Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

KẾT QUẢ bước đầu điều TRỊ rối LOẠN PHỔ tự kỷ TRẺ EM tại TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.81 KB, 4 trang )


Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013






24
của trẻ em ở một vùng giàu có tại Ấn Độ cho rằng hầu
hết các bà mẹ ở đây có 12 năm học và khoảng một
nửa trong số đó có 17 năm học, tỷ lệ SDD chỉ 6% [11].
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về TTDD thể nhẹ cân và thấp còi của
trẻ giữa những bà mẹ có học vấn từ cấp 3 trở lên hoặc
dưới cấp 3. Ở những trẻ là con của các bà mẹ có học
vấn dưới cấp 3 tỷ lệ SDD thể nhẹ cân và thấp còi gấp
1,74 lần (p<0,05; CI 1,11-2,74) và 1,46 (p<0,05; CI
1,0-2,13).
KẾT LUẬN
Tỷ lệ SDD xã Phúc Thịnh và Xuân Quang, huyện
Chiêm Hóa, Tuyên Quang ở thể nhẹ cân 13,9%; thấp
còi 23,3%; gày còm 8,0%.
Bà mẹ được uống viên sắt khi mang thai, cân
nặng sơ sinh của trẻ, số con trong gia đình, trình độ
học vấn của bà mẹ, tình hình kinh tế hộ gia đình là
những yếu tố ảnh hưởng đến TTDD của trẻ (p<0,05).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. VDD – UNICEF (2011). Tình hình dinh dưỡng
Việt Nam năm 2009 - 2010: NXBYH, tr.9.
2. Struble MB và Aomari LL (2003), "Position of the


American Dietetic Association: Addressing world hunger,
malnutrition, and food insecurity", J Am Diet Assoc.
103(8), pp. 1046-57.
3. Nguyễn Thị Thanh Thuấn (2010), “Tình trạng dinh
dưỡng, tập quán nuôi dưỡng và một số yếu tố ảnh
hưởng ở trẻ dưới 5 tuổi dân tộc Tày tại 2 xã thuộc
huyện Chiêm Hóa-Tuyên Quang”, Tạp chí Nghiên cứu y
học. 70(5), tr. 12-16.
4. Lê Thị Hương, Lê Thị Hồng Phượng, Nguyễn
Thùy Linh và cs (2012), “Dinh dưỡng và khẩu phần thực
tế của trẻ 24-59 tháng tuổi tại xã Xuân Quang – Chiêm
Hóa – Tuyên Quang năm 2011’’, Tạp chí Nghiên cứu y
học. 79(2), tr. 194-200.
5. Pham Văn Phú, Jacques Berger và Bertrand
Salvignol (2004), "Thay đổi cân nặng và chiều dài của
trẻ em dưới 12 tháng tuổi được ăn bổ sung bằng bột
sản xuất từ nguyên liệu địa phương có tăng vi chất ở
một số vùng nông thôn Việt Nam", Tạp chí Y học thực
hành. 496, tr. 95-100.
6. Lê Thị Hương (2009), "Kiến thức thực hành dinh
dưỡng của các bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ
tại một huyện miền núi Thanh Hóa", Tạp chí Y học thực
hành. 4(2), tr. 40-47.
7. Lê Thị Hương (2009), "Kiến thức, thực hành dinh
dưỡng của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ tại
huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái", Tạp chí Y học thực hành
643, tr. 21-27.
8. Đinh Thanh Huề (2003), "Tình hình suy dinh
dưỡng trẻ dưới 5 tuổi xã Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng
Trị", Tạp chí Y học dự phòng. 4, tr. 72.

