Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

QUẢN lý CHẤT THẢI rắn y tế ở các BỆNH VIỆN VIỆT NAM NGHIÊN cứu TRƯỜNG hợp tại BỆNH VIỆN đa KHOA TỈNH đắk lắk năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.83 KB, 6 trang )

Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013







55
mục đích khắc phục những nhược điểm của nội soi
bóng kép như chuẩn bị và thao tác phức tạp(1-2). Tuy
nhiên có quan điểm cho rằng do nội soi bóng đơn chỉ
có một bóng gắn ở đầu overtube nên sẽ làm cho đầu
máy soi dễ tuột ra trong quá trình đẩy overtube. Trên
thực tế máy nội soi bóng kép có 2 bóng nhưng quả
bóng gắn ở đầu overtube to hơn quả bóng ở đầu máy
soi và việc giữ cố định máy chủ yếu do vai trò của
bóng gắn ở overtube(7). Để máy có thể cố định trong
khi đẩy overtube trong nội soi bóng đơn bằng cách up
máy soi hết cỡ biến đầu máy soi thành móc cố định
vào nếp ruột non để giữ máy không bị tụt ra trong khi
đẩy overtube. Một số tác giả kết hợp up và hút liên tục
để gia tăng lực bám của đầu máy soi. Chúng tôi đã áp
dụng kỹ thuật dùng đoạn ống nhựa trong gắn vào đầu
máy nội soi trong nội soi dạ dày vào nội soi bóng đơn
trong một số bệnh nhân và thấy kỹ thuật này rất hữu
ích trong việc cố định đầu máy soi cũng như tạo điều
kiện tốt cho quan sát và làm thủ thuật. Qua một số
bệnh nhân được áp dụng kỹ thuật này chúng tôi thấy
thời gian làm thủ thuật nhanh hơn, quảng đường đi
được dài hơn. Tuy nhiên số lượng bệnh nhân được


làm theo kỹ thuật này còn ít và hy vọng có nghiên cứu
về vấn đề này trong thời gian tới.
Nội soi bóng đơn ngoài việc chuẩn bị và thao tác
đơn giản còn rất hữu ích trong việc thu thập bệnh
phẩm trong quá trình nội soi ruột non do máy soi có
thể rút ra ngoài bệnh nhân và để nguyên overtube ở
vị trí hiện tại, máy soi có thể đưa vào lại dễ dàng mà
không tốn thời gian, điều này là không thể trong nội
soi ruột non bóng kép.
Cũng như nội soi ruột non bóng kép, trong nội soi
ruột non bóng đơn nếu có màn tăng sáng sẽ hỗ trợ
tốt hơn trong quá trình nội soi bởi lẽ bác sĩ có thể biết
chính sác hình ảnh cuộn của máy soi qua đó có cách
tháo cuộn hợp lý
Với cấu tạo đầu máy soi đơn giản của nội soi ruột
non bóng đơn cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
quá trình rửa và khử khuẩn máy nội soi.
KẾT LUẬN
Qua kết quả thu được trên 82 bệnh nhân chúng
tôi nhận thấy kỹ thuật nội soi ruột non bóng đơn rất
có hiệu quả và an toàn trong chẩn đoán và điều trị
bệnh lý của ruột non.
Để kỹ thuật này đạt được kết quả cao cần phải
chọn bệnh nhân đúng bằng cách thăm khám lâm
sàng kỹ kết hợp với các thăm dò khác như nội soi
thường quy dạ dày, đại tràng, siêu âm, chụp cắt lớp
vi tính…
Nội soi ruột non bóng đơn là kỹ thuật mới và
tương đối khó do vậy kíp kỹ thuật làm nội soi cần có
kinh nghiệm và cần sự giúp đỡ của bác sĩ gây mê

cũng như màn tăng sáng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. David J, Evan S, et al “Single-balloon
enteroscopy: results from an initial experience at a U.S.
tertiary-care center”. Gatrointestinal Endoscopy 2010;
vol 72; 422-426.
2. Kawamura T, Yasuda K, Tanaka K, Uno K, et al.
“Clinical evaluation of a newly developed single-balloon
enteroscope”. Gastrointestinal Endoscopy 2008; Vol 68;
1112-1116.
3. Pennazio M. “Small-bowel endoscopy”…
Endoscopy 2010; 42: 926–933.
4. Tsujikawa T, Saitoh Y, Andoh A, et al. “Novel
single-balloon enteroscopy for diagnosis and treatment
of the small intestine: preliminary experiences.”
Endoscopy 2008;40:11-5.
5. May A, Nachbar L, Ell C. “Double-balloon
enteroscopy (push-and-pull enteroscopy) of the small
bowel: feasibility and diagnostic and therapeutic yield in
patients with suspected small bowel disease”.
Gastrointest Endosc 2005;62:62-70.
6. Yamamoto H, Kita H, Sunada K et al. “Clinical
outcomes of double-balloon endoscopy for the diagnosis
and treatment of small-intestinal diseases”. Clin
Gastroenterol Hepatol 2004; 2: 1010–1016.
7. Kiyonori Kobayashi, Tomoe Katsumata, and
Katsunori Saigenji. Clinical Usefulness of Single-Balloon
Enteroscopy for the Diagnosis and Treatment of Small-
Intestinal Diseases.


QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ Ở CÁC BỆNH VIỆN VIỆT NAM:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH ĐẮK
LẮK NĂM 2012

LÊ THỊ THANH HƯƠNG, PHÙNG XUÂN SƠN, TÔ THỊ LIÊN – Trường Đại học Y tế Công cộng
NGUYỄN THỊ BÍCH TRANG – Khoa Y Dược - Trường Đại học Tây Nguyên

TÓM TẮT
Không thể phủ nhận những đóng góp của ngành
Y tế cho công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức
khỏe của người dân. Tuy nhiên cùng với sự phát triển
của y tế, chất thải y tế đang là một vấn đề ‘nóng’ thu
hút sự quan tâm từ chính phủ, các tổ chức, các ban
ngành cũng như người dân do những tác động tiêu
cực mà nó có thể gây ra cho môi trường tự nhiên và
môi trường sống của con người. Những thống kê của
tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy khoảng 80%
chất thải từ các bệnh viện là chất thải thông thường
và chỉ khoảng 20% còn lại là chất thải y tế nguy hại.
Hàng năm có khoảng 16.000 triệu bơm kim tiêm
được sử dụng trên toàn thế giới nhưng không phải tất
cả đều được xử lý đúng cách và đây là nguyên nhân
gây ra 21 triệu trường hợp nhiễm viêm gan B, 2 triệu

Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013







56
trường hợp nhiễm viêm gan C cùng với hơn 200.000
người bị nhiễm HIV trong năm 2000. Không chỉ gây ra
những tiêu cực về mặt sức khỏe cho con người, chất
thải y tế còn gây ô nhiễm cho môi trường tự nhiên từ
các hóa chất, chất phóng xạ trong điều trị nghiên cứu y
tế và việc đốt chất thải. Có thể nói công tác quản lý
chất thải đang trở nên cấp thiết, đặc biệt là ở các nước
đang phát triển và các nước nghèo – nơi mà việc quản
lý chất thải y tế và công nghệ xử lý còn hạn chế. Việt
Nam cũng đang phải đối mặt với tình trạng tương tự và
và cũng đang tìm những giải pháp thích hợp cho quản
lý và xử lý chất thải y tế. Bài báo này sẽ đề cập tới
những ảnh hưởng và thực trạng quản lý chất thải y tế
ở Việt Nam; đồng thời sử dụng số liệu trong nghiên
cứu về chất thải được thực hiện tại Bệnh viện Đa khoa
Đắk Lắk để đưa ra một số khuyến nghị cho công tác
quản lý chất thải y tế tại bệnh viện.
Từ khóa: quản lý chất thải rắn y tế, Việt Nam,
nghiên cứu trường hợp.
SUMMARY
SOLID MEDICAL WASTE MANAGEMENT IN
VIETNAM A CASE STUDY OF DAK LAK GENERAL
HOSPITAL IN 2012
It is undeniable that the health sector has
contributed enormously for medical examination and
treatment. However, along with its development,
medical waste is still a matter in medical waste
management and is a concern of governments,

organizations and agencies as well as local people.
The negative impacts from medical waste is not only
caused human health hazards but also the natural
environmental risks. Statistics by the World Health
Organization (WHO) show that 80% of waste from
hospitals is common waste and only 20% is hazardous
medical waste. Annually, there are about 16,000
million needles are used worldwide but not all of them
disposed correctly and this was the cause of 21 million
hepatitis B infections, 2 million hepatitis cases C along
with more than 200,000 people infected with HIV in
2000. Moreover, medical waste can pollute the natural
environment by its components such as chemicals,
radioactive substances in medical treatment, research
and waste burning process. Medical waste
management becomes one of the most urgent
problems, especially in developing and third world
countries, where the management of medical waste
and treatment technology is very limited. Vietnam is
also facing similar problem and is now trying to find
appropriate solutions for the handling of medical
wastes. This paper will address the effects of of
medical waste management and the situation of
medical waste management in Vietnam as well as
using the data on medical waste management in a
study conducted in Dak Lak Hospital as a case study
in medical waste management. Based on the results of
the study, some recommendations for better
management in medical waste in Dak Lak General
Hospital were approached.

Keywords: Solid medical waste management,
Vietnam, case study.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, lượng chất thải rắn tại nhiều quốc gia
trên thế giới đang gia tăng đáng kể, trong đó phải kể
việc tăng lượng chất thải rắn y tế (CTRYT) mỗi năm.
Tại Việt Nam, từ năm 2003 đến nay, tổng lượng
CTRYT phát sinh hàng năm có sự gia tăng rất mạnh,
từ 21.500 tấn (2003) tới khoảng 164.250 tấn (2012)
(gấp 7,6 lần) [2], [7]. Năm 2012, cả nước ta có 1.361
cơ sở khám chữa bệnh, tăng 1,08 lần so với năm
2010 (1.263 cơ sở), nhưng chỉ có 50% trong số này
thực hiện phân loại, thu gom CTRYT đạt yêu cầu của
Quy chế quản lý chất thải y tế (CTYT) trong Quyết
định số 43/2007/QĐ-BYT. Nhiều bệnh viện (BV) tới
nay vẫn sử dụng công nghệ thiêu đốt thủ công hoặc
các lò đốt chưa đạt tiêu chuẩn, gây ô nhiễm môi
trường và chưa đem lại hiệu quả cao trong xử lý chất
thải. Phần lớn BV tuyến huyện và một số BV chuyên
khoa các tỉnh miền núi còn sử dụng phương pháp
chôn lấp không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật trong khuôn
viên BV [2], [7]. Với thực trạng gia tăng số lượng BV
như hiện nay, việc quản lý CTRYT đang là gánh nặng
lớn của nước ta.
Bài báo tổng quan này nhằm cung cấp các thông
tin về ảnh hưởng của CTRYT tới sức khỏe con người
và môi trường, đồng thời mô tả thực trạng quản lý
CTRYT tại các cơ sở khám chữa bệnh tại Việt Nam
và liên hệ với thực trạng tại BV Đa khoa (BVĐK) Đắk
Lắk. Dựa trên kết quả rà soát, bài báo sẽ chỉ ra

