiều tưởng nhớ,
day dứt, một Lê Thành Nghị biết kiệm lời và triết luận, một Đỗ Trung Lai phảng
phất Đường thi, một Trần Đăng Khoa hóm hỉnh, một Trần Anh Thái đau đáu, sâu
sắc, một Nguyễn Bình Phương lung linh nhiều chấm lạ, một Nguyễn Văn Hiếu hoài
niệm, một Hồng Thanh Quang nhiệt tình, một Lê Văn Vọng mộc mạc, bình dị ”
[62, tr.173].
Những tác phẩm của các anh viết giai đoạn này, như một sự bù đắp cho những
gì chưa viết ra được trong thời cả nước tưng bừng ra trận. Thơ trở thành một hình
thức tự vấn, phản tỉnh về các giá trị đời sống và sự hiện hữu của bản thể con người.
Đề tài chiến tranh và người lính được khai thác từ nhiều bình diện, góc nhìn: quá
khứ, hiện tại, tương lai, chiến trường, hậu phương, vinh quang, tổn thất. Với việc
mở rộng chiều kích và cái nhìn toàn diện, thơ viết về đề tài này đã thực sự tìm cho
mình một lối đi riêng để tạo nên một diện mạo mới.
2.3.1. Người lính với cuộc sống đời thường
Cuộc chiến kết thúc, hàng vạn người lính vừa hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng
đối với Tổ quốc đã trở lại phố phường, làng xóm, trở về với hậu phương, bắt đầu
một cuộc sống mới: "Người lính trở về, không trách cứ, không hàm ơn số phận/
Người lính trở về đời thường, thân quen và lạ lẫm " (Nghiêm Huyền Vũ). Từ vị trí
anh hùng, từ niềm kiêu hãnh đã góp sức mình làm nên những chiến công hiển hách
vang dội, về vị trí người dân, bên cạnh niềm vui, niềm tự hào, thì người lính phải
đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp nảy sinh trong cuộc sống. Trở về trong ngôi
nhà của mình, người lính xót xa bộc bạch: "Con đã đi qua ranh giới nửa cuộc đời/
Tuổi bốn mươi đang xù xì trước mặt/ Tứ thập nhi bất hoặc/ Mà đời con thì còn
nhiều chông chênh/ Cái ba lô còn sình lầy, còn đất cát/ Sau cuộc chiến tranh con
chưa làm gì được cho mình" (Ngôi nhà của mẹ - Hoàng Đình Quang). Nỗi lòng của

người lính xuất phát từ thực tế của hoàn cảnh. Sau nhiều năm lửa đạn, không ít
người nhận thấy một thời mãi chinh chiến, say mê lí tưởng mà quên mất hiện thực
đang ở trước mặt: "Tôi đã đi quá nửa cuộc đời/ Qua những thập kỉ hát ca, những
thế kỉ anh hùng/ Say mê quá chợt bây giờ nhìn lại/ Chứa bao điều bão tố ở bên
trong" (Võ Văn Trực).
Sau chiến tranh, xã hội có những biến đổi là điều tất yếu. Tuy vậy, có những
lúc con người vẫn cảm thấy hoang mang trước sự phức tạp của đời sống, trước sự
đảo lộn của những giá trị đạo đức. Cuộc sống thời bình làm cho con người có những
triết lí sống khác hẳn thời chiến. Nổi bật là triết lí đời thực, một triết lí nhập thế, con
người không vời đến khía cạnh lãng mạn, trừu tượng, xa xôi, thiếu thực tiễn. Người
22
lính trở về, trực tiếp đối diện với một đời sống hiện thực không lãng mạn hóa của xã
hội sau chiến tranh thì tâm lí ngỡ ngàng là điều không tránh khỏi. Các nhà thơ trong
thời kì này muốn làm một cuộc "đối thoại" với sử thi thời chiến. Thơ không chỉ còn
tập trung ngợi ca cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc vừa qua mà thơ còn là những
suy ngẫm, những trăn trở, băn khoăn về cuộc sống thường nhật. Nhiều câu thơ thấm
thía nỗi buồn, với suy nghĩ nóng bỏng, nặng trĩu lo âu, xuất hiện: "Thời tem phiếu
thời phân quần áo lót/ Còn nhân phẩm thì tự tìm, thứ ấy chẳng ai cho/ Đất nước
bấm ngón chân rịn mồ hôi hột/ Trên bãi lầy, nắng cháy vào gan ruột/ Cây lúa tong
teo thức ngủ cùng người/ Lời nói thật nằm im trong miệng" (Gọi nhau qua vách núi
- Thi Hoàng).
Mô típ người lính trở về khá quen thuộc với nhiều tác phẩm văn học nói chung
và thơ nói riêng. Nhưng sự trở về của người lính hôm nay có phần khắc nghiệt hơn,
khi chính họ và người thân phải đương đầu với nghèo khổ. Trước hết đó là sự va
chạm với những lo toan thường nhật, với những câu hỏi mà người lính không thể
hình dung nổi: "Chúng tôi đánh giặc mấy mươi năm, giữ từng tấc đất từng cây lúa/
Máu thấm những dòng sông, thửa ruộng, con đường/ Máu trào qua hạt gạo, sao
vẫn đói " (Trần Sơn Nam). Đặt nhân vật người lính vào trong cái bề bộn, gai góc
của đời thường, tác giả rất tinh tế nhận ra những xáo trộn trong đời sống tinh thần
của họ. Chính cuộc sống mưu sinh quá đỗi vất vả, nhọc nhằn đã khiến cho người

