Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

TRIẾT học ÐÔNG PHƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.64 KB, 6 trang )

TRIẾT HỌC ÐÔNG PHƯƠNG
ỨNG DỤNG TRONGÐÔNG Y
I. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :
1. KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :
Học thuyết âm dương là một bộ phận trọng yếu trong y học cổ truyền.
Người xưa nhận thấy sự vật trong thiên nhiên luôn luôn có sự mâu thuẫn, đối lập và thống
nhất với nhau, không ngừng vận động đễ phát sinh phát triển và tiêu vong như: sáng tối, ngày đêm, trời
đất, nóng lạnh, nước lửa . v.v gọi là âm dương.
Trong y học cổ truyền học thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến
phức tạp trong suốt quá trình sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán điều trị và bào chế đông dược.
2. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :
a. Âm dương đối lập : là sự mâu thuẫn giữa hai mặt âm dương như: ngày đêm,
ngủ thức, nước lửa, lạnh nóng, hưng phấn và ức chế.
b. Âm dương hổ căn : là sự nương tựa vào nhau giữa hai mặt âm dương như :
trong âm có dương, trong dương có âm.
c. Âm dương tiêu trưởng : là quá trình vận động không ngừng của âm dươngmọi
sự vật sinh ra, lớn lên, già cỗi, mất đi rồi lại sinh ra.
d.Âm dương bình hành : là sự thăng bằng giữa hai mặt đối lập.
Bốn mặt trên của sự vật nói lên các qui luật, mâu thuẫn nhưng thống nhất, thăng bằng nhưng vận động
không ngừng, nương tựa nhưng chế ước lẫn nhau trong quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong.
Người xưa tượng trưng học thuyết âm dương bằng hình vẽ như sau :



3. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG VÀO TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN
ÂM TẠNG HUYẾT DINH BỤNG HÀN HƯ LÝ TRÁI THUỶ LƯƠNG
DƯƠN
G
PHỦ KHÍ VỆ LƯNG NHIỆT THỰC BIỂU PHẢI HOẢ ÔN




Bệnh tật sinh ra do sự mất thăng bằng về âm dương, biểu hiện dương thắng, âm thắng,
dương hư, âm hư. Ðiều trị bệnh là điều hoà lại âm dương. Trong chẩn đoán người ta nương
tựa vào các cương lĩnh để xác định bệnh trong hay ngoài (biểu lý) nóng hay lạnh (hàn nhiệt)
suy sụp hay hưng thịnh (hư thực) mô tả trạng thái và xu thế chung của bệnh tật thuộc âm
hay dương để dùng thuốc âm hay thuốc dương mà điều trị cho thích hợp.
II. HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :
1. KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :
Học thuyết ngũ hành là học thuyết âm dương được liên hệ một cách cụ thể hơn trong việc quan sát,
quy nạp sự liên quan của các sự vật.
Trong y học người xưa vận dụng ngũ hành để phân tích sự tương quan trong các hoạt sinh lý. Ngoài ra
còn dùng để tìm tác dụng của thuốc để áp dụng vào việc bào chế.
2. NỘI DUNG CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :
Người xưa cho rằng trong thiên nhiên có năm loại vật chất chính đó là :Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thuỷ
(nước), Hoả (lửa), Thổ (đất).
Mọi hiện tượng trong tự nhiên được xếp theo năm loại vật chất trên gọi là ngũ hành.
3. BẢNG QUI NẠP THIÊN NHIÊN VÀ CƠ THỂ CON NGƯỜI THEO NGŨ HÀNH :

NGŨ HÀNH MỘC HOẢ THỔ KIM THUỶ
HIÊN TƯỢNG
VẬT CHẤT GỖ LỬA ÐẤT KIM LOẠI NƯỚC
MÀU SẮC XANH ÐỎ VÀNG TRẮNG ÐEN
NGŨ VỊ CHUA ÐẮNG NGỌT CAY MẶN
THỜI TIẾT XUÂN HẠ TỨ QUÝ THU ÐÔNG
P.HƯỚNG ÐÔNG NAM T. ƯƠNG TÂY BẮC
NGŨ TẠNG CAN TÂM TỲ PHẾ THẬN
LỤC PHỦ ÐỞM T.TRƯỜNG VỊ Ð.TRƯỜNG B. QUANG
NGŨ THỂ CÂN MẠCH NHỤC BÌ PHU CỐT
NGŨ QUAN MẮT LƯỠI MIỆNG MŨI TAI
TÌNH CHÍ GIẬN MỪNG LO NGHĨ BUỒN SỢ

