ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THÙY DƯƠNG
TỘI XÂM PHẠM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THÙY DƯƠNG
TỘI XÂM PHẠM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG
VÀ BẢO VỆ QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ
5
1.1.
Khái niệm quyền bình đẳng của phụ nữ
5
1.2.
Sự cần thiết phải bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ
7
1.3.
Khái quát sự phát triển các quy định của pháp luật về quyền
bình đẳng của phụ nữ
12
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI XÂM PHẠM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ
NỮ VÀ THỰC TRẠNG XỬ LÝ LOẠI TỘI PHẠM NÀY
23
2.1.
Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội xâm
phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
23
2.1.1.
Khái niệm tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
23
2.1.2.
Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm quyền bình
đẳng của phụ nữ
24
2.1.3.
Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với
một số tội phạm khác
31
2.1.3.1.
Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với tội
hành hạ người khác (Điều 110 Bộ luật hình sự)
31
2.1.3.2.
Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với tội
làm nhục người khác (Điều 121 Bộ luật hình sự)
36
2.1.3.3.
Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với tội
cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ
(Điều 146 Bộ luật hình sự)
40
2.1.3.4.
Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với tội
ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ, chồng, con,
cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151 Bộ luật
hình sự)
47
2.2.
Thực trạng xử lý các hành vi xâm phạm quyền bình đẳng
của phụ nữ
51
Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI XÂM PHẠM QUYỀN
BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ
68
3.1.
Hoàn thiện pháp luật
68
3.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
70
3.2.1.
Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng
trong đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm có liên
quan đến vấn đề bình đẳng giới
70
3.2.2.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
75
3.2.3.
Nâng cao trình độ, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ
làm công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm
pháp luật liên quan đến vấn đề bình đẳng giới
79
KẾT LUẬN
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85
1
MỞ ĐẦU
Quyền con người là một trong những giá trị nhân bản cao nhất được
tất cả các quốc gia trên thế giới đều đề cao và bảo vệ. Bảo vệ con người cũng
là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc. Mỗi quốc gia đều xây dựng một hệ thống pháp luật riêng cho quốc
gia của mình dựa trên các điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội và các giá trị
truyền thống văn hóa của quốc gia để đảm bảo quyền con người được thực
hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt
Nam, danh nhân văn hóa thế giới là người sớm quan tâm đến vai trò, vị thế
của người phụ nữ, là một trong những người đi đầu, giương cao tư tưởng
chống áp bức và nô dịch phụ nữ. Trong suốt quá trình tìm đường cứu nước và
lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập, tự do, xây dựng chế đội mới, có một
tư tưởng xuyên suốt, có một điều luôn thường trực trong tâm khảm của Người
là làm thế nào, làm gì để giải phóng phụ nữ nước ta, để thực hiện nam nữ bình
quyền, để quyền lợi của người phụ nữ thật sự được tôn trọng, thật sự được
bảo vệ. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ.
Xã hội càng phát triển, bình đẳng nam nữ ngày càng được bảo đảm.
Đặc biệt trong đời sống pháp luật hiện nay, việc phát huy và bảo vệ quyền
bình đẳng của phụ nữ đang ngày càng được các cơ quan bảo vệ pháp luật
quan tâm và đề cao. Bộ luật hình sự 1999 đã quy định tại Điều 130 tội xâm
phạm quyền bình đẳng của phụ nữ; đồng thời cụ thể hóa các chế tài nhằm
đảm bảo quyền con người cơ bản cho phụ nữ. Tuy nhiên, quyền bình đẳng
của phụ nữ là vấn đề mà giữa pháp luật và thực tiễn còn khoảng cách rất lớn.