9. Nguyễn Công Khẩn, Lê Danh Tuyên (2005), "Tiến
triển của tình trạng dinh dưỡng trẻ em và bà mẹ", Hiệu
quả của trương trình can thiệp ở VIệt Nam giai đoạn
1999-2004, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội, tr. 15-37.
10. Chính phủ (2001), Chiến lược quốc gia về dinh
dưỡng giai đoạn 2001-2010 (đã được Chính phủ phê
duyệt tại quyết định số 21/2001/QĐ-TTg ngày
22/2/2001, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
11. Nitabhandari, et al. (2002), "Growth performance
of affuent Indian children is sililar to that in developed
countries", Bull of WHO. 7, pp. 189-195.


KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ TRẺ EM TẠI
TỈNH THÁI NGUYÊN


PHẠM TRUNG KIÊN, LÊ THỊ KIM DUNG - Trường ĐH Y Dược Thái Nguyên
ĐÀO VĂN DŨNG - Bệnh viện Chỉnh hỡnh và Phục hồi chức năng Thái Nguyên
NGUYỄN THỊ KIM NHUNG - Trường Giáo dục&Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thũi TN
PHAN THỊ YẾN - Khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh


TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu điều trị rối
loạn phổ tự kỷ (RLPTK) trẻ em tại tỉnh Thái Nguyên.
Đối tượng nghiên cứu: Trẻ bị RLPTK và các cơ sở
điều trị tự kỷ tại Thái Nguyên trong thời gian từ tháng
4.2013 đến hết tháng 10.2013. Phương pháp
nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp. Kết quả nghiên

cứu: Có 54 trẻ bị RLPTK đang điều trị tại 3 đơn vị
điều trị trẻ tự kỷ tại Thái Nguyên, 37 trẻ mắc thể điển
hình chiếm 68,5%. Tại 3 cơ sở có 13 nhân viên trực
tiếp điều trị tự kỷ, trong đó 8 cử nhân giáo dục đặc
biệt (61,6%), 3 kỹ thuật viên phục hồi chức năng
(23,1%) và 2 bác sĩ (15,3%). Tỉ lệ cha mẹ của trẻ
tham gia điều trị còn thấp. Phương pháp được sử
dụng nhiều nhất là PECS, trị liệu hành vi, hoạt động
trị liệu. Chỉ có dưới 30,0% cha mẹ phối hợp điều trị
cho trẻ tại nhà. Sau 6 tháng can thiệp, những thay đổi
về tương tác xã hội và ngôn ngữ không có ý nghĩa,
nhưng động tác định hình giảm có ý nghĩa so với
trước can thiệp. Kết luận: Chỉ có 13 nhân viên điều
trị RLPTK tại Thái Nguyên, chưa có chiến lược điều
trị thống nhất. Sau can thiệp, một số dấu hiệu hành vi
của trẻ thay đổi có ý nghĩa.
Từ khóa: Rối loạn phổ tự kỷ, trẻ em, Thái
Nguyên.
SUMMARY
The initial results of the treatment for children
with Autism Disorder Spectrum in Thainguyen
province
Objective: to assess initial results of the treatment
for children with autism spectrum disorders (ASD) in
Thainguyen province. Subjective: children with ASD;
Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013








25
health centers for ASD treatment in Thainguyen from
April to October 2013. Methods: interventional study.
Results: There were 54 children with ASD, included
37 had autistic disorder. There are 13 staffs, included 8
bachelors of special education (61.6%), 3 rehabilitative
technicians (23.1%) and 2 doctors (15.3%) in three
health centres for ASD treatment. PECS, behavious
therapy and active therapy were used the most. Only
under 30.0% of parents cooperate to educate children
with ASD at home. The results showed that after
intervention, social interaction, verbal communication
of children with ASD were changed insignificantly, on
the contrary stereotyped patterns of behavior reduced
significantly. Conclusions: There is only 13 staffs to
treat children with ASD in Thainguyen and have no an
identical treatment strategy. There is significant change
in behaviour of children with ASD after intervention.
Keywords: Autism, children, Thai Nguyen.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) đang là một vấn đề
thời sự trong chăm sóc sức khỏe trẻ em bởi tỉ lệ mắc
RLPTK tăng rất nhanh, bệnh gây ảnh hưởng lâu dài
đến chất lượng cuộc sống của trẻ. Tại các nước phát
triển, tỉ lệ mắc RLPTK tăng 8-10 lần trong 20 năm
qua [8]. Tại Việt Nam, chưa có số liệu về tỷ lệ mắc
RLPTK trong cộng đồng, nhưng tại các bệnh viện