Trong điều kiện bình thường, thiên nhiên, vật chất và con người có liên quan mật thiết với nhau, tác động
nhau chuyển biến không ngừng bằng thúc đẩy nhau (tương sinh) hoặc chế ước lẫn nhau (tương khắc)
để giữ được mối thăng bằng âm dương.
4. CÁC QUI LUẬT HOẠT ÐỘNG CỦA NGŨ HÀNH :
a. Qui luật tương sinh :
Mộc sinh Hoả = Can sinh Tâm
Hoả sinh Thổ = Tâm sinh Tỳ
Thổ sinh Kim = Tỳ sinh Phế
Kim sinh Thuỷ = Phế sinh Thận
Thuỷ sinh Mộc = Thận sinh Can.
b. Qui luật tương khắc :
Mộc khắc Thổ = Can khắc Tỳ
Thổ khắc Thuỷ = Tỳ khắc Thận
Thuỷ khắc Hoả = Thận khắc Tâm
Hoả khắc Kim = Tâm khắc Phế
Kim khắc Mộc = Phế khắc Can
5. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VÀO TRONG Y HỌC :
Ðể xác định vị trí của một bệnh lý sinh ra từ tạng phủ nào, mà tìm cách điều trị cho thích hợp,
người xưa qui định có thể do một trong năm vị trí sau đây :
Chính tà : do bản thân tạng ấy có bệnh
Hư tà : do tạng trước không sinh được nó
Thực tà : do tạng sau nó đưa đến
Vi tà : do tạng khắc nó quá mạnh
Tặc tà : do nó không khắc được tạng khác.
Trong điều kiện bất thường về bệnh lý, có nhiều tạng phủ quá mạnh hay quá yếu sẽ xảy ra hiện
tượng khắc quá mạnh (tương thừa) hay chống lại cái khắc mình (tương vũ) Ðông y dùng qui luật tương
thừa hay hay tương vũ để giải thích một số cơ chế sinh bệnh và áp dụng điều trị.
III. HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT :
1 KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT :
Học thuyết thiên nhân hợp nhất, nói lên giữa con người và hoàn cảnh thiên nhiên xã hội luôn luôn mâu

thuẫn nhưng thống nhất, con người luôn luôn chủ động thích ứng với thiên nhiên để sinh tồn, phát triển.
Thí dụ :
Trời đất có sáng tối, con người có thức ngũ.
Trời lạnh người co giữ ấm, trời nóng người đổ mồ hôi giải nhiệt.
Trời có sáu khí : phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả.
Ðất có ngũ hành : kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Người có ngũ tạng ứng với đất, lục phủ ứng với trời và thích nghi theo từng thời tiết bốn mùa.
2. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT VÀO Y HỌC
Học thuyết thiên nhân hợp nhất là nội dung của phương pháp phòng bệnh trong y học cổ
truyền, nắm được nguyên lý của học thuyết sẽ giúp cho con người :
- Cải taọ thiên nhiên bắt thiên nhiên phuc vụ đời sống.
- Chủ động rèn luyện sức khoẻ.
- Cải tạo tập quán củ, gìn giữ mỹ tục.
- Rèn luyện ý chí chống dục vọng cá nhân.
- Ăn tốt, mặc ấm, giữ vệ sinh cá nhân và hoàn cảnh.
- Ðiều độ về ăn uống, sinh hoạt, lao động, tình dục. v v.
IV. KẾT LUẬN :
Từ 3 học thuyết âm dương, ngũ hành, thiên nhân hợp nhất. Y học cổ truyền đi đến một quan niệm
toàn diện và thống nhất chỉnh thể trong phương pháp phòng bệnh, chẩn đoán và điều trị bệnh tật.
Người thầy thuốc phải thấy con người ở thể thống nhất toàn vẹn giữa các chức phận, giữa tinh
thần và vật chất, giữa cá nhân và hoàn cảnh chung quanh để đi đến các vấn đề
- Phòng bệnh sống lâu.
- Chữa người có bệnh chứ không phải chữa bệnh.
- Nâng cao chính khí con người là chính để thắng được mọi bệnh tật.

