Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

HIỆU QUẢ mô HÌNH “cô đỡ THÔN bản NGƯỜI dân tộc THIỂU số” tại HUYỆN ĐỒNG văn hà GIANG TRONG 3 năm 2010 – 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.87 KB, 4 trang )


Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013






86
nhân, sinh bệnh học và biến chứng. Đặng Vạn Phước,
Bệnh học nội khoa (Tr. 43 - 61). TP HCM: Nhà xuất bản
Y học.
2. Drazner MH, Rame JE & Marino EK. Increased
left ventricular mass is a risk factor for the development
of a depressed left ventricular ejection fraction within five
years: the Cardiovascular Health Study. J Am Coll
Cardiol 2004, 43, 2207.
3. Đặng Vạn Phước. (1999). Phì đại thất trái và các
nguy cơ tim mạch. Y học Việt Nam, 242(25), tr. 16 – 17.
4. Koren MJ, Devereux R & Casale P.N. Relation of
left ventricular mass and geometry to morbidity and
mortality. Ann Inter Med 1991, 114, 345-352.
5. Lê Thị Thiên Hương. (2003). Đánh giá khối cơ và
chức năng tâm trương thất trái trên bệnh nhân THA
bằng siêu âm. Luận án tiến sĩ đại học y dược TP HCM.
6. Lê Tuấn An. (2002). Khảo sát phì đại cơ tim trên
bệnh nhân THA có tuổi. Luận văn thạc sĩ y học, Đại Học
Y Dược TP HCM.
7. Lorell BH & Carabello BA. Left ventricular
hypertrophy: pathogenesis, detection, and prognosis. In
Circulation 2000 (pp. 470 – 479).


8. Nguyễn Viết Hậu. (2007). Đánh giá sự phì đại cơ
tim và rối loạn chức năng thất trái trên bệnh nhân THA
có tuổi bằng siêu âm. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú,
Đại Học Y dược TP HCM.
9. Trần Nguyễn Ái Thanh. (2010). Mối tương quan
giữa vòng eo, độ dày mỡ bụng qua siêu âm và rối loạn
lipid máu ở người THA. Luận văn thạc sĩ y khoa, đại học
Y Dược TP HCM.

HIỆU QUẢ MÔ HÌNH “CÔ ĐỠ THÔN BẢN NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ”
TẠI HUYỆN ĐỒNG VĂN- HÀ GIANG TRONG 3 NĂM 2010 – 2012

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG – Sở Y tế Hà Giang
NGUYỄN QUANG MẠNH – ĐHYD Thái Nguyên

TÓM TẮT
Hà Giang là tỉnh biên giới phía đông bắc, với đặc
điểm kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên cùng một
lúc không thể triển khai đồng thời tất cả các nội dung
trong hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh sản
(CSSKSS). Do vậy ngành Y tế Hà Giang đã ưu tiên
thực hiện các nội dung mấu chốt như: Công tác làm
mẹ an toàn (LMAT); Kế hoạc hóa gia đình (KHHGĐ);
phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản lồng ghép
trong các gói dịch vụ thuộc kế hoạch thực hiện
chương trình DS-KHHGĐ của tỉnh. Để tăng cường
nguồn nhân lực cho các vùng dân tộc thiểu số, tăng
bình đẳng giữa các vùng miền và giảm hạn chế trong
tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản việc đào tạo đội ngũ Cô
đỡ thôn bản (CĐTB) người dân tộc thiểu số được coi

là một trong các giải pháp phù hợp để giải quyết vấn
đề đáp ứng với các yếu tố văn hóa địa phương trong
chương trình LMAT trên điạ bàn tỉnh.
Từ khóa: Hà Giang, Cô đỡ thôn bản.
SUMMARY
EFFECTIVENESS OF “ETHNIC MINORITY VILLAGE
MIDWIVES” MODEL IN DONG VAN DISTRICT, HA
GIANG PROVINCE IN 3 YEARS (2010-2012)
Ha Giang is a province in north-eastern border,
with difficult economic characteristics, therefore it
cannot implement simultaneously all contents of
reproductive healthcare activities at the same time.
Thus, Ha Giang health sector priorities for key
contents such as: safe motherhood work, family
planning, prevention of reproductive infections in
integrated service packages of implementation plan
of population - family planning program in the
province. To strengthen human resources for ethnic
minority regions, increase equality between regions
and reduce restrictions in approaching to basic health
services, training ethnic minority village midwives is
considered to be one of the suitable solutions to solve
the problem, to meet the local cultural factors in safe
motherhood program in the province.
Keywords: Ha Giang, ethnic minority village
midwives.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảm tử vong mẹ và tử vong sơ sinh là những
mục tiêu quan trọng nhất của Chiến lược quốc gia về
chăm sóc sức khỏe sinh sản. Hàng năm trên thế giới