Nhi, tỉ lệ trẻ đến khám và điều trị RLPTK năm 2007
tăng gấp 33 đến 50 lần năm 2000 [3]. Ở Việt Nam,
trẻ RLPTK thường được phát hiện và chẩn đoán
muộn, theo Bệnh viện Nhi Trung ương tỉ lệ chẩn
đoán RLPTK ở trẻ sau 36 tháng tuổi chiếm 43,9% [4].
Hiện nay có hàng trăm phương pháp can thiệp trẻ tự
kỷ như TEACCH, PECS, vật lý trị liệu, hoạt động trị
liệu, tâm vận động và trị liệu ngôn ngữ Tuy nhiên,
lựa chọn phương pháp khoa học và phù hợp với mỗi
trẻ là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của
điều trị.
Tại Thái Nguyên khái niệm tự kỷ còn khá mới mẻ
với mọi người và cả nhiều nhân viên y tế, nên việc
chẩn đoán tự kỷ thường rất muộn. Phần lớn trẻ tự kỷ
tại Thái Nguyên được chẩn đoán và điều trị ban đầu
tại các trung tâm lớn ở Hà Nội. Nghiên cứu của
Nguyễn Lan Trang (2012) trên 5728 trẻ ở độ tuổi 18-
60 tháng tại thành phố Thái Nguyên thấy tỉ lệ tự kỷ là
0,52% [5]. Tại Thái Nguyên, hiện có ba đơn vị tham
gia điều trị trẻ RLPTK, Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ
em bị thiệt thòi tỉnh Thái Nguyên
(TGD&HTTEBTTTN) thu nhận trẻ tự kỷ từ năm 2005,
đến năm 2012 Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi
chức năng Thái Nguyên (BVCH&PHCNTN) chính
thức tổ chức điều trị trẻ tự kỷ, bên cạnh hai đơn vị
này còn có Trung tâm Ánh Sao (tư thục) cũng nhận
điều trị trẻ tự kỷ, nhưng tại các cơ sở này chưa có sự
thống nhất trong chiến lược can thiệp cho trẻ RLPTK.
Để góp phần xây dựng mô hình can thiệp tự kỷ thống
nhất và hiệu quả tại thành phố Thái Nguyên, chúng

tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Kết quả bước đầu
điều trị rối loạn phổ tự kỷ trẻ em tại tỉnh Thái Nguyên”
với mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng công tác điều trị RLPTK tại
Thái Nguyên.
2. Đánh giá bước đầu kết quả điều trị RLPTK trẻ
em tại Thái Nguyên.
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng:
+ Trẻ em đang sống tại tỉnh Thái Nguyên đã được
chẩn đoán xác định RLPTK.
+ Cha mẹ/người chăm sóc những trẻ bị RLPTK.
+ Nhân viên của các đơn vị điều trị RLPTK tại tỉnh
Thái Nguyên.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 4.2013 đến
tháng 10.2013.
- Địa điểm nghiên cứu: Tỉnh Thái Nguyên.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp so
sánh trước sau.
- Mẫu nghiên cứu: chọn mẫu thuận tiện, chọn
những trẻ em được chẩn đoán RLPTK nhưng phải
tham gia điều trị trong suốt thời gian nghiên cứu. Cha
mẹ/người chăm sóc trẻ, nhân viên của các đơn vị
điều trị. Chẩn đoán xác định tự kỷ do các bác sĩ nhi
khoa, chuyên gia Tâm lý của Khoa Tâm bệnh - Bệnh
viện Nhi Trung ương, Trung tâm Đào tạo và Phát
triển giáo dục đặc biệt - Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội thực hiện theo tiêu chuẩn DSM-IV[6].