anh hùng trận mạc hôm qua thì hôm nay trở thành anh binh nhì ngơ ngác: "Ta như
lạc giữa ngã ba đời/ Có lúc lang thang/ Về đâu/ Không biết nữa/ Có lúc vật vờ như
hồn thiêng, không nhà không cửa/ Hoàng hôn cô đơn giữa chợ/ Bình minh lút trong
rừng sâu" (Phùng Khắc Bắc). Họ chưa kịp chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết
để bước vào đời thường. Nhiều người trong số họ đã không tránh khỏi sự hụt hẫng,
ngơ ngác trước sự đổi thay của cơ chế thị trường. Cuộc sống thời hậu chiến đang
từng ngày thay da đổi thịt, nền kinh tế mở đã làm đảo lộn nhiều giá trị, cái cũ - cái
mới, truyền thống - hiện đại đan xen. Tất cả đều không còn phân biệt rạch ròi như
cuộc sống thời chiến: "Thời chưa xa ta nhập với mọi người/ Hòa màu xanh để
thành rừng bát ngát/ Bao sức lực chống chèo trong nước xiết/ Thấy ấm lòng trong
âm nhịp hò reo/ Trải nắng mưa vầng trán đã nhăn nheo/ Lại đối diện trước ngọn
đèn, trang giấy trắng/ Đối diện với tâm hồn có bao điều hụt hẫng/ Giữa đêm dài
vắng lặng mênh mông" (Lê Quang Trang).
Chủ đề thế sự xuất hiện nhiều trong thơ với khát vọng dân chủ, ý thức tôn
trọng sự thật nên thơ đã không ngần ngại chạm đến những vấn đề cốt lõi của thực
tại. Cái nhìn của các nhà thơ trở nên hiện thực, gai góc hơn so với cái nhìn thuần
nhất, lí tưởng. Thơ viết về người lính với cuộc sống đời thường, thấm thía một nỗi
buồn nhân thế. Nhà thơ tỏ ra nhạy cảm trước số phận đồng loại, người thân, trước
những biến động, đổi thay của đời sống thường nhật và thực trạng xã hội.
Điều đáng trân trọng là cái buồn, vui của "người trở về" đã vượt khỏi tính toán
thiệt hơn, vượt lên sự tầm thường của đời sống thường nhật. Nó có thể trở thành
"không tưởng" đối với một số người biến chất, quen nhìn đời theo những thước đo
của những giá trị vật chất chật hẹp, nhưng chắc chắn nó sẽ góp phần làm "thăng
bằng" bầu không khí đạo đức của xã hội, điều chỉnh các quan niệm sống lệch lạc mà
cơ chế thị trường dù muốn hay không cũng đã tạo ra trong đời sống sau chiến tranh.
Cuộc sống thời hậu chiến được ví như cuộc chiến lâu dài, ác liệt hơn so với 30 năm
bom đạn trước kia. Dù cuộc chiến này, người lính còn gặp nhiều cam go, thậm chí
23
chấp nhận cả những hi sinh thua thiệt, nhưng "chất lính" sẽ là mạch ngầm làm nên
nhân cách cao đẹp, để họ vượt qua những thử thách trong cuộc sống đời thường.