Làm thế nào để đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong xã hội
ngày nay vẫn gặp nhiều khó khăn, thử thách. Ở một số nơi vẫn còn tình
trạng vi phạm pháp luật, đối xử không bình đẳng nam nữ, tình trạng ngược
2
đãi, hành hạ phụ nữ, tình trạng bạo lực gia đình… vẫn diễn ra với nhiều hình
thức và thủ đoạn khác nhau. Pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật hình
sự, đã quy định nhiều chế tài xử lý những hành vi xâm phạm quyền bình
đẳng của phụ nữ, song trên thực tế, số vụ án được xử lý bằng các biện pháp
hình sự trong những năm gần đây hầu như ít được thực hiện. Việc nghiên
cứu một số vấn đề lý luận về tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, các
dấu hiệu pháp lý của tội phạm, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, tìm ra
những nguyên nhân để đề ra những giải pháp khắc phục trong việc xử lý các
hành vi phạm tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là việc làm cần
thiết. Đó là lý do tác giả lựa chọn nội dung "Tội xâm phạm quyền bình
đẳng của phụ nữ theo luật hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu luận
văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực xã hội học, tội phạm học. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu hoàn thiện về tội xâm phạm quyền
bình đẳng của phụ nữ với góc độ khoa học pháp lý cụ thể để từ đó đề xuất
những vấn đề liên quan đến cải cách pháp lý nhằm đảm bảo các quyền bình
đẳng của nam và nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa,
xã hội. Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ hầu hết được đề cập và
phân tích trong một số công trình nghiên cứu trong đó có đề cập riêng đến
"Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ" tại Điều 130 Bộ luật hình sự
năm 1999. Như: Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm, của Thạc sĩ Phạm
Văn Beo - Đại học Cần Thơ - 2008; Về các tội xâm phạm quyền tự do, dân
chủ của công dân trong Luật Hình sự Cộng hòa Liên bang Nga, Trung Quốc
và Thụy Điển, của Tiến sĩ Trịnh Tiến Việt, Trần Thị Quỳnh - Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội (đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội,
Luật học 26, 2010… Ngoài ra, "Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ"
3
còn được phân tích trong các giáo trình và sách tham khảo như: Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2003 của tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên; Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam, (tập II) của tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên,
Nxb Công an nhân dân, 2006
3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội xâm
phạm quyền bình đẳng của phụ nữ trong luật hình sự Việt Nam. Đề tài giải
quyết một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ khái niệm, sự cần thiết phải bảo vệ quyền bình đẳng
của phụ nữ và khái quát sự phát triển các quy định pháp luật về quyền bình
đẳng của phụ nữ.
- Phân tích làm rõ những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ và phân biệt tội phạm này với một
số tội phạm khác có liên quan.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, trên cơ sở phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp
tổng hợp, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội xâm phạm quyền
bình đẳng của phụ nữ trong các công trình nghiên cứu
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
4
Chương 1: Một số vấn đề chung về quyền bình đẳng và bảo vệ quyền
bình đẳng của phụ nữ.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội xâm phạm
quyền bình đẳng của phụ nữ và thực trạng xử lý loại tội phạm này.
Chương 3: Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự và một số giải pháp
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền bình
đẳng của phụ nữ.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG
VÀ BẢO VỆ QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ
1.1. Khái niệm quyền bình đẳng của phụ nữ
Nói đến quyền bình đẳng của phụ nữ nghĩa là nói đến sự bình đẳng
giữa nam và nữ, tức là sự bình đẳng giữa hai giới tính. Để làm rõ khái niệm
này cần phải phân tích nội hàm của hai khái niệm cấu thành nên nó: khái niệm
"bình đẳng" và khái niệm "giới".
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Bình đẳng là sự được đối xử như
nhau về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa… không phân biệt thành phần và địa
vị xã hội, trong đó trước tiên và cơ bản nhất là bình đẳng trước pháp luật.
Như vậy, khái niệm bình đẳng nghĩa là nói đến sự công bằng, ngang
bằng giữa các chủ thể, phải gánh chịu (nghĩa vụ) hoặc được thụ hưởng (quyền
lợi) như nhau.
Theo Chương trình bình đẳng giới khu vực Ðông Nam Á, một chương
trình khu vực thuộc Tổ chức phát triển Quốc tế Canada (CIDA) hỗ trợ việc
xuất bản cuốn tài liệu: "Thúc đẩy sự thay đổi: Cơ sở cho lồng ghép Giới:
Chương trình bình đẳng Giới khu vực Đông Nam Á". Nguyên bản tiếng Anh
của tài liệu này là kỷ yếu của "Hội thảo chuyên ngành về lồng ghép giới
dành cho các bộ máy quốc gia về phụ nữ", được tổ chức tại Seun, Indonexia
từ ngày 20-25/02/2000. Tác giả SEAGEP đã đưa ra khái niệm "giới" được
hiểu như sau: Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ
như vai trò, thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến
thông qua quá trình học tập và khác nhau theo từng nền văn hóa và thời
gian, do vậy giới có thể thay đổi được. Ví dụ: nữ thường để tóc dài, nam
thường để tóc ngắn.