- Chỉ tiêu nghiên cứu:
+ Trẻ RLPTK: Các chỉ tiêu chung (tuổi, giới), chỉ
tiêu bệnh lý (thể, đặc điểm các rối loạn…), chỉ tiêu
điều trị (phương pháp, thời gian, mô hình điều trị…).
+ Nhân viên: Trình độ, nơi đào tạo…
- Nội dung can thiệp: Tất cả trẻ được lập hồ sơ
theo dõi theo mẫu, trẻ được can thiệp các biện pháp:
Trị liệu âm ngữ, ngôn ngữ. Tâm vận động: vận động
tinh, vận động thô, chơi tương tác, cử chỉ giao tiếp.
Trị liệu cảm giác: tập điều hòa cảm giác. Giao tiếp
bằng tranh, ảnh (PECS). Trị liệu hành vi: TEACCH,
ABA.
- Thu thập số liệu: phỏng vấn, quan sát, đánh giá
và ghi chép thông tin.
- Xử lý số liệu: Theo phần mềm EPIINFO 7
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Giới
Tuổi
Trẻ trai Trẻ gái Tổng số p
n % n % N %
Dưới 2
tuổi
2 3,7 1 1,9 3 5,6

<0,05
2-3 tuổi

20 37,1 7 12,9 27 50,0

3-5 24 44,4 0 0 24 44,4
Tổng 46 85,2 8 14,8 54 100,0

Nhận xét: tỉ lệ RLPTK ở trẻ trai:gái là 5,7:1, chỉ có
5,6% trẻ được chẩn đoán và điều trị ở tuổi dưới 24
tháng, có 44,4% chẩn đoán sau 3 tuổi.

Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013






26
Bảng 2. Đặc điểm nhân viên tham gia điều trị cho trẻ RLPTK
Địa điểm

Trình độ NV
BV Chỉnh hình và
PHCN
TGD&HTTEBTTTN
Trung tâm
Ánh Sao
Tổng cộng
n

%

n


%

n

%

N

%

Bác sĩ 2 15,3 0 0 0 0 2 15,3
Kỹ thuật viên PHCN 3 23,1 0 0 0 0 3 23,1
Cử nhân GDĐB 1 7,7 4 30,7 3 23,1 8 61,6
T
ổng cộng

6

46,2

4

30,7

3

23,1

13


100,0


Nhận xét: Nhân viên trực tiếp điều trị trẻ RLPTK
tại Thái Nguyên hiện còn rất thiếu, chủ yếu là cử
nhân sư phạm giáo dục đặc biệt, kỹ thuật viên PHCN
chiếm 23,1%.
Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng RLPTK trẻ em
Giới
Thể tự kỷ

Tr
ẻ trai

Tr
ẻ gái

T
ổng số

P
n % n % N %
Thể điển
hình
35 64,8 2 3,6 37 68,4
<0,05

Không
đi

ển h
ình

11 20,4 6 11,2 17 31,6
Tổng 46 85,2 8 14,8 54 100,0
Nhận xét: Tỉ lệ tự kỷ thể điển hình là 68,4%. Với
thể điển hình tỉ lệ trẻ trai: gái là 17,5:1.
Bảng 4. Tần suất sử dụng các phương pháp điều
trị cho trẻ
Địa điểm

Phương pháp
BV Chỉnh hình và
Phục hồi chức
năng (n=34)
Trường
GD&HTTETTTN
(n=20)
Tần
suất
Tỉ lệ % Tần suất

Tỉ lệ %
PECS 34 100,0 20 100,0
Hoạt động trị
liệu
34 100,0 8 40,0
Tr
ị liệu h
ành vi