Tiếp tục

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG Y
DƯỢC HỌC NƯỚC TA HIỆN NAY
HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG Y DƯỢC HỌC NƯỚC TA HIỆN NAY

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG Y DƯỢC HỌC NƯỚC TA HIỆN NAY

LTS: Hưởng ứng lời kêu gọi của BBT trong lá thư Tòa soạn số 102 về việc sưu tầm các bài viết
tản mác trên các báo của GS.TS Đỗ Tất Lợi, ông Nguyễn Trương Tuấn ở địa chỉ ngõ 69, phố Vọng
Hà, Chương Dương, Hà Nội đã gởi về Tòa soạn CTQ bài sưu tầm từ tạp chí Tri Thức Trẻ. Xin trân
trọng giới thiệu lại cùng độc giả CTQ những kiến giải uyên thâm về một triết thuyết cổ có liên hệ
thực tiễn, kinh nghiệm và định hướng hoạt động nghiên cứu dược liệu của cố Chủ tịch Hội
dược Liệu Việt Nam vừa mới ra đi cách đây không lâu
Trong khi nghiên cứu tìm hiểu để thừa kế vốn Y học cổ truyền của dân tộc, người cán bộ y dược quen
với phương pháp và cách suy nghĩ làm việc theo khoa học hiện đại truyền đạt trên ghế nhà trường đại
học hiện nay thường vấp phải một trở ngại. Hầu hết các sách, các kinh nghiệm chữa bệnh, chế thuốc,
dùng thuốc đều viết và nói bằng những tiếng rất xa lạ đối với khoa học ngày nay như âm dương, hàn
nhiệt, hư thực, biểu lý, thận thủy, thận hỏa…
Muốn tìm hiểu những tiếng xa lạ ấy đối với khoa học hiện đại, không có cách nào khác là tìm hiểu học
thuyết “Âm dương ngũ hành” do một môn phái triết học phương Đông đưa ra sau khi đã quan sát lâu đời
sự biến hóa của tự nhiên.
Nhưng học thuyết này trước nay lại được diễn đạt một cách rất khó hiểu, nhiều khi được bao phủ bởi
một lớp vỏ đượm màu mê tín, vì học thuyết này đồng thời là cơ sở của nhiều ngành học cổ như môn địa
lý, tử vi, bói toán… Cho nên nhiều người cho rằng trong lúc nghiên cứu theo phương pháp của khoa học
hiện đại còn chưa đủ thời giờ thì tội gì lại đâm đầu vào tìm hiểu một vấn đề đã lạc hậu.
Sự thực thì sau khi tước bỏ lớp ngoài đượm màu mê tín, huyền bí do người đời sau thêm thắt xuyên tạc,
chúng ta sẽ thấy học thuyết “Âm dương ngũ hành” chứa đựng những chân lý khách quan và giúp ta một
phương pháp suy luận mới khác với những suy luận quen thuộc.
Thực vậy, theo học thuyết này vạn vật biến chuyển không ngừng, vạn vật chứa mâu thuẫn và sự sinh tồn
của vạn vật là do sự ức chế và thúc đẩy lẫn nhau của hai lực lượng đối lập và gắn liền với nhau gọi là
“âm” và “dương”. Sau đây gần như nguyên là lời văn của người xưa: “Vũ trụ khi mới hình thành là một
khối thống nhất gọi là thái cực. Thái cực biến hóa sinh ra lưỡng nghi là âm và dương. Âm dương kết
hợp với nhau để sinh ra ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Ngũ hành (năm thứ vật chất) này lại
có sự kết hợp chặt chẽ để tạo ra “Tam tài” (ba lực lượng) là Thiên (trời), Địa (đất) và Nhân (người).
Trong mỗi lực lượng này lại có sự kết hợp chặt chẽ và cân bằng giữa “âm” “dương” và “ ngũ hành”.