những khó khăn, thuận lợi và đề xuất những khuyến
nghị trong công tác quản lý chất thải tại BVĐK Đắk
Lắk nói riêng và tại Việt Nam nói chung.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu tổng quan tài liệu được
áp dụng để thực hiện bài báo này. Tài liệu được tìm
kiếm từ các nguồn tại Việt Nam là các bài báo trên
Tạp chí Y học dự phòng Việt Nam; báo cáo hàng
năm của Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ Y tế và các
đơn vị trực thuộc (Cục Quản lý Môi trường Y tế, các
Viện); các bài báo nước ngoài và các văn bản pháp
quy liên quan. Kết quả đã có 23 tài liệu được sử
dụng, trong đó có 6 văn bản pháp quy liên quan,10
báo cáo nghiên cứu khoa học, điều tra hàng năm của
các đơn vị, 5 bài báo (tiếng Việt và tiếng Anh), 2 giáo
trình liên quan. Ngoài ra, để phục vụ cho việc viết
nghiên cứu trường hợp, bài báo có tham khảo và sử
dụng kết quả luận văn thạc sỹ y tế công cộng của
Nguyễn Thị Bích Trang: “Thực trạng quản lý chất thải
rắn y tế tại BVĐK tỉnh Đắk Lắk năm 2012”, nghiên
cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt
ngang, kết hợp định lượng (quan sát, xem sổ sách)
và định tính (phỏng vấn sâu), trong thời gian từ tháng
1/2012 đến tháng 8/2012.
KẾT QUẢ
1. Khái niệm chất thải y tế, chất thải rắn y tế
Chất thải y tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được
thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại
và chất thải thông thường. CTRYT là CTYT ở dạng rắn
mà không phải ở dạng nước thải và khí thải [3].

2. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế
Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013







57
CTRYT, đặc biệt là các CTRYTNH, nếu không
được quản lý chặt chẽ, không chỉ gây sức ép tới môi
trường, gây ô nhiễm đất, nước và không khí cũng
như mất mỹ quan đô thị [13]; mà còn có thể gây ra
các tổn thương tới nhân viên y tế (NVYT) và nhân
viên làm công tác quản lý CTYT khác [14]; tạo điều
kiện thuận lợi cho việc lây lan, nhiễm chéo các bệnh
truyền nhiễm (tả, lỵ, nhiễm trùng da, viêm gan…)
[13], tạo môi trường cho vi sinh vật gây bệnh kháng
thuốc và ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng [9], [19].
2.1. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế tới môi
trường
Môi trường không khí trong BV hiện đang chịu sự
tác động rất lớn của công tác quản lý CTRYT, khi các
chất thải BV không được quản lý tốt gây rơi vãi, tồn
đọng, thùng đựng không có nắp đậy, làm bốc mùi hôi
thối [12]. Quan trọng hơn, công tác xử lý CTRYT
không được thực hiện triệt để, đúng kỹ thuật; các lò
đốt hầu hết không có bộ phận kiểm soát ô nhiễm
không khí; thêm vào đó, do thiết kế, khả năng vận

hành, bảo dưỡng kém [11] nên đã tạo ra các chất
gây ô nhiễm không khí (bụi, NO
2
, SO
2
, các hợp chất
hữu cơ bay hơi cũng như dioxin, furan…) [11]. Ngoài
ra, các BV hiện nay không phân loại được đúng
lượng rác thải khi đưa vào tiêu hủy, nhân viên vận
hành thường bỏ qua giai đoạn sấy rác và đặt chế độ
tiêu hủy rác ngay nên tình trạng khói đen khi vận
hành xảy ra thường xuyên. Trong điều tra năm 2006
về đánh giá thực trạng tác động môi trường của Hệ
thống lò đốt chất thải của bệnh viện một số tỉnh/thành
phố nước ta thì 11/15 lò đốt không đạt yêu cầu kỹ
thuật, thải ra lượng CO vượt quá tiêu chuẩn cho
phép, gây ô nhiễm không khí [4].
Không chỉ vậy, các bãi chôn lấp CTRYT lộ thiên
và các bãi chôn lấp rác không được xây dựng đúng
tiêu chuẩn là nguồn tiềm tàng gây ô nhiễm nguồn
nước, đặc biệt là nước ngầm do việc rò gỉ thủy ngân
từ nhiệt kế hoặc ô nhiễm bạc từ phim chụp X-quang
[15]. Cùng với đó, việc thu gom và tập kết chất thải
không đảm bảo vệ sinh sẽ thu hút nhiều côn trùng,
loài gặm nhấm (như chuột, ruồi, gián) xâm nhập, sinh
sống đã mang vi khuẩn gây bệnh và gây ảnh hưởng
đến môi trường trong và ngoài BV [12]. Các CTYT
độc hại như gạc, bông, băng nhiễm khuẩn; hóa chất
chưa xử lý được thu gom và đổ chung với rác sinh
hoạt vào bãi chôn lấp không đảm bảo yêu cầu vệ