34

100,0

16

80,0

Trị liệu ngôn
ngữ
20 58,8 11 55,0
Trị liệu cảm
giác

21 61,8 7 35,0
Thuốc bổ sung

34 100,0 0 0
Tham gia của
gia đình
10 29,4 6 20,0
Thời gian điều
trị
5 ngày/tuần,
1-2 giờ/ngày
5 ngày/tuần,
1-2 giờ/ngày
Nhận xét: Phương pháp được sử dụng nhiều
nhất là PECS, trị liệu hành vi, hoạt động trị liệu. Tại

BVCH&PHCN 100% trẻ được được điều trị đợt ngắn
hạn 52 ngày và bổ sung các vitamin và khoáng chất.
Tỉ lệ các bậc cha mẹ tham gia can thiệp cho trẻ còn
thấp (dưới 30%).
Bảng 5. Các biểu hiện tương tác xã hội trước và
sau điều trị
Thời điểm

Dấu hiệu
Trước Điều trị
(n=54)
Sau 6 tháng
(n=54)

p
n % n %
Đáp ứng khi
g
ọi t
ên

16 29,6 19 35,1 >0,05
Giao tiếp mắt 22 42,6 27 50,0 >0,05
Không biết
khoe
39 72,2 36 66,7 >0,05
Chỉ chơi một
mình
25 46,3 20 37,0 >0,05
Biết chỉ đồ vật 11 20,3 16 29,6 >0,05

Nhận xét: Sau 6 tháng can thiệp, các dấu hiệu
tương tác xã hội có thay đổi, nhưng sự khác biệt
không có ý nghĩa (p>0,05).
Bảng 6. Các biểu hiện ngôn ngữ trước và sau
điều trị

Thời điểm

Dấu hiệu
Trước Điều trị
(n=54)
Sau 6 tháng
(n=54)

p
n % n %
Không nói 17 31,4 14 25,9 >0,05
Nói vài từ
đơn
19 35,2 25 46,2 >0,05
Hiểu lời ít 37 68,5 31 57,4 >0,05
Phát âm vô
nghĩa
9 16,7 6 11,1 >0,05
Nhại lời 12 22,2 13 24,0 >0,05
Nói một
mình
11 20,3 7 12,9 >0,05

Nhận xét: Sau 6 tháng can thiệp, trẻ có tiến bộ về

các biểu hiện ngôn ngữ, nhưng sự khác biệt không
có ý nghĩa (p>0,05).
Bảng 7. Các biểu hiện hành vi trước và sau điều
trị

Thời điểm

Dấu hiệu
Trước Điều trị
(n=54)
Sau 6 tháng
(n=54)
p
n % n %
Đi b
ất th
ư
ờng

37

68,5

25

42,3

<0,05

Chơi rập

khuôn
40 74,0 37 68,5 >0,05
Động tác định
hình

34 62,9 19 35,1 <0,05

Nhận xét: Sau can thiệp, hiện tượng đi bất
thường, động tác định hình giảm có ý nghĩa so với
trước can thiệp (p<0,05).
BÀN LUẬN
Nghiên cứu kết quả điều trị 54 trẻ RLPTK tại Thái
Nguyên thấy tỉ lệ trẻ trai: gái là 5,7:1, tỉ lệ này cũng
phù hợp y văn và kết quả nghiên cứu của các tác giả
khác trong và ngoài nước. Nguyễn Hồng Thúy và CS
nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương thấy tỉ lệ
này là 5:1 [3]. Nguyễn Thị Hương Giang nghiên cứu
tại Thái Bình thấy tỉ lệ trẻ trai mắc bệnh cao gấp 6,4
lần trẻ gái [2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có
5,6% trẻ được chẩn đoán sớm trước 24 tháng tuổi,
còn trên 44,4% trẻ được chẩn đoán sau 3 tuổi, kết
quả này cũng phù hợp với các tác giả khác ở Mỹ như
Mandell (2005) là 3,1 năm [8], Barbaro (2009) là 3-4
tuổi [7], và Noterdaeme (2010) ở Đức là 3,9 năm [9].
Việc chẩn đoán muộn được có thể do hiểu biết của
Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013