ước tính có khoảng 350.000-500.000 ca chết mẹ; 8
triệu ca tai biến sản khoa, trong đó 99% là ở các
nước đang phát triển [1]. Ở Việt Nam, thực hiện
Chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản là hướng tới
sự công bằng, hiệu quả và phát triển, trong đó ưu
tiên đầu tư vào khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa
và kinh tế khó khăn, nhằm đảm bảo cho người dân,
đặc biệt là người dân tộc thiểu số ở đó phải được
tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản
[2]. Huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang là huyện miền núi
phía Bắc với đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội còn
kém phát triển, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản
còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ chị em phụ nữ sinh đẻ
tại nhà còn cao, tỷ lệ phụ nữ khám phụ khoa thấp,
đặc biệt là ở các xã vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống, việc đào tạo đội ngũ Cô đỡ thôn
bản (CĐTB) người địa phương là rất quan trọng. Để
đánh giá vai trò và hiệu quả hoạt động của các “Cô
đỡ thôn bản người dân tộc” tại tỉnh Hà Giang trong
công tác chăm sóc sức khỏe Bà mẹ trẻ em, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: Hiệu quả mô hình “Cô
đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số” tại huyện Đồng
Văn tỉnh Hà Giang trong 3 năm (2010-2012)”. Với
mục tiêu: Đánh giá hiệu quả hoạt động của “Cô đỡ
thôn bản” trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trẻ em ở huyện Đồng Văn sau 3 năm can thiệp
(2010-2012);
Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013








87
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- Phụ nữ có con < 1 tuổi.
- Lãnh đạo TTCSSKSS.
- Phó chủ tịch huyện, xã.
- Lãnh đạo TTYT huyện, Trưởng khoa CSSKSS,
Trưởng trạm y tế.
- Trưởng bản.
- Hội trưởng hội phụ nữ thôn.
- Cộng tác viên dân số.
- CĐTB.
2. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả được áp dụng để đánh
giá kết quả hoạt động của CĐTB trong hoạt động
chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em tại các thời điểm từ
năm 2010 đến năm 2012.
3. Địa điểm và thời gian đánh giá
- Thời gian: Từ tháng 1/2013 đến tháng 12/2013.
- Địa điểm: Tại huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Chăm sóc phụ nữ mang thai ở bản có và
không có CĐTB


Thực hành
Bản có
CĐTB
(n=116)

B
ản không có
CĐTB
(n=112)

2
p
n % n %
Khám thai
đầy đủ
65,15

<0,001
Có 60 51,72 4 3,57


Không 56 48,28 108 96,43
Tiêm phòng
uốn ván
77,1 <0,001
Có 86 74,14 18 16,07


Không 30 25,86 94 83,93
Uống viên

sắt
80,1 <0,001
Đầy đủ 85 73,28 16 14,29


Không đầy
đủ
31 26,72 96 85,71

Nhận xét: Tỷ lệ bà mẹ được khám thai đầy đủ,
tiêm phòng uốn ván và uống viên sắt đầy đủ ở bản có
CĐTB cao hơn so với bản không có CĐTB. Sự khác
nhau này có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Hộp 9. Chăm sóc sức khỏe phụ nữ mang thai
Trong cuộc thảo luận nhóm phụ nữ mang thai, có
nhiều ý kiến cho rằng: Phụ nữ có thai cần phải được
tiêm phòng uốn ván và uống viên sắt để đề phòng
thiếu máu và khi sinh đẻ cần đẻ ở cơ sở y tế để an
toàn cho cả mẹ và con
Ý kiến của chị Thào Thị Mua thôn Tắc Tằng xã
Ma Lé “Mình đã tiêm được 2 mũi tiêm phòng uốn ván
rồi, khi đi khám thai tại trạm y tế xã mình cũng đã
được cán bộ cấp cho viên thuốc mầu đỏ nhỏ bằng
hạt đỗ đấy, bác sỹ trạm y tế nói đây là viên thuốc
uống đề phòng chảy máu khi sinh con, mình về ngày
nào cũng uống 1 viên thuốc đấy. Mình hỏi mấy chị có
thai ở bản mình thấy chỗ nào cũng được cán bộ y tế
hoặc CĐTB nó cho viên thuốc giống của mình để
uống.”
Bảng 2. Chăm sóc phụ nữ khi đẻ ở bản có và