sinh; chất tro trong lò đốt CTYTNH cũng như chất ô
nhiễm từ các bãi rác không đạt chuẩn cũng có thể có
trong môi trường đất, gây ô nhiễm nghiêm trọng nếu
không được tiêu hủy và bảo đảm thiết kế an toàn [9].
Ô nhiễm trứng giun trong đất là kết quả thu được qua
nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích, so sánh tại
các bệnh viện huyện thuộc Hải Dương của Trần Thị
Minh Tâm (2006) [12]. Số lượng trứng giun trong 1 kg
đất tại bãi rác của các bệnh viện có xử lý chất thải y
tế thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với các bệnh viện
chưa xử lý chất thải (giun đũa: 108 ± 18 và 220 ± 32;
giun tóc: 20 ± 9 và 40 ± 6, p< 0,05) [12].
2.2. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế tới sức
khỏe con người
Tất cả các cá nhân tiếp xúc với CTRYT nguy hại là
những người có nguy cơ tiềm tàng. Trong đó, các
nhóm người sau đây có nguy cơ cao hơn [10]: Cán bộ
y tế (NVYT); nhân viên thu gom và xử lý chất thải
(trong BV, nhân viên vận chuyển, nhân viên xử lý ở
khâu cuối), lao công; bệnh nhân nội trú; người nhà,
khách đến thăm bệnh nhân; những người bới rác thải.
Các CTRYT sắc, nhọn được đánh giá là có nguy
cơ gây tổn thương kép (gây chấn thương và truyền
bệnh) nên được coi là rất nguy hại [12]. Nguy cơ từ
loại này được quan tâm nhiều hơn đối với đội ngũ
NVYT. Nghiên cứu của Helal và cộng sự (2011) tại
Abu-Dhabi cho kết quả 7,4% chấn thương trong
NVYT là do các vật sắc nhọn từ CTRYT. Sự tổn
thương do vật sắc nhọn sử dụng trong y tế có khả
năng lây truyền các bệnh nhiễm trùng nguy hiểm như

HIV, HBV và HCV (khoảng 80% nhiễm trùng HIV,
HBV, HCV nghề nghiệp là do thương tích vì vật sắc
nhọn và kim tiêm) [9]. Ngoài ra, tại một số nước đang
phát triển, việc bán lại bơm kim tiêm đã sử dụng và
các ống nhựa đem lại lợi nhuận kinh tế, do đó, một
lượng lớn bơm kim tiêm bỏ đi đã được thu hồi và tái
sử dụng bất hợp pháp, điều này tiềm ẩn những nguy
cơ lớn cho sức khỏe cộng đồng.
Các CTRYT lây nhiễm cao có chứa các vi sinh vật
có hại có thể nhiễm sang các bệnh nhân, NVYT và
những người dân khác qua nhiều đường khác nhau
như vết thương, vết cắt trên da, niêm mạc, hệ thống
hô hấp, tiêu hóa Tác giả Trần Thị Minh Tâm đã
chứng minh việc tiếp xúc với CTYT làm tăng nguy cơ
mắc bệnh viêm kẽ chân – tay, đau mắt, viêm mũi,
tiêu chảy ở những người dân xung quanh khu vực
bệnh viện [12]. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu được tiến
hành ở các nước phát triển cho thấy những người xử
lý rác thải có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn 6 lần các
đối tượng khác, nguy cơ mắc bệnh phổi dị ứng cao
hơn 2,6 lần; bệnh viêm phế quản mãn tính gấp 2,5
lần và bệnh viêm gan là 1,2 lần [24]. Nguy hiểm hơn,
chất thải loại này có thể làm lan rộng các vi sinh vật
kháng thuốc từ trong các CSYT ra môi trường ngoài
[5]. Không những vậy, việc rơi vãi các loại CTRYT
này có thể làm lây lan mầm bệnh gây nên đợt bùng
phát nhiễm trùng BV đối với cán bộ, NVYT; bệnh
nhân, người nhà bệnh nhân.
Đối với chất thải hóa học và dược phẩm, cũng như
chất phóng xạ, con người nếu bị phơi nhiễm cấp tính

hoặc mãn tính qua đường da, niêm mạc, hô hấp, tiêu
hóa sẽ dẫn đến sự tổn thương ở da, mắt và niêm mạc
đường hô hấp. Các loại thuốc điều trị ung thư có khả
năng gây độc tế bào, kích thích hay gây tổn thương
cục bộ, gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu và viêm da
[9], [12]. Chất phóng xạ có khả năng gây ảnh hưởng
đến chất liệu di truyền. Cách thức tiếp xúc và thời gian
tiếp xúc với chất thải phóng xạ là các yếu tố quyết
định, ảnh hưởng đối với sức khỏe được biểu hiện
bằng các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt, buồn
nôn cho đến các vấn đề bị đột biến về gen sau này [9].
3. Thực trạng công tác quản lý chất thải rắn y

Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013






58
tế ở các bệnh viện Việt Nam
3.1. Thực trạng phát sinh CTRYT
Khối lượng CTRYT phát sinh có sự thay đổi rất
khác nhau tùy theo từng khu vực, điều kiện kinh tế,
tùy theo từng cách phân loại BV hoặc quy mô BV,
loại hình BV và các thủ thuật chuyên môn, số vật tư
tiêu hao. Song, nhìn chung, lượng CTRYT phát sinh
tại các BV Việt Nam ở mức cao và có xu hướng tăng
hàng năm tại hầu hết các tỉnh trong cả nước [2]. Năm

2010, cả nước có 1.186 BV với công suất 187.843
giường, mỗi ngày phát sinh khoảng 350 tấn
CTRYT/ngày, trong đó có 40 tấn CTRYT nguy
hại/ngày [8]. Đến năm 2012, với 1.361 cơ sở khám,
chữa bệnh thuộc các tuyến Trung ương, tỉnh, huyện,
BV ngành, BV tư nhân, tổng lượng CTRYT phát sinh
hàng ngày là 450 tấn, trong đó 47 tấn là CTRYT nguy
hại [7]. Theo kết quả quan trắc 12 BV phía Nam năm
2007, khối lượng CTRYT tính trung bình dao động từ
0,1 – 0,4 kg/người/ngày. BV Chợ Rẫy trung bình một
ngày thải ra khoảng 2.000 kg CTRYT (cao nhất trong
12 BV khảo sát), số liệu này trong quan trắc năm
2009 là 4.800 kg [19].
Tại BV Đa khoa tỉnh Đắk Lắk, lượng chất thải phát
sinh hàng ngày (tính trung bình 6 tháng đầu năm
2012) đang ở mức cao: 1552,5 kg, tương ứng với
2,07 kg/giường bệnh (biểu đồ 1) trong đó lượng
CTRYTNH là: 0,64 kg/giường bệnh, chiếm 29% (biểu
đồ 2) [16].


Biểu đồ 1: Khối lượng CTRYT/giường bệnh/ngày của BV
Đa khoa Đắk Lắk trong 6 tháng đầu năm 2012 [16]



Biểu đồ 2: Khối lượng CTRYTNH/giường bệnh/ngày của
BVĐK Đắk Lắk trong 6 tháng đầu năm 2012 [16]
3.2. Công tác phân loại, thu gom CTRYT
Ở nước ta, việc phân loại CTRYT từ lúc phát sinh

chưa được thực hiện triệt để. Theo nghiên cứu của
Ngô Kim Chi (2010), tiến hành tại 172 BV của 5 thành
phố: Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng và TP. Hồ
Chí Minh, 100% BV đã tiến hành phân loại CTYT;
hầu hết các BV đã chú trọng đến phân loại và cô lập
vật sắc nhọn (loại A), sử dụng các thùng chứa, hộp
đựng vật sắc nhọn, nhưng chỉ 30,1% BV sử dụng
hộp theo quy định, 49,7% tận dụng các chai nhựa,
hộp kim loại, 3,7% dùng hộp carton, 16,4% dùng các
loại hộp; có 1,7% BV không sử dụng túi chứa rác lây
nhiễm màu sắc theo quy định [6]. Đến nay vẫn còn
hiện tượng phân loại nhầm chất thải gây tốn kém
trong việc xử lý. Nhiều đơn vị chỉ ghi chất thải lây
nhiễm (đưa đi đốt) và chất thải sinh hoạt thông
thường [1], [6]. Toàn bộ 17 BV tại miền Bắc trong
danh sách các cơ sở gây ô nhiễm tại Quyết định
64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 đã thực hiện phân
loại và thu gom ngay tại các khoa/ phòng. Tuy nhiên,
túi và thùng đựng chất thải lây nhiễm không sắc nhọn
là các thùng nhựa thông thường, chỉ đáp ứng màu
sắc, nắp kín và không có biểu tượng hay vạch báo
nào [17].
Thực trạng này tương tự ở BVĐK tỉnh Đắk Lắk.
Hầu hết các khoa phòng đều có đầy đủ dụng cụ
thu/phương tiện cho thu gom phân loại CTYT thu
gom rác thải và tần suất thu gom là 1-2 lần/ngày, tùy
theo khối lượng CTRYT phát sinh. Các tiêu chí như
có túi/thùng thu gom chất thải riêng biệt, thể tích của
túi và độ dày của túi đều đạt 100%, riêng chỉ tiêu về
màu sắc cho dụng cụ thu gom thì chưa có túi mầu