27
cộng đồng và ngay cả nhân viên y tế Thái Nguyên về
RLPTK còn rất hạn chế.
Đội ngũ nhân viên tham gia điều trị cho trẻ tự kỷ
tại Thái Nguyên vẫn còn rất thiếu, chỉ có 13 người
(tính cả. Từ năm 2005, Trung tâm Chăm sóc giáo dục
trẻ khuyết tật Thái Nguyên (nay là Trường Giáo dục
và hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi Thái Nguyên) là cơ sở
đầu tiên tại Thái Nguyên tổ chức can thiệp cho trẻ tự
kỷ, Trung tâm có một số nhân viên được đào tạo tại
Khoa Giáo dục đặc biệt - Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội. Đến năm 2012, sau khi đào tạo đội ngũ nhân
viên (gồm 2 bác sĩ và 4 Kỹ thuật viên tại Bệnh viện
Nhi Trung ương và Khoa Phục hồi chức năng - Bệnh
viện Bạch Mai), Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi
chức năng Thái Nguyên tổ chức điều trị cho trẻ tự kỷ
theo mô hình của Bệnh viện Nhi Trung ương. Tuy
nhiên, tất cả bệnh nhân điều trị tại các trung tâm này
đều được chẩn đoán xác định tại Hà Nội và đã điều
trị ngắn hạn tại các trung tâm của Hà Nội trước khi về
điều trị tiếp tại Thái Nguyên. Do đội ngũ nhân viên
còn thiếu và chưa có chuyên gia về các lĩnh vực
chuyên biệt trong can thiệp tự kỷ (chuyên gia ngôn
ngữ trị liệu, tâm lý trị liệu….) nên các kỹ thuật can
thiệp tại Thái Nguyên còn hạn chế, chỉ tập trung biện
pháp trị liệu hành vi, giao tiếp bằng tranh ảnh, tâm
vận động. Sau can thiệp chúng tôi thấy trẻ có sự thay

đổi về hành vi khá rõ rệt, tỉ lệ trẻ có dáng đi bất
thường và động tác định hình giảm có ý nghĩa,
nhưng các biểu hiện tương tác xã hội và ngôn ngữ
biến chuyển chậm. Tại Thái Nguyên việc phối hợp
của gia đình trong điều trị tự kỷ còn rất hạn chế, tỉ lệ
gia đình có tham gia can thiệp cho trẻ còn thấp (dưới
30%). Việc điều trị tự kỷ là một cuộc chiến không có
điểm dừng, điều trị chỉ có kết quả nếu có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ sở y tế, giáo dục với gia đình và
trường mầm non (với những trẻ có đi học mầm non).
Nghiên cứu của Levy S.E và CS cho thấy gia đình và
hệ thống giáo dục là nguồn lực chính trong can thiệp
tự kỷ [7]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có khác
với nghiên cứu của Nguyễn Hồng Thúy và CS tại
Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy can thiệp tự kỷ
qua giao tiếp bằng tranh sau 6 tháng thấy trẻ có tiến
bộ rõ rệt về giao tiếp mắt, tương tác xã hội [3]. Quách
Thúy Minh và CS can thiệp cho 130 trẻ tự kỷ tại Bệnh
viện Nhi Trung ương cũng thấy sau 3 tháng trẻ có cải
thiện tương tác xã hội và ngôn ngữ, sau 9 tháng điểm
CARS giảm có ý nghĩa [2]. Sự khác biệt này có thể
do thời gian can thiệp trong nghiên cứu của chúng tôi
chưa đủ dài (6 tháng), hơn nữa do chúng tôi chưa có
chuyên gia về các lĩnh vực ngôn ngữ trị liệu. Nghiên
cứu của Nguyễn Thị Hương Giang cũng cho thấy sau
12 tháng can thiệp 100% trẻ có cải thiện giao tiếp,
ngôn ngữ, vận động [1].
Hiện nay, các cơ sở đào tạo và điều trị của ngành
y tế còn chưa thật sự quan tâm đến vấn đề RLPTK
trẻ em, trong các chương trình đào tạo chưa giảng