Âm dương không phải là một vật chất cụ thể nào, mà là thuộc tính mâu thuẫn n»m trong tất cả mọi sự
vật. Nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hóa và phát triển của sự vật.
Phàm cái gì hoạt động tích cực, hưng phấn, hướng lên… đều thuộc dương. Tất cả những gì trầm tĩnh,
ức chế, mờ tối, đi xuống… đều thuộc âm. Âm dương bao hàm ý nghĩa đối lập, nhưng còn bao hàm ý
nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra; hỗ trợ, chế ước lẫn nhau mà tồn tại. Do đó, không thể chỉ có âm, hoặc
chỉ có dương. Trong hình vẽ người xưa về hình tượng âm và dương, người ta vẽ hai phần bằng nhau
đen và trắng và ước gọi với nhau phần trắng là dương, còn phần đen là âm. Nhưng trong phần trắng lại
có một điểm đen và trong phần đen có một điểm trắng để tượng trưng trong dương có mầm mống của
âm; trong âm có mầm mống của dương. Người ta còn nói: “Trong âm có âm dương và trong dương cũng
có âm dương; âm đến cực độ sinh ra dương, dương đến cực độ sinh ra âm, tức là hàn đến cực độ sinh
ra nhiệt, nhiệt đến cực độ sinh ra hàn”. Những lời lẽ có vẻ huyền bí khó hiểu ấy lại trở thành rất chính
xác, dễ hiểu khi ta nhìn cục nam châm với hai cực Nam và Bắc. Nếu ta bẻ đôi cục nam châm ấy ra thì
lập tức ở phần cực Nam lại xuất hiện một đầu Nam và một đầu bắc; và ở cực hoàn toàn Bắc lại xuất hiện
một cực Nam và một cực Bắc. Nghĩa là Nam nằm sẵn trong Bắc và Bắc cũng đã nằm sẵn trong Nam;
trong Nam có Nam, Bắc và trong Bắc cũng có cả Bắc, Nam.
Thuyết “Ngũ hành” với luật sinh khắc, chế hóa cũng chỉ là một cách diễn đạt những đặc tính và sự liên
quan với nhau, đối lập và nương tựa thống nhất với nhau của các sự vật. Ví dụ như người xưa tượng
trưng thận (bao gồm cả tuyến thượng thận) thuộc chất “nước” (thủy); gan và mật thuộc chất “gỗ”(mộc);
tim (bao gồm cả bao tim) thuộc chất “lửa” (hỏa); dạ dày thuộc chất “đất” (thổ)… thực ra là người xưa đã
diễn đạt một số tính chất và sự liên quan chặt chẽ giữa các cơ quan đó với nhau. Và khi chữa bệnh một
cơ quan nào phải luôn nhớ sự liên quan đó.
Ví dụ để diễn đạt sự liên quan giữa thận, gan và tim, thuyết “Ngũ hành” nói rằng thận thuộc thủy, gan
thuộc mộc và tim thuộc hỏa, trong đó “thủy” (thận) sinh ra “mộc”; “mộc” (gan) lại sinh ra “hỏa” (tim). Do
đó, muốn chữa bệnh ở tim có khi người ta dùng vị thuốc tác động trực tiếp lên tim, nhưng có khi người ta
lại dùng những vị thuốc tác động vào gan; hoặc hơn nữa có khi vào thận. Vì như vậy là tác động lên
nguồn gốc bệnh nằm ở cơ quan trực tiếp hay xa hơn nữa đã sinh ra nó, vì tim là “con” của gan và cháu
của “thận”.
Chúng tôi có thể dẫn ra nhiều thí dụ để giới thiệu cách ông cha ta đã vận dụng thuyết “Âm dương ngũ
hành” trong việc dùng thuốc chữa bệnh. Nhưng đó không phải là mục đích của bài khảo luận này.
Chúng tôi chỉ muốn nhắc lại rằng, trong khi chưa có khoa học hiện đại, ông cha ta đã nhờ những học