trắng cho chất thải tái chế tại nơi phát sinh (0%).
Ngoài ra, không có vạch báo hiệu ở mức ¾ và dòng
chữ: “không đựng quá vạch này” ở các dụng cụ thu
gom (0%) [16].
3.3. Công tác vận chuyển CTRYT
Kết quả báo cáo tại cả 3 miền Bắc, Trung, Nam
đều có chung điểm hạn chế là thiếu phương tiện vận
chuyển CTRYT đúng quy định. Trong đó, khu vực
miền Bắc và miền Nam, hơn một nửa BV sử dụng
các thùng nhựa chứa rác thông thường, có 2 bánh xe
và có nắp đậy. Một số BV sử dụng loại xe đẩy bằng
kim loại và thường không có nắp đậy. Khu vực miền
Trung, chỉ có 55,7% BV có phương tiện vận chuyển
CTRYT, trong đó chỉ 75% có phương tiện riêng cho
CTRYT lây nhiễm và chất thải thông thường, 77,3%
không có nắp đậy và 55,7% có màu sắc riêng biệt
[17], [20], [21].
Tại BVĐK tỉnh Đắk Lắk, việc vận chuyển CTRYT
chưa đạt yêu cầu do không có phương tiện vận
chuyển riêng CTRYT nguy hại và chất thải thông
thường. Số xe chuyên dụng chỉ đáp ứng được 60%
nhưng không đảm bảo yêu cầu như có nắp đậy,
thùng kín. Đường vận chuyển chất thải không được
quy hoạch riêng, không theo đúng hướng dẫn quyết
định 43/2007/QĐ-BYT (Bảng 2) [16].
Bảng 1: Kết quả đánh giá công tác vận chuyển
CTRYT tại BVĐK tỉnh Đắk Lắk (n=25) [16]
Kg

Kg

Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013







59
Nội dung đánh giá
Kết quả đạt được
Tần số Tỷ lệ (%)
Túi đựng chất thải được buộc kín
trên đường vận chuyển
25 100
CTYTNH và chất thải thông thường
phải được vận chuyển riêng về nơi
lưu trữ của bệnh viện
0 0
Có xe chuyên dụng cho việc vận
chuy
ển CTRYT

15 60
Có quy định giờ vận chuyển chất
thải
25 100
Có quy định đường vận chuyển chất
thải, tránh vận chuyển qua các khu
vực sạch

0 0
Không làm rơi vãi chất thải trên
đường vận chuyển
25 100

3.4. Công tác lưu trữ chất thải rắn y tế
Trên cả nước, chỉ có 53% bệnh viện sử dụng xe
có mái che để lưu trữ CTRYTNH [2]. Khâu lưu trữ
còn thiếu thiết bị làm lạnh, lưu trữ trong thời gian quá
quy định, trang thiết bị chưa đạt yêu cầu [2]. Nhà lưu
trữ chất thải lây nhiễm chủ yếu chỉ đáp ứng tiêu chí
xa buồng bệnh, có diện tích phù hợp, có mái che và
hệ thống thoát nước riêng và khóa cửa, song 60% số
BV không đảm bảo ngăn ngừa được các loài gặm
nhấm thâm nhập. Ngoài ra, có rất ít BV có buồng
lạnh (23,5% BV) và nếu có thì hầu như không sử
dụng [22].
Khác với thực trạng chung của các BV trong cả
nước, khâu lưu trữ CTRYT tại BVĐK tỉnh Đắk Lắk
được thực hiện rất tốt. Ngoài các tiêu chí đánh giá
trong bảng 2, kết quả quan sát trong nghiên cứu tại
BV này còn cho thấy, nhà lưu giữ chất thải có mái
che, có hàng rào bảo vệ, có cửa và có khóa; có
đường để xe chuyên chở chất thải từ bên ngoài đến;
có diện tích phù hợp với lượng chất thải, có hệ thống
thoát nước, tường nền chống thấm, thông khí tốt.
Điểm hạn chế duy nhất ở BV này là chưa có nhà bảo
quản lạnh.
Bảng 2: Kết quả về lưu giữ chất thải rắn y tế của
BV Đa khoa tỉnh Đắk Lắk (n=25) [16]

Nội dung đánh giá
Kết quả đạt
được
Tần số

Tỷ lệ
(%)

Thời gian lưu trữ chất thải tại khoa
phòng không quá 24 giờ
25 100
Có phương tiện rửa tay, bảo hộ, dụng
cụ, hóa chất làm vệ sinh cho nhân viên
thu gom
25 100
Chất thải lây nhiễm, chất thải sinh hoạt,
chất thải tái chế phải được lưu trữ riêng

25 100
Thời gian lưu trữ chất thải tại bệnh viện
không quá 48 giờ
25 100

3.5. Hình thức xử lý CTRYT
Hình thức xử lý CTRYT trong BV nước ta hiện
nay rất đa dạng, phụ thuộc vào quy mô và điều kiện
của từng BV; song, đa số còn lạc hậu. Tỷ lệ BV xử lý
CTRYT bằng lò đốt 2 buồng hoặc sử dụng công nghệ
vi sóng/ nhiệt ướt khử khuẩn CTRYTNH là 29,4%, số
BV hợp đồng với công ty môi trường thuê xử lý là

39,8% và 30,8% BV xử lý bằng lò đốt 1 buồng/ thiêu
đốt thủ công hoặc tự chôn lấp trong khuôn viện BV [7].
Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2011, khối
lượng CTRYTNH được xử lý mới chỉ đạt 68%, tổng
khối lượng chất thải phát sinh. CTRYT xử lý không đạt
chuẩn là 32%, là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng [2].
BVĐK tỉnh Đắk Lắk không gặp khó khăn trong
việc xử lý CTRYT như tình hình chung của nhiều BV
khác trong cả nước. BV hiện sử dụng công nghệ hấp
tiệt trùng hơi nước ở nhiệt độ 150
0
C với công suất từ
100-150kg chất thải trong 90 phút, chi phí vận hành
bình quân xử lý khoảng 3000 đồng/1kg rác, tình trạng
hoạt động hiện tại của thiết bị hiện còn rất tốt, tình
trạng khí thải, nguy cơ ô nhiễm môi trường khi hoạt
động trong mức cho phép. Mỗi ngày bệnh viện vận
hành hấp khoảng 4-5 mẻ rác, phát huy được công
suất tối đa, không để tồn đọng rác quá 48 giờ [16].