không có CĐTB

Thực
hành
Bản có CĐTB
(n=116)
Bản không
có CĐTB
(n=112)
2 p
n % n %
Nơi đ


2,093

0,148

Tại nhà 38 32,8 27

24,1


Cơ sở y
tế
78 67,2 85

75,9
Ngư
ời đỡ đẻ


66,388

<0,001

Nhân
viên y tế
58 50,0 67

59.82
Cô đỡ
thôn bản

43 37,1 6 5.36
Bà m


5

4,
3

24

21.43



Chồng 9 7,8 13


11.61



Khác 1 0,9 2 1.79

Nhận xét: Tỷ lệ bà mẹ đẻ tại cơ sở y tế ở bản có
CĐTB thấp hơn so với bản không có CĐTB (67,2%
và 75,9% theo thứ tự), tuy nhiên không có có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Khoảng một nửa phụ nữ đẻ ở bản có và không có
CĐTB đều được cán bộ y tế đỡ; số còn lại, ở bản
không có CĐTB chủ yếu là bà mụ (21,43%), bản có
CĐTB chủ yếu do CĐTB đỡ (37,1%); tỷ lệ do chồng
đỡ ở 2 bản chiếm tỷ lệ đáng kể (7,8% và 11,61%).
Có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về người đỡ đẻ
tại bản có và không có CĐTB(p<0,001).
Bảng 3. Thực hành của bà mẹ có con < 1 tuổi về
chăm sóc trẻ ở bản có và không có CĐTB

Thực hành
Bản có
CĐTB
(n=116)
Bản không
CĐTB
(n=112)
2
p
n % n %

Thời gian cho bú sữa mẹ 88,2 <0,001
Đúng

92

79,31

19

16,96



Sai 24 20,69 93 83,04


Thời gian cho ăn sam 85,8 <0,001
Đúng 91 78,45 19 16,96



Sai 25 21,55 93 83,04


Xử trí trẻ sốt

2,67 >0,05
Đúng 16 13,80 8 7,10



Sai 100

86,20 104 92,90


Xử trí trẻ tiêu chảy 18,93

<0,001
Đúng 29 25,00 5 4,50


Sai 87 75,00 107 95,50



Nhận xét: Tỷ lệ bà mẹ có con < 1 tuổi ở bản có
CĐTB thực hiện đúng thời gian cho bú sữa mẹ, cho
ăn sam, xử trí trẻ sốt cao và xử trí tiêu chảy cấp cao
hơn so với bản không có CĐTB. Sự khác nhau này
có ý nghĩa thống kê (p<0,001); ngoại trừ sử trí trẻ sốt
tại nhà (p>0,05).
Bảng 4. So sánh điểm kiến thức, thái độ và thực
hành của bà mẹ có con < 1 tuổi ở bản có và không có
CĐTB
Bi
ến số