thuyết này mà tìm thuốc chữa bệnh có kết quả. Như Hải Thượng Lãn Ông, một thầy thuốc Việt Nam nổi
tiếng ở vào thế kỷ XVIII, trước khi vào nghề y đã học được thuật “âm dương”. Cho nên khi tình cờ đọc
sách thuốc đã thâu nhận môn học này một cách nhanh chóng và đã vận dụng một cách sáng tạo học
thuyết này trong chữa bệnh mà trở nên bất tử. Ai đã đọc sách của Hải Thượng đều thấy rõ trong bất kỳ
trường hợp chẩn đoán nào Hải Thượng cũng tìm cho ra bệnh thuốc chứng “dương” hay chứng “âm” để
rồi dùng những vị thuốc hay bài thuốc thuộc “âm” hay thuộc “dương” (như các bài lục vị, bát vị để điều
hòa cơ thể trở về cái thế cân bằng của “âm dương”).
Có người hỏi học thuyết “Âm dương” có đặt ra cách đây hàng nghìn năm, một nguyên lý y học của ông
cha ta hiện nay còn giúp gì cho ta trong việc nghiên cứu y dược?
Để trả lời, chúng tôi muốn kể lại kết quả của một công trình nghiên cứu của Ohsawa, một nhà khoa học
Nhật Bản đã rút ra từ học thuyết “Âm dương” một phương pháp nghiên cứu vận dụng vào môn học
“Khoa học về trường sinh” (Macrobiotika). Ông đã đem đến cho học thuyết “Âm dương” một nội dung
hiện đại bằng cách đem so sánh thành phần hóa học của thức ăn, chia thức ăn ra hai loại thức ăn acid
và thức ăn kiềm tùy theo lượng Natri hay Kali chứa trong đó. Nếu tỷ lệ giữa Kali và Natri lớn hơn 5 thì đó
là thức ăn acid hay là “âm”; nếu nhỏ hơn 5 thì đó là thức ăn kiềm hay là “dương”, một số thức ăn còn
được chia thêm thành “rất âm”, “rất dương”, “âm hơn”, “dương hơn”. Mệnh đề chính của thuyết
“Macrobiotika” là sự mất cân bằng về âm dương trong thức ăn sẽ dẫn đến trạng thái ốm đau. Nếu như
một người nào đó ăn chủ yếu những thức ăn âm (acid) thì cơ thể dễ mắc những chứng bệnh cảm cúm,
chức năng của cơ thể bị phá hoại, một số bệnh mạn tính xuất hiện… Để nhằm chữa nhanh chóng bệnh
này, chỉ cần lập lại sự cân bằng đã bị phá hoại do sự ăn uống không đúng bằng cách cho ăn cơm và
thức ăn thuộc nhóm dương như lúa mạch, gà tây…
Chúng tôi, những người trí thức của Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi đang đi theo một khía cạnh
khác của học thuyết “Âm dương ngũ hành”. Chúng tôi tìm những cặp mâu thuẫn “âm dương” đang chứa
đựng ngay trong bản thân của mỗi sự vật, của mỗi vị thuốc. Đối chiếu với một số vị thuốc đã được
nghiên cứu về mặt hóa học, chúng tôi thấy trong mỗi vị đều chứa hai yếu tố đối lập về tác dụng. Như
trong vị thuốc “Đại hoàng”. Sự phân tích hóa học trong nhiều năm đã cho biết trong vị “Đại hoàng” có
chứa những hợp chất Anthraglucosid có tác dụng tẩy, nhuận tràng; nhưng đồng thời cũng lại chứa nhiều
chất tanin có tác dụng làm săn da, gây táo bón. Khoai lang cũng vậy.
Trong mía (mía cũng là một vị thuốc gọi là Cam giá), người ta cũng phân tích có chứa chất đường;
nhưng đồng thời cũng lại chứa rất nhiều men có tác dụng phân hủy chất đường. Do đó khi ta ăn mía thì