4. Thuận lợi và khó khăn trong công tác quản
lý CTRYT tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk
Về thuận lợi, việc quản lý CTRYT tại bệnh viện
được dựa trên cơ sở Quy chế quản lý chất thải y tế
rất rõ ràng, chi tiết tại Quy định 43/2007, đây là thước
đo kiểm tra việc thực hiện quy trình Quản lý chất thải
y tế. Bên cạnh đó, BV đã xây dựng quy định riêng
cho từng khâu trong quy trình, dựa theo tình hình
thực tế nguồn lực và cách bố trí của BV. Công tác tập

huấn phân loại, thu gom và vận chuyển CTRYT được
thực hiện thường xuyên; kết hợp sự giám sát và kiểm
tra của phòng Điều dưỡng BV và Phòng chống nhiễm
khuẩn bệnh viện, nên việc thực hiện của nhân viên,
nhìn chung, đã đáp ứng đúng quy chế. Ngoài ra, sự
ủng hộ của ban lãnh đạo và nhân viên y tế là thuận
lợi rất lớn cho công tác quản lý CTRYT của BVĐK
Đắk Lắk. Đặc biệt, năm 2007, BV được đầu tư hệ
thống xử lý chất thải bằng công nghệ hấp ướt và một
máy nghiền nhỏ rác sau khi đã hấp xong. Với công
nghệ này tình trạng khí thải gây nguy cơ ô nhiễm môi
trường đã cơ bản được giải quyết [16].
Về khó khăn, với cách bố trí khoa/phòng chưa
được hợp lý, kiến trúc cũ với số lượng giường bệnh
chưa đáp ứng đủ với nhu cầu chăm sóc sức khỏe
ngày một tăng của nhân dân thì gánh nặng quản lý
lượng chất thải phát sinh cũng như công tác phân
loại, thu gom và vận chuyển là khó tránh khỏi. Các
trang thiết bị phục vụ việc thu gom, vận chuyển của
BV hiện nay đã có tương đối đủ nhưng bị xuống cấp
nhiều, không đáp ứng được trong bối cảnh lưu lượng
bệnh nhân ngày một tăng thì trong tương lai cần có
sự đầu tư thêm, nếu không cơ sở trang thiết bị sẽ
thiếu và xuống cấp [16].
Bên cạnh khó khăn cơ sở hạ tầng, trang thiết bị,
còn có sự hạn chế về nhân lực và tài chính. Nhân
viên quản lý chất thải bệnh viện hiện nay là kiêm
nhiệm nên hoạt động xử lý chất thải cũng gặp khó
khăn. Như đã trình bày trong phần kết quả, bệnh viện
còn thiếu kinh phí để mua mới các xe vận chuyển

chất thải, việc in biểu tượng chất thải, vạch ¾, chữ

Y HỌC THỰC HÀNH (899) - SỐ 12/2013






60
báo hiệu giới hạn không được thực hiện do làm tăng
kinh phí mua túi đựng chất thải từ 5-10% [16].
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Chất thải rắn y tế không được quản lý tốt sẽ gây ô
nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng tới
sức khỏe con người. Trước thực trạng gia tăng cao
lượng CTRYT hàng năm từ các BV, công tác quản lý
CTRYT từ các BV của nước ta ngày càng được chú
trọng cải thiện; tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập từ
khâu phát sinh, phân loại đến khâu xử lý cuối cùng.
So với thực trạng tại nhiều bệnh viện được báo cáo
bởi Cục Quản lý Môi trường y tế cũng như kết quả
quan trắc của các Viện, BV Đa khoa tỉnh Đắk Lắk có
những điểm làm tốt như việc thực hiện phân loại
đồng bộ, thu gom, vận chuyển và lưu trữ thường
xuyên, với các trang thiết bị tương đối đầy đủ; công
nghệ xử lý an toàn môi trường, phát huy hiệu quả
cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập, như khâu
phân loại mới chỉ phân được thành CTRYT lây nhiễm
và chất thải thông thường, chưa phân loại chất thải