6
Khái niệm "giới" và "giới tính" cũng được giải nghĩa tại khoản 1, 2
Điều 5 Luật Bình đẳng giới của Việt Nam năm 2006:
1. Giới, chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất
cả các mối quan hệ xã hội.
2. Giới tính, chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ [37].
Như vậy, khái niệm giới chỉ đến vai trò xã hội của nam và nữ. Cả nam
giới và nữ giới đóng nhiều vai trò trong xã hội và các vai trò này là khác nhau
theo giới. Các vai trò giới là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi
ở phụ nữ và nam giới liên quan đến những đặc điểm và năng lực mà xã hội
coi là thuộc về nam giới hoặc thuộc về phụ nữ trong một xã hội hay một nền
văn hóa cụ thể nào đó.
Trong xã hội có một sự phân công lao động giữa nam và nữ. Sự phân
công lao động theo giới đề cập đến công việc khác nhau của nam và nữ trong
gia đình, trong sản xuất và trong cộng đồng. Sự khác nhau này có liên quan
đến vị trí quyền lực của mỗi giới và che giấu sự tồn tại đáng kể của sự bất
bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ, nó ảnh hưởng và khẳng định vị trí phụ
thuộc của phụ nữ.
Như vậy, giới là một khái niệm bao hàm một nội dung khá đa dạng thể
hiện sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và nữ giới như vai trò, thái độ,
quan niệm, sự phân công lao động, sức khỏe. Vai trò của cả nam và nữ là
khác nhau nên cả hai có những vị trí xã hội không giống nhau. Tuy nhiên, sự
khác biệt tự nhiên đó không phải là cơ sở để phân biệt về địa vị pháp lý giữa
hai giới. Vậy nên quyền bình đẳng giới là quyền được tất cả các văn bản pháp
lý quốc tế về quyền con người thừa nhận.
Kết hợp nội hàm khái niệm "bình đẳng" và khái niệm "giới" có thể
hiểu một cách đơn giản: bình đẳng giới là sự nhìn nhận, đối xử công bằng,
ngang bằng về mọi phương diện giữa hai giới nam và nữ. Giống như Luật
7
bình đẳng giới năm 2006 định nghĩa: "Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị
trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của
mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau
về thành quả của sự phát triển đó" [37, Khoản 3 Điều 5].
Quyền bình đẳng giới là quyền của nam và nữ có vị trí, vai trò xã hội
ngang nhau, được hưởng lợi ích và gánh chịu nghĩa vụ xã hội như nhau. Do
đó, quyền bình đẳng của phụ nữ là quyền phụ nữ có vị trí ngang bằng với
nam giới, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả
của sự phát triển đó.
"Bình đẳng giới" là một khái niệm được đề cập đến trong hầu hết các
lĩnh vực đời sống xã hội. Mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử
về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và
phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và
thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình. Xã hội chúng ta đang ngày càng hướng đến sự
công bằng giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Như vậy, quyền
bình đẳng của phụ nữ thực chất là một mặt trong công cuộc đấu tranh chung
của quyền con người. Vì vậy, quyền bình đẳng của phụ nữ được xác định là
vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ đối với cuộc sống và sự phát
triển của phụ nữ mà còn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và toàn nhân
loại. "Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với
phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ" [32, Điều 63].
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ
Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một
bộ phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động trong xã
hội. Bằng lao động sáng tạo của mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu cho xã
8
hội, làm phong phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò không
thể thiếu của mình trong các lĩnh vực đời sống xã hội, cụ thể là:
Trong lĩnh vực hoạt động vật chất, phụ nữ là một lực lượng trực tiếp
sản xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ tái sản xuất ra của cải
vật chất, phụ nữ còn tái sản xuất ra bản thân con người để duy trì và phát triển
xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai trò sáng tạo nền văn
hóa nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nước nào, dân tộc nào cũng
có sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ. Song song với
những hoạt động góp phần sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, phụ
nữ còn tích cực tham gia đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, vì
sự tiến bộ của nhân loại.