2.3.2. Nỗi niềm và hồi ức của người lính trở về
Những năm sau hoà bình, đất nước đứng trước những khó khăn to lớn, dẫn đến
khủng hoảng sâu sắc về kinh tế, xã hội, đạo đức. Trạng thái xã hội ấy được khắc
họa qua những nỗi bất hạnh, những thua thiệt, đói nghèo, những suy thoái đạo đức
Đối diện với đời thường, thơ xoáy sâu vào những vết đau hiện hữu của xã hội như
tệ quan liêu, cửa quyền, thói cơ hội, đặc biệt những vấn đề về xã hội và số phận con
người trong môi trường mới. Chiến tranh và người lính được nhìn ở những bình
diện: Có mất mát, có niềm vui, nỗi buồn, có hi vọng, tuyệt vọng, có hạnh phúc, bất
hạnh. Do đó, nỗi niềm của những người lính bộc bạch hết sức chân thành, cảm xúc
của họ là những giây phút "thật lòng".
Khi thực tế xã hội làm nảy sinh tâm trạng hoang mang, buồn chán trong cộng
đồng, thì có lẽ những người về từ chiến trường là những người buồn nhất. Trong
mỗi người hình như tồn tại một sự hụt hẫng, so le giữa hiện thực và lí tưởng:
"Những người lính vô danh/ Sống hào hùng suốt một thời đánh giặc/ Giờ đối mặt
với cuộc đời thường nhật/ Lí tưởng thì xa cơm áo thì gần" (Lê Quang Trang).
Những tâm trạng, những suy nghĩ, những trăn trở của người lính trở về có thể lắng
nghe được qua khá nhiều tác phẩm thơ ở giai đoạn này. Nỗi niềm của họ bộc lộ qua
nỗi buồn về thời cuộc, thương những người đã ngã xuống, những người còn sống và
cả bản thân mình: "Lính già thắng trận về nhà/ Bao nhiêu tội vạ tà tà chia nhau/
Thằng còn mảnh đạn trong đầu/ Bỗng dưng quẳng áo đi đâu khỏi làng" (Thương
nhớ - Nguyễn Hồng Hà).
Đất nước trong thời kì mở cửa đã có những đổi thay rõ rệt. Bên cạnh những
yếu tố tích cực, không ít những tiêu cực, thoái hóa, diễn ra hàng ngày, ở một mức
độ nào đó có ảnh hưởng đến đời sống văn hóa dân tộc. Các nhà thơ đã nhìn thấy và
không ngần ngại nêu lên: "Thời mở cửa, cửa các nhà khép kín với nhau hơn" (Bùi
Việt Phong). Vì đồng tiền, vì mưu sinh mà quan hệ giữa người với người trở nên
ích kỉ, hẹp hòi hơn, thậm chí một số người cố tình đánh mất đi nét đẹp tình người
trong giao tiếp. Đối mặt với cuộc sống muôn vàn khó khăn, người lính mong muốn
có sự sẻ chia, gần gũi, bởi với họ thì tình cảm là thứ cao quý nhất của con người:
"Trước trái đất nóng lên từng độ/ Và trái tim con người cứ lạnh dần đi/ Thì tôi phải

cần em, cần bạn bè cây lá/ Cần có một quê hương để được trở về mình" (Đêm gần
sáng - Nguyễn Quang Thiều).
Những người lính trở về từ chiến trường, trong tâm tư họ có rất nhiều nỗi
niềm. Trước cuộc sống nảy sinh nhiều ngang trái, đôi khi họ muốn không bận lòng
về những gì đã qua để hòa nhập với hiện tại cho thanh thản, nhưng rồi họ lại bất
lực: "Muốn nguôi quên những xót xa/ Hát cùng trời đất bài ca thanh bình/ Thế
nhưng trong thịt xương mình/ Mảnh kim loại vẫn khối tình vẹn nguyên / Dù cho
vết sẹo ngày xưa/ Đã chai lì với nắng mưa dãi dầu/ Vẫn không chai được nỗi đau/
Khi qua ngõ chợ, gầm cầu, bánh xe/ Khi trên bàn tiệc hả hê/ Người ta uống cả lời
thề chiến tranh" (Vẫn còn mảnh đạn - Phạm Doanh).
Trong dòng chảy của hồi ức, người lính không thể nào quên những năm tháng
chiến trường gian khổ. Nơi đó biết bao đồng đội đã ngã xuống cho Tổ quốc được
hòa bình. Người ngã xuống vì đói rét, bệnh tật, người ngã xuống trong đội hình tấn
24
công, người ngã xuống vì bom rải thảm: "Người còn tên. Người mất tên/ Dãi dầu
bia đá nằm bên dãi dầu/ Nắng mưa cỏ dại phai màu/ Nấm mồ liệt sĩ, như nhau nấm
mồ/ Khói hương như thể mây mù/ Trắng trời lớp lớp lau gù đội tang/ Xạc xào gió lá
ngụy trang/ Gió từ cõi đất, gió sang cõi người" (Lê Đình Cánh), nhưng đau đớn
nhất là những người đã đi suốt chiều dài cuộc chiến nhưng lại ngã xuống trước giờ
khắc chiến thắng: "Bạn tôi hát "Sài Gòn ơi ta đã về đây"/ Mắt anh lung linh nắng/
Chúng tôi không ngờ từ một hẻm sâu, kẻ thù đang rình bắn/ Anh ngã xuống buổi
trưa ngày 30 tháng tư" (Trưa 30.4 năm 1975 - Thanh Quế). Để phần nào xoa dịu
nỗi đau thương, những người lính ngày nào, lại cùng thế hệ trẻ lên đường, lặn lội
khắp rừng sâu, núi cao, tìm bằng được các anh về cùng quê hương, gia đình: "Tấm
ni lông dành che hài cốt/ Chúng tôi như cây đẫm buốt mưa rừng/ Tay đồng đội
nâng niu đồng đội/ Cơn mưa rừng trào khóe mắt rưng rưng" (Cơn mưa rừng chiều
nay - Nguyễn Hữu Quý). Tâm hồn họ phần nào cảm thấy thanh thản, khi thấy đồng
đội đã dần được người thân đưa về các nghĩa trang, để Tổ Quốc đời đời tưởng nhớ,
tôn vinh, ghi công các anh.
Nhiều người lính may mắn trở về hậu phương, nhưng họ lại mang trong mình