n

Trung

L

ch
t
-
test

p


Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013






88
bình chuẩn
Kiến thức
Bản có CĐTB 116 19,99 6,87
20,347
<
0,001

Bản không có
CĐTB
112 4,38 4,40
Thái độ
Bản có CĐTB 116 59,66 7,27

19,22
<
0,001

Bản không có
CĐTB
112 44,23 4,48
Th
ực h
ành


Bản có CĐTB 116 7,77 2,23
17,93
<
0,001

Bản không có
CĐTB
112 2,58 2,12
Nhận xét: Điểm trung bình chung về kiến thức,
thái độ và thực hành của các bà mẹ có con < 1 tuổi ở
bản có CĐTB cao hơn sơ với bản không có CĐTB.
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với (p<0,001)
BÀN LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu Đánh giá hiệu quả triển
khai mô hình “Cô đỡ thôn người dân tộc thiểu số” tại
huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang trong 3 năm (2010-
2012)”, chúng tôi có một số bàn luận như sau:
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Trong tổng số 228 đối tượng nghiên cứu cho thấy
phần lớn các đối tượng là những bà mẹ có con < 1 tuổi.
Độ tuổi của đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở
nhóm tuổi từ 18 – 24 (49,1%, 50,9%), Kết quả này
phản ánh lên người dân tộc thiểu số lấy chồng và
sinh con ở độ tuổi còn rất trẻ trong khi đó nếu ở phụ
nữ người Kinh lứa tuổi này có thể còn đang tiếp tục
đi học.
Hầu hết đối tượng nghiên cứu là người H’Mông
(97,4%, 94,6%), nghề nghiệp phần lớn là nông dân
(99,1%, 100%).
Khoảng cách từ nhà đến trạm y tế đối với bản có
CĐTB thường là 5 - 10 km, với bản không có CĐTB
thường là >10 km. Qua nghiên cứu cho thấy việc lựa
chọn đối tượng tham gia đào tạo CĐTB của địa
phương còn chưa sát với yêu cầu đề ra. Tỷ lệ hộ
nghèo gặp nhiều hơn ở bản có CĐTB (79,3%), bản
không có CĐTB tỷ lệ này thấp hơn (64,3%). Có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về khoảng cách từ nhà
đến Trạm Y tế và tình trạng hộ nghèo giữa 2 nhóm
nghiên cứu với (p<0,001).(Bảng 1).
2. Hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe
của CĐTB
2.1. Tư vấn về chăm sóc trước trong và sau
khi sinh
Để phụ nữ trong thôn bản nắm rõ được những
vấn đề cần biết khi mang thai CĐTB của các xã đã
phải đi đến từng hộ gia đình để làm công tác truyền
thông tư vấn. Số phụ nữ có thai được tư vấn đi khám
thai đã tăng rất cao qua các năm từ 82,9% năm 2010

lên 99,7% năm 2012 (Bảng 2), Tỷ lệ phụ nữ có thai
được tư vấn ăn uống đủ chất là 81,43% (bảng 5). Kết
quả này cho thấy tỷ lệ phụ nữ có thai ở các thôn có
CĐTB cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Lương
Thị Thu Hà (2006) ở Tân Long - Thái Nguyên
(79,2%), cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Thị Giang và cộng sự (2011) ở huyện Xí
Mần – Hà Giang (49,2%) và kết quả nghiên cứu của
Hà Anh Thạch (2006) tại Bình Định (81,83%). Điều
đó chứng tỏ phụ nữ đã hiểu được lợi ích của việc
khám thai và tầm quan trọng của việc khám thai, Lợi
ích của việc ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng khi
mang thai để con em mình sau này lớn lên không còn
phải khổ như mình bây giờ nữa. Đồng thời cũng cho
thấy sự nỗ lực của các CĐTN người dân tộc trên địa
bàn trong hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe
cho phu nữ có thai.
Ngoài ra tỷ lệ bà mẹ được tư vấn KHHGĐ tương
đối cao (77,77%) chỉ số này cao hơn hẳn so với các
hoạt động của CĐTB tỉnh Kon Tum năm 2010 báo cáo
hoạt động của CĐTB Sở Y tế tỉnh Kontum. Bên cạnh
đó, CĐTB còn thuyết phục, tư vấn thanh niên về vấn
đề tảo hôn về KHHGĐ thông qua các cuộc họp thôn
và khi đi làm nương rẫy cùng với mọi người, tư vấn đề
chăm sóc sau sinh (tắm cho bé, cách chuẩn bị quần
áo cho bé, cho con bú, chế độ dinh dưỡng…Hành vi
chăm sóc sau sinh cũng đã có thay đổi, người dân đã
không đốt lửa, hun khói sau sinh nữa.
2.2. Kết quả liên quan tới công tác chăm sóc
sức khỏe sinh sản của CĐTB