dạy về tự kỷ, còn rất ít bệnh viện có đơn vị điều trị tự
kỷ. Tại ba bệnh viện đa khoa của tỉnh Thái Nguyên
cho đến nay cũng chưa bệnh viện nào tổ chức khám
và điều trị tự kỷ. Phải chăng do việc điều trị tự kỷ quá
khó khăn, quá tốn kém, hay do chúng ta chưa ý thức
được ảnh hưởng của bệnh đến tương lai và khả
năng hòa nhập cuộc sống của trẻ mắc tự kỷ. Trong
khi tại các bệnh viện không có cơ sở điều trị tự kỷ, thì
tại cộng đồng đã có một số cơ sở điều trị tự kỷ do tổ
chức từ thiện tài trợ, do cá nhân có chuyên môn về
tâm lý trẻ em và cả các bà mẹ sau khi điều trị cho con
của mình đứng ra tổ chức nhận điều trị trẻ tự kỷ tại
các địa phương (Tuyên Quang, Cao Bằng, Quy
Nhơn, Bắc Kạn…). Điều này cho thấy mặc dù đã có
tài liệu hướng dẫn phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ
của Bộ Y tế [1], nhưng vẫn cần phải có sự quản lý
chặt chẽ và hữu hiệu của các cấp, các ngành có liên
quan đến vấn đề RLPTK trẻ em hiện nay.
KẾT LUẬN:
- Tại Thái Nguyên hiện nay chỉ có 13 nhân viên
trực tiếp điều trị tự kỷ trẻ em.
- Tỉ lệ cha mẹ tham gia phối hợp điều trị còn thấp
(dưới 30%).
- Sau can thiệp 6 tháng, tương tác xã hội và ngôn
ngữ có thay đổi nhưng không có ý nghĩa thống kê;
một số hành vi và động tác định hình thay đổi có ý
nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2008), Phục hồi chức năng cho trẻ tự
kỷ, Bộ tài liệu Phục hồi chức năng dựa vào cộng

đồng (theo Quyết định số 1149/QĐ - BYT ngày 01
tháng 4 năm 2008).
2. Nguyễn Thị Hương Giang (2012), Nghiên cứu
phát hiện sớm tự kỷ bằng M-CHAT23, đặc điểm dịch
tễ-lâm sàng và phục hồi chức năng cho trẻ nhỏ tự kỷ,
Luận án tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
3. Quách Thúy Minh, Nguyễn Hồng Thúy và CS
(2008), Một số đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị
ban đầu cho trẻ tự kỷ tại khoa Tâm thần, Bệnh viện
Nhi Trung ương, Tạp chí Nghiên cứu Y học, 57(4),
280-88.
4. Nguyễn Hồng Thúy, Quách Thúy Minh (2011),
Đánh giá kết quả áp dụng hệ thống giao tiếp bằng
tranh để dạy trẻ tự kỷ tại Bệnh viện Nhi Trung ương,
Nhi khoa, 4 (4), 459-65.
5. Nguyễn Lan Trang (2012), Thực trạng tự kỷ trẻ
em từ 18-60 tháng tuổi tại thành phố Thái Nguyên,
Luận văn Thạc sĩ Y học.
6. American Psychiatric Association (1994),
Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorder -
DSM-IV, Wasington DC, AA.
7. Barbaro J, Dissanayake C (2009). Autism
Spectrum disorders in infancy and toddlerhood: A
review of the evidence on early signs, early
identification tools, and early diagnosis” Journal
Developmental Behavior Pediatric 30: 447 – 459
8. Levy SE, Mandell DS, Schultz RT (2009),
Autism, Lancet, 374(9701):1627–38.
9. Noterdaeme M, Nickels A.H (2010). Early
symptoms and recognition of pervasive

developmental disorder in Germany, Autism 14: 575,
5.

×