Trong một xã hội văn minh, người phụ nữ đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Phụ nữ không chỉ giỏi trong công việc nhà mà còn tích cực tham gia và
gặt hái nhiều thành công rực rỡ trong các lĩnh vực xã hội. Trong buổi tiếp các
trưởng đoàn dự cuộc họp mạng lưới lãnh đạo nữ lần thứ 11 (WLN) của Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) diễn ra vào tháng 9-2006
tại Hà Nội, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định, Ðảng, Nhà
nước và nhân dân Việt Nam nhận thức rõ về vai trò của phụ nữ trong phát
triển và hội nhập quốc tế. Trong bài viết "Quan điểm, mục tiêu của Đảng về
xây dựng đội ngũ nữ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước" của TS. Nguyễn Bắc Sơn, có dẫn lời của nguyên Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết: Ở Việt Nam, vai trò của phụ nữ rất quan trọng.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phụ nữ tham gia rất tích cực trong
nhiều hoạt động. Trong thời kỳ hòa bình và xây dựng đất nước, phụ nữ giữ
cương vị lãnh đạo ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Vai
trò của phụ nữ hoàn toàn xứng đáng với tám chữ vàng mà Ðảng, Nhà nước và
nhân dân dành tặng: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
Thật khó có thể kể hết những gì mà phụ nữ đóng góp cho gia đình và
xã hội. Trước hết chúng ta phải thừa nhận vị trí hết sức quan trọng của phụ nữ
9
trong gia đình. Họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia
đình. Không chỉ chăm sóc, giúp đỡ chồng tại gia đình, người vợ còn đưa ra
những lời khuyên thiết thực giúp chồng trong công việc, đóng góp vào thành
công trong sự nghiệp của chồng. Là những người mẹ hết lòng vì con cái, họ
thực sự là những tấm gương cho con cái noi theo. Người mẹ luôn sẵn sàng hy
sinh những lợi ích của bản thân với ước nguyện cho con cái trưởng thành và
thành công trong cuộc sống. Trong cuộc sống thường nhật đầy khó khăn,
chúng ta tìm thấy ở những người phụ nữ, những người vợ, người mẹ sự yên
tĩnh trong tâm hồn và sự cân bằng bình yên trong cuộc sống. Chính họ đã tiếp
sức cho chúng ta vượt qua những khó khăn để sống một cuộc sống hữu ích.
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50,5% dân số và 50,6% lực lượng lao
động xã hội. Trong xã hội phong kiến trước đây, vai trò của nam giới được
coi trọng và đề cao bao nhiêu thì phụ nữ lại chịu thiệt thòi từ nhiều phía bấy
nhiêu. Họ không được bình đẳng, bình quyền trong gia đình và ngoài xã hội,
vai trò và tiếng nói của họ hầu như không được khẳng định, phụ nữ hoàn toàn
bị lệ thuộc vào người đàn ông, với những định kiến nặng nề, khắc nghiệt.
Những ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến phụ nữ, nhất là với trẻ em gái do
quan niệm và cách ứng xử như nói trên, đến nay đã được thay đổi một cách
căn bản. Tuy nhiên, thực trạng bị đối xử bất bình đẳng của phụ nữ vẫn tồn tại
ở nhiều trong xã hội, đặc biệt là những vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa do
nhận thức yếu kém, phụ nữ không phát huy được khả năng, vai trò đối với xã
hội, khiến cho người phụ nữ bị tụt hậu so với nam giới và chính với môi
trường xung quanh mình. Do đó bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ để thúc
đẩy xã hội tiến bộ.
Chính vì vậy, giải phóng phụ nữ ra khỏi những ràng buộc, quan niệm
lạc hậu, đồng thời tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ bình đẳng, tiến bộ và phát
triển, thực hiện chống phân biệt đối xử với phụ nữ là cái gốc, là cơ sở để tạo
cơ hội cho phụ nữ tiến bộ. Bình đẳng giới trở thành mục tiêu của sự phát
triển, đồng thời nó cũng trở thành vấn đề trung tâm của phát triển, là một yếu
10
tố để nâng cao khả năng tăng trưởng của quốc gia, xóa đói giảm nghèo và
quản lý nhà nước có hiệu quả.