tái chế; khâu thu gom còn để lẫn lộn rác sinh hoạt
vào rác thải lây nhiễm, túi đựng không có vạch giới
hạn ¾; khâu vận chuyển không có lối đi riêng và
phương tiện, xe chuyên dụng chưa đạt yêu cầu; thiếu
nhà lạnh lưu trữ CTRYTNH.
Nguyên nhân của thực trạng này, qua kết quả
điều tra, có nhiều nét tương đồng với các BV khác
trong cả nước. Đó là sự hạn chế cơ sở hạ tầng, trang
thiết bị; sự yếu kém về nhân lực phụ trách chuyên về
quản lý CTRYT; sự thiếu thốn kinh phí vận hành hệ
thống xử lý chất thải.
Từ các kết quả phân tích ở trên, chúng tôi đưa ra
một số khuyến nghị dành cho ban lãnh đạo bệnh
viện:
1. Tận dụng hệ thống xử lý CTRYT vào việc liên
hệ đề xuất hỗ trợ các đơn vị khác xử lý chất thải, qua
đó, tự túc được kinh phí vận hành và bảo quản hệ
thống.
2. Dành kinh phí nhằm cung cấp đầy đủ các
phương tiện vận chuyển (xe chuyên dụng, thùng
đựng rác kín), thay thế các phương tiện thu gom
không đạt yêu cầu (thiếu vạch kẻ).
3. Tập huấn và kiểm tra thường xuyên việc phân
loại, thu gom CTRYT của NVYT các khoa/phòng,
nhấn mạnh việc phân loại riêng biệt CTRYTNH, bổ
sung việc phân loại chất thải tái chế tại nguồn.
4. Xây dựng đường vận chuyển CTRYT riêng,
tránh tình trạng vận chuyển qua khu điều trị hoặc
thang máy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk (2011), Báo cáo
việc thực hiện quy chế quản lý chất thải y tế 2011, Đắk
Lắk.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Báo cáo Môi
trường Quốc gia 2011 - Chất thải rắn, Hà Nội.
3. Bộ Y tế (2007), Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT
ngày 30/11/2007 về việc ban hành Quy chế quản lý chất
thải y tế.
4. Bộ Y tế (2008), Công văn số 7164/BYT-KCB ngày
20/10/2008 của Bộ trưởng BYT chỉ đạo tăng cường triển
khai thực hiện quản lý và xử lý CTYT.
5. Bộ Y tế (2009), "Quyết định số 1873/QĐ-BYT
ngày 28/5/2009 của Bộ Y tế về Kế hoạch bảo vệ môi
trường ngành Y tế giai đoạn 2009-2015".
6. Ngô Kim Chi(2010), Nghiên cứu thực hành quản lý
chất thải y tế và công nghệ xử lý tại Việt Nam, Viện Hóa
học các Hợp chất thiên nhiên, Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam, chủ biên.
7. Cục Quản lý môi trường y tế (2012), Báo cáo
chuyên đề về công tác quản lý chất thải y tế và định
hướng hoạt động trong giai đoạn tới, Hội thảo chuyên đề
về Công tác quản lý chất thải y tế.
8. Điều 39, Luật Bảo vệ Môi trường của nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 52/2005/QH11 ngày
29/11/2005.
9. Nguyễn Võ Hinh (2013), "Nguy cơ môi trường ô
nhiễm ảnh hưởng sức khỏe do chất thải y tế".
10. Lê Thị Thanh Hương (2011), Bài giảng quản lý
chất thải rắn và chất thải y tế, Bài giảng Sức khỏe môi
trường, 2011.

11. Nguyễn Huy Nga (2005), "Nguy cơ từ khí thải
của lò đốt chất thải y tế", Thông tin Làng văn hóa sức
khỏe. 7 (3/2005), tr. 20-21.
12. Trần Thị Minh Tâm (2007), Thực trạng quản lý,
ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường trong
các bệnh viện huyện tỉnh Hải Dương, Luận án Tiến sỹ y
học, trường Đại học Y Hà Nội.
13. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số
256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 về việc phê duyệt
chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020.
14. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định
30/2008/QĐ-TTG ngày 22/2/2008 về phê duyệt Quy
hoạch phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
15. Thủ tướng Chính phủ (2012), "Quyết định số
170/QĐ-TTg ngày 8/2/2012 về việc phê duyệt Quy
hoạch tổng thể hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại
đến năm 2025".
16. Nguyễn thị Bích Trang (2012), Thực trạng quản
lý chất thải rắn y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk,
luận văn thạc sỹ Quản lý bệnh viện, Trường đại học Y tế
công cộng.
17. Viện Pasteur Nha Trang, (2012), Báo cáo tình
hình thực hiện quy chế quản lý chất thải y tế tại các
bệnh viện của các tỉnh duyên hải miền Trung, những tồn
tại và giải pháp.
18. Viện Trang thiết bị và Công trình y tế (2006), Kết
quả điều tra, đánh giá thực trạng tác động môi trường của
hệ thống lò đốt chất thải bệnh viện và một số thiết bị phát

xạ dùng trong y tế, Báo cáo một số chuyên đề về Bảo vệ
môi trường ngành y tế giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
19. Viện Vệ sinh Y tế công cộng Tp. Hồ Chí Minh
(2010), Báo cáo kết quả quan trắc môi trường y tế tại
một số tỉnh/thành khu vực phía Nam từ năm 2007 -
2009, Báo cáo một số chuyên đề về bảo vệ môi trường
ngành y tế giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
20. Viện Vệ sinh Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh,
(2012), Báo cáo Thực trạng công tác quản lý chất thải
trong các cơ sở y tế khu vực miền Nam qua kết quả
quan trắc môi trường năm 2012.

×