đồng thời ta ăn chất đường nhưng ta lại ăn luôn chất men để tiêu hóa được chất đường. Nhưng nếu ta
phơi khô mía thì trong quá trình phơi khô, chất men này lại phá hủy hết chất đường và mía phơi khô
không còn tác dụng gì nữa.
Vị thuốc “Ích mẫu” là một vị thuốc dùng để chữa bệnh cho phụ nữ; khi nghiên cứu người ta cũng phát
hiện ngay trong vị “Ích mẫu” hai chất có tác dụng trái ngược nhau; một số chất có tác dụng gây ức chế tử
cung, một số chất lại có tác dụng gây kích thích tử cung. (Do đó lại có tác dụng trái ngược nhau là một vị
thuốc có tác dụng điều kinh, đồng thời cũng là một vị thuốc chữa băng huyết).
Đối với một số vị thuốc khác chúng tôi cũng thấy có cặp mâu thuẫn như vậy. Phải chăng đây là một quy
luật có tính chất phổ biến? Nếu là một quy luật phổ biến thì phải hiểu tác dụng của những vị thuốc đó đối
với cơ thể ra sao? Vì nếu chúng ta nghiên cứu thấy tính âm hay dương ở những vị thuốc khác nhau thì
tùy theo bệnh thuộc âm nhiều hay dương nhiều, ta sẽ lựa chọn những vị thuốc có tính chất ngược lại cho
uống để lập lại cân bằng.
Nhưng ở cặp mâu thuẫn “âm dương” ấy lại chứa đựng ngay trong một vị thuốc. Vì thế, theo ý tôi, cần
phải phân tích để so sánh tỷ lệ giữa hai phần “âm”, “dương” ấy với nhau. Sau đó nghiên cứu tìm xem
trong trường hợp nào thì cơ thể của người bệnh nghiêng về việc lựa chọn phần “âm” hay phần “dương”
của vị thuốc. Cơ thể sẽ lựa chọn sử dụng một trong hai phần đó như thế nào? Theo chúng tôi đó là
những hướng mới mà học thuyết “Âm dương ngũ hành” đã đề xuất. Chúng ta không thể chỉ lý luận mà
phải thực nghiệm. Rồi từ những kết quả thực nghiệm ấy đưa vào điều trị. Có điều khuyến khích là những
thí nghiệm ấy sẽ có căn cứ lâu đời từ những kết quả điều trị thực trên thân thể con người qua hàng nghìn
năm kinh nghiệm.
Việc nghiên cứu ấy không thể một sớm một chiều sẽ thu được kết quả ngay. Nhưng học thuyết “Âm
dương”, quy luật vạn vật chứa mâu thuẫn nhắc nhở chúng tôi không theo con đường mà nhiều đồng
nghiệp phương Tây của chúng tôi vẫn làm khi nặng về phương pháp chiết xuất từng chất riêng lẻ từ cây
cỏ (như chiết riêng những chất Morphin, Cafein chẳng hạn). Những đồng nghiệp này thường tinh chế và
chỉ dùng những chất hoàn toàn tinh khiết không lẫn những chất khác, dù những chất đó có sẵn trong cây
trong những trạng thái hỗn hợp tự nhiên.
Chúng tôi sẽ chỉ dừng lại ở mức độ thu gọn vị thuốc, làm sao cho vị thuốc trở nên tiện dùng, bảo quản
được lâu dài. Còn thì chúng tôi tôn trọng tối đa sự kết cấu tự nhiên của các vị thuốc, nghĩa là dùng toàn
bộ vị thuốc dưới dạng gọn nhất, công hiệu nhất, mà cũng thuận tiện nhất. Phải chăng vì đã dùng những
hóa chất tác dụng theo một chiều hướng nhất định nên càng ngày nhân dân các nước phương Tây có

khuynh hướng sợ dùng những thuốc hóa chất tổng hợp, và đã quay trở lại dùng những thuốc cây cỏ theo
kinh nghiệm lâu năm với toàn bộ tác dụng mâu thuẫn cần thiết mà trước đây người ta chưa biết, nhưng
nay lại cũng chưa thấy rõ hết nguyên nhân.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×