Ở Việt Nam, các quyền cơ bản của phụ nữ đã và đang được thực hiện
trên thực tế và được Hiến pháp, pháp luật Nhà nước bảo vệ. Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đã và đang làm tất cả những gì có thể làm được nhằm thực
hiện ngày càng tốt hơn dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, đồng thời góp phần
tích cực vào việc giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền trên thế giới.
Những năm qua, cùng với sự phát triển không ngừng về mọi mặt của đất
nước, các quyền cơ bản của phụ nữ cũng ngày càng được hoàn thiện cả về
mặt pháp lý, nội dung và điều kiện thực hiện. Xem xét một cách tổng quát nội
dung hệ thống pháp luật nước ta, có thể nói rằng, qua từng giai đoạn phát triển
của đất nước, căn cứ vào những điều kiện cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, trình độ dân trí của nhân dân, Nhà nước Việt Nam luôn luôn tôn trọng
những nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và các công ước quốc tế
về quyền con người nói chung và các quyền cơ bản của phụ nữ nói riêng.
Pháp luật Việt Nam trong những năm qua đã từng bước được hoàn
thiện theo hướng ngày càng mở rộng và tăng cường bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân trên mọi lĩnh vực, thể hiện ngày càng đầy đủ và bảo vệ
ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người đặc biệt là bảo vệ quyền
bình đẳng của phụ nữ. Kể từ năm 1946 đến nay, Hiến pháp nước ta đã được
sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1959, 1980, 1992 và 2001, với những điều
khoản quy định rõ ràng về các quyền con người được Hiến pháp bảo vệ: các
quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; các quyền riêng của từng
giới xã hội, đặc biệt là của trẻ em, phụ nữ, các dân tộc thiểu số và quyền bình
đẳng trước pháp luật của các tôn giáo.
Điều 69 Hiến pháp nước năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001),
khi nói về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã quy định như sau:
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin,
11
có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật" [35, Điều 69].
Điều 71 Hiến pháp quy định:
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được
pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách Nhà nước [35, Điều 70].
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân,
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp
luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của công dân [35, Điều 71].
Điều 130 Bộ luật hình sự quy định như sau: "Người nào dùng vũ lực
hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính
trị, kinh tế, khoa học, văn hóa, xã hội thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm" [33].
Như vậy, ở Việt Nam, các quyền cơ bản của con người đặc biệt là
quyền bình đẳng của phụ nữ đã và đang được thực hiện trên thực tế và được
Hiến pháp, pháp luật bảo vệ. Bộ luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt
đối với người phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân. Với nhiệm vụ và phạm vi quy định như vậy thì việc xác
định vấn đề giới, dự báo tác động giới, xác định trách nhiệm, nguồn lực để
giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự điều
chỉnh nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới là việc làm cần thiết.
12
Các văn bản pháp lý quan trọng của quốc tế cũng đã khẳng định quyền
bình đẳng của phụ nữ (như Hiến chương của Liên hiệp quốc, Tuyên bố toàn
cầu về nhân quyền, Công ước Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ ngày 18/12/1979 (CEDAW).