Nhiều phụ nữ mang thai trong thôn đã đi khám thai
3-4 lần trong quá trình mang thai cho nên, tỷ lệ thai phụ
được khám thai ít nhất 3 lần trong 3 thời kỳ thai nghén ở
các thôn có CĐTB hoạt động là (81,82%) cao hơn so
với kết quả nghiên cứu của Lương Thị Thu Hà (2006) ở
xã Tân Long (81,56%). Tỷ lệ bà mẹ sau đẻ được CĐTB
đến chăm sóc rất cao có năm lên đến 96,15%. Qua
những số liệu ở trên cho chúng ta thấy công tác
CSSKSS ở các thôn có CĐTB hoạt động thực hiện
tương đối tốt. Số lượng bà mẹ được cán bộ y tế đỡ đẻ
tại trạm là 79,12%. tỷ lệ đẻ tại nhà cũng giảm đi rõ rệt,
Bà mẹ được thuyết phục uống viên sắt, vitamin và tiêm
uốn ván cho bà mẹ khi mang thai tăng cao. Các cô đã
phải sẵn sàng thực hiện các công việc được phân công,
không kể nắng mưa, đường xá xa xôi. Đó là một số
biến đổi rõ nét trong thay đổi hành vi của người dân về
sử dụng dịch vụ CSSKSS tại các cơ sở y tế.
Sự đóng góp của CĐTB trong việc phát hiện được
các trường hợp nguy cơ (tai biến sản khoa) và chuyển
tuyến kịp thời đã góp phần giảm tử vong mẹ và sơ
sinh tại các địa bàn mình quản lý. Điều này được các
cán bộ y tế đã khẳng định rõ qua đánh giá tại sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt
động của CĐTB
Khó khăn:
Để đạt được những hiệu quả đã nêu ở trên, trong
quá trình triển khai mô hình đã gặp phải không ít
những khó khăn từ việc lựa chọn CĐTB tham gia đào
tạo,việc triển khai đòa tạo theo phương thức cầm tay

chỉ việc, việc tuyển dụng CĐTB cùng như sự chấp
nhận của cộng đồng
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn như vậy nhưng
cho đến thời điểm hiện tại. Người dân tại các thôn
bản đã dần chấp nhận và tin tưởng vào đội ngũ
CĐTB. Trong cuộc thảo luận nhóm các bà mẹ có con
Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013







89
< 1 tuổi ý kiến của chi Vừ Thị Mỷ ở xã Phố Cáo
huyện Đồng Văn nói với chúng tôi.
Nhìn thằng cu mới đầy 9 tháng tuổi bụ bẫm, kháu
khỉnh ngủ ngoan, tôi thấy mình rất vui và hạnh phúc.
18 tuổi lấy chồng, cái tuổi còn quá trẻ để biết về kiến
thức mang thai và làm mẹ. Hôm sinh con ở nhà, chị
Mỷ bị tai biến sản khoa, song nhờ có CĐTB phát hiện
và cấp cứu chuyển tuyến kịp thời, nên đã giữ được
mạng sống. Chị Vừ Thị Mỷ kể lại: “Hôm đó, mình
tưởng mình chết rồi, nhưng được CĐTB nó cho uống
thuốc rồi cho đi viện ngay nên mới sống được để mà
chăm con như thế này. Được tuyên truyền, giờ ai phụ
nữ trong thôn chúng tôi ai cũng bảo nhau khi mang
thai phải khám định kỳ và ra trạm y tế xã để sinh con
chứ không sinh con ở nhà như trước nữa”.

CĐTB đã được người dân chấp nhận vì họ thực
sự là cầu nối với đồng bào. Trạm y tế xã luôn luôn
không đủ người và nguồn lực tiếp cận với cộng đồng
do rất nhiều các nguyên nhân như: không thông hiểu
ngôn ngữ dân tộc phong tục tập quán và đường đi lại
xa, khó khăn ngoài ra họ còn phải đảm nhận rất
nhiều các chương trình mục tiêu y tế khác nưa.
4. Một số Giải pháp để duy trì tính bền vững
của mô hình
Để duy trì tính bền vững của mô hình nhóm
nghiên cứu chúng tôi đưa ra một số các giải pháp cụ
thể như sau:
Các cấp các ngành cần quan tâm hỗ trợ phương
tiện đi lại và trợ cấp hàng tháng cho CĐTB.
Tập huấn thường xuyên nâng cao trình độ cho
CĐTB hàng năm để họ cập nhật kiến thức Y học giúp
các CĐTB tự tin và thuận lợi hơn trong công việc,
giúp cộng đồng tin tưởng và tăng sử dụng dịch vụ do
CĐTB cung cấp.
Ngày 08 tháng 3 năm 2013, Bộ Y tế đã ban
hành Thông tư số 07/2013/TT-BYT quy định tiêu
chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn,
bản. Do vậy giải pháp về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã
hội cho CĐTB nếu giải quyết được có thể giúp cho
các CĐTB giảm khó khăn trong công việc và giúp họ
yên tâm với công việc hơn.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu “Đánh giá hiệu quả triển khai mô hình
“Cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số” tại huyện
Đồng Văn tỉnh Hà Giang trong 3 năm (2010-2012)”

chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Người dân ở các thôn bản nơi vùng cao nguyên
đá Đồng Văn tỉnh Hà Giang cũng có nhu cầu được
chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và KHHGĐ rất cao.
Tuy nhiên hoạt động của hệ thống cung cấp dịch vụ
bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em ở nơi đây
vẫn chưa được hoàn chỉnh do vậy đã bộc lộ những
hạn chế ngày càng rõ rệt. Đội ngũ cán bộ y tế thiếu
nhiều, đặc biệt là cán bộ biết tiếng địa phương, am
hiểu phong tục tập quán của người dân tộc. Trong khi
đó mặt bằng dân trí tại các xã vùng sâu vùng xa như
ở đây lại thấp hơn so với các địa phương khác. Việc
điều động và tuyển dụng cán bộ y tế có trình độ tay
nghề cao trong lĩnh vực CSSKSS đến các thôn bản
này hoạt động là một điều không dễ dàng, trong khi
khả năng thích ứng với điều kiện kinh tế, chính sách
đãi ngộ với bác sỹ có trình độ chuyên môn tay nghề
cao tình nguyện đến những nơi này công tác lại chưa
được nhà nước quan tâm, mặt khác những cán bộ là
người dân tộc kinh lại rất khó tiếp cận được với phong
tục tập quán cũng như thói quyen sinh hoạt của đồng
bào. Điều này, không đáp ứng được nhu cầu của
người dân về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các
dân tộc tại địa phương. Chính vì nhiều lý do như vậy
cho nên việc đào tạo đội ngũ CĐTB đã đem lại những
thành công và lợi ích đáng kể. CĐTB đã có những
đóng góp tích cực đối với cộng đồng. Họ rất nhiệt tình
trong công việc, đã tích cực tư vấn cho người dân thay
đổi hành vi LMAT, chủ động đi khám thai và đẻ tại cơ
sở y tế. Do vậy tỷ lệ tử vong mẹ, sơ sinh và tai biến

sản khoa đã giảm đi đáng kể ở các địa bàn có CĐTB.
Mô hình CĐTB ngày càng được cộng đồng chấp nhận
vì sự phù hợp với phong tục tập quán và văn hóa của
địa phương. Từ đó nhu cầu CĐTB đã được khẳng
định rõ ràng ở các khu vực khó khăn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế, (1996). Chỉ thị 37/CP ngày 20/06/1996
của chính phủ phê duyệt mục tiêu chăm sóc sức khỏe
nhân dân đến năm 2010. Hà Nội.
2. Bộ Y tế. Báo cáo rà soát về cô đỡ thôn bản tại Việt
Nam. 2009.
3. Bộ Y Tế. Thực trạng Làm Mẹ An Toàn ở Việt
Nam, 2003.
4. Đại học Y tế công cộng. Đánh giá khả năng cung
cấp dịch vụ làm mẹ an toàn và nhu cầu khách hàng ở
tuyến cơ sở tại một số huyện thuộc 3 tỉnh: Hà Tây,
Quảng trị và Kiên Giang: Vụ Sức khỏe sinh sản, Bộ y tế,
2004.
5. Hà Anh Thạch (2006), Nghiên cứu thực trạng công
tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại các trạm y tế xã tỉnh
Bình Định năm 2005.
6. Lê Thị Nguyệt, Đàm Khải Hoàn, (2001). Thực
trạng công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người
Nùng, Dao ở 2 xã vùng cao huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái
Nguyên. Nội san Khoa học - Công nghệ Y Dược -
Trường đại học YDTN - Hội nghị khoa học tuổi trẻ
3/2001: Tr. 199 - 2007.
7. Lương Thị Thu Hà (2006), Thực trạng chương
trình làm mẹ an toàn ở xã Tân Long Huyện Đồng Hỷ
Tỉnh Thái Nguyên, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ đa

khoa,Thái Nguyên, Tr. 18, 24.
8. Trịnh Hữu Vách. Thực trạng cung cấp và sử dụng
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản 2003 tại 12 tỉnh:
UNFPA, 2003.
9. Sở Y tế Hà Giang, (2010). Báo cáo thực trạng về
công tác làm mẹ an toàn tại Hà Giang năm 2010. Hà
Giang.
10. Trần Thị Trung Chiến - Bộ trưởng - Chủ nhiệm
UBDS&KHHGD, (2000). Chương trình dân số - Kế
hoạch hóa gia đình ở các vùng dân tộc thiểu số. NXB
Quân đội - Hà Nội.

×