những thương tích chiến tranh hết sức nặng nề, dai dẳng. Những thương tích đó,
tiếp tục hành hạ họ về thể xác lẫn tinh thần cho đến cuối đời. Đau đớn hơn cả là
những người lính mang trong mình chất độc da cam, họ đang chết dần, chết mòn
cùng các thế hệ con cháu của họ: "Các con anh/ Đứa tiếng nói chẳng còn/ Đứa tật
nguyền dị dạng/ Đứa đui mù quờ quạng ôm nhau/ Đất nước mình thay da đổi thịt/
Nơi anh còn lại nát tan/ Chất độc màu da cam/ Vết thương chiến trường/ Đau mấy
đời đau" (Thương Cảm - Văn Duy).
Trước 1975, vị trí của người lính luôn đặt vào hoàn cảnh lớn của dân tộc nên
những tình cảm riêng tư tạm thời bị che lấp. Tình yêu, hạnh phúc gia đình nếu có đề
cập đến cũng gắn với tình cảm chung của cộng đồng: "Anh yêu em như yêu đất
nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần/ Ngôi sao trong đêm không bao giờ
tắt/ Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời" (Nhớ - Nguyễn Đình Thi). Thơ sau
1975, đã không còn phải né tránh khi nói về cuộc sống tình cảm riêng tư của người
lính. Đó là nỗi buồn về những cuộc tình dang dở: "Giờ gặp nhau đã ngoại tứ tuần/
Đã lỡ mất một thời khao khát/ Đã lỡ mất một thời khốc liệt/ Kẻ thù hết rồi/ Ước cũ
còn không?" ( Một thuở Trường Sơn - Phạm Văn Đoan), là sự muộn màng của hạnh
phúc đôi lứa: "Trôi nổi suốt con đường thời chinh chiến/ Tiếng bom ngưng mới
nghĩ chuyện mình già" (Mai Hồng Niên), là những thiệt thòi, mất mát không gì bù
đắp nổi trong cuộc sống gia đình: "Cuộc chiến tranh đi qua đã hai chục năm rồi/
Sau cuộc chiến trong người âm ỉ mãi/ Tôi không muốn có một người con gái/ Sống
bên chồng mà phải mồ côi" (Trăn trở - Hà Thiên Sơn). Những mất mát riêng tư của
cuộc sống đời thường, mà thơ giai đoạn trước chưa có điều kiện giãi bày, thì bây
giờ đã được nói tới với tấm lòng chia sẻ, cảm thông sâu sắc. Đây là hướng tiếp cận
mang đậm chất nhân văn rất đáng trân trọng. Thơ viết về chiến tranh và người lính
giai đoạn này, vừa có dư âm quá khứ, vừa có hơi thở cuộc sống hiện tại, lại được
thể hiện qua cái tình của đồng đội nên thơ đã thật sự đem đến những cảm xúc mới
về hình ảnh người lính.
Nỗi niềm của những người lính trở về mang nhiều sắc thái. Đó có thể là hoài
niệm về một thời đã qua, là nỗi buồn về cuộc mưu sinh hiện tại, là sự cô đơn trong
đơn lẻ và cô đơn ngay giữa cuộc sống bộn bề, náo nhiệt. Nguyễn Đức Mậu đã viết

25

×