1.3. Khái quát sự phát triển các quy định của pháp luật về quyền
bình đẳng của phụ nữ
Trên thế giới, quan điểm giới có nguồn gốc từ các lý thuyết nữ quyền
xuất hiện và phát triển rất sôi động ở các xã hội phương Tây, bắt đầu từ giữa
thế kỷ XX. Lý thuyết nữ quyền tạo nên các phong trào xã hội mạnh mẽ, đấu
tranh chống lại sự thống trị của nam giới, phê phán quyết liệt chế độ áp bức
phụ nữ, đòi quyền lợi cho phụ nữ, tạo lập bình đẳng giới. Mặc dù có chung
mục đích là vì sự phát triển của phụ nữ chống lại chế độ nam trị, nhưng lý
thuyết nữ quyền có nhiều trường phái khác nhau; thậm chí, có những trường
phái mâu thuẫn nhau gay gắt. Có thể nêu một số lý thuyết nữ quyền có ảnh
hưởng mạnh đến xã hội phương Tây thời gian qua là: Nữ quyền tự do, Nữ
quyền mác-xit, Nữ quyền xã hội chủ nghĩa, Nữ quyền phúc lợi, Nữ quyền
triệt để, Nữ quyền hiện sinh, Nữ quyền phân tâm; và gần đây xuất hiện một
số lý thuyết nữ quyền mới, như: Nữ quyền hậu hiện đại, Nữ quyền da đen, Nữ
quyền phụ nữ thế giới thứ ba
Chính các lý thuyết nữ quyền này đã tác động đến nhiều khía cạnh
khác nhau của đời sống xã hội, đã tạo nên những quan điểm lý luận và làn
sóng nữ quyền đấu tranh giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới rất sôi động ở
các xã hội này hơn một nửa thế kỷ qua. Đó là làn sóng Phụ nữ trong phát
triển (WID) xuất hiện vào đầu những năm 70, Phụ nữ và phát triển (WAD)
xuất hiện vào cuối những năm 70, Giới và sự phát triển (GAD) xuất hiện vào
những năm 80 của thế kỷ trước và ngày càng được điều chỉnh, bổ sung và tiếp
tục phát triển. Trong ba quan điểm tạo nên những cuộc tranh luận nữ quyền
và phong trào xã hội ở các nước phát triển phương Tây thì WAD và GAD
13
được hình thành trên cơ sở lý luận mác-xit và xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt,
quan điểm GAD, sau khi xuất hiện đã tạo nên phong trào xã hội rộng lớn và
có đóng góp tích cực đến sự phát triển không chỉ của phụ nữ mà của cả xã
hội, không chỉ ảnh hưởng mạnh ở xã hội phương Tây phát triển mà còn ở
nhiều xã hội đang phát triển, nhất là châu Á, châu Phi và Nam Mỹ.
Cùng với quá trình giao lưu và hội nhập, vào đầu những năm 90 của
thế kỷ XX, bằng nhiều con đường khác nhau, quan điểm giới được nhanh
chóng du nhập và truyền bá vào Việt Nam. Sự xuất hiện cách tiếp cận giới
chính là bước đột phá quyết định sự phát triển mạnh mẽ và ấn tượng của khoa
học nghiên cứu về phụ nữ và cùng với nó là sự biến đổi nhanh chóng quan
niệm, thái độ, hành vi của xã hội và thực tiễn tạo lập bình đẳng giới trong mọi
lĩnh vực của xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, qua giao lưu và hội nhập, các lý
thuyết nữ quyền từng bước được truyền bá vào Việt Nam và sự truyền bá này
ngày càng mạnh mẽ và đa dạng. Xem xét quá trình và xu hướng nghiên cứu
Giới ở Việt Nam thời gian qua, có thể thấy có ba thời kỳ tương đối rõ rệt.
Thời kỳ thứ nhất là 5 năm đầu của thập niên cuối thế kỷ XX, thời kỳ thứ hai
là 5 năm cuối thế kỷ và thời kỳ thứ ba là những năm đầu của thế kỷ XXI. Hai
thời kỳ sau, việc nghiên cứu và truyền bá về giới nói riêng và phong trào giải
phóng phụ nữ ở nước ta nói chung chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hai sự kiện
quan trọng. Đó là Cương lĩnh hành động Bắc Kinh và các mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ. Quan điểm giới mới được du nhập vào Việt Nam nhưng đã có
tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự du nhập và
truyền bá quan điểm giới đã trải qua ba giai đoạn với những xu hướng và đặc
trưng khác nhau. Để nâng cao tác động của quan điểm giới thiết thực góp
phần tạo lập sự bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ trong đời sống xã hội, cần
thực hiện một loạt giải pháp vừa tổng thể vừa cụ thể.
Sau gần hai chục năm du nhập vào Việt Nam, quan điểm giới đã
nhanh chóng được tiếp nhận và triển khai sâu rộng trong nhiều lĩnh vực của
14
đời sống xã hội. Thực tế, vấn đề giới đã trở thành mối quan tâm chung của xã
hội và trở thành phong trào thực tiễn sâu rộng của phụ nữ Việt Nam. Mặc dù
đã có sự chuyển biến tích cực trong quan hệ giới, địa vị, đời sống của người
phụ nữ Việt Nam đã từng bước được nâng cao, cải thiện cùng với những
thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới nhưng sự nghiệp giải phóng phụ nữ
và tạo lập bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn là những vấn đề bức xúc, cần nhiều
nỗ lực hơn nữa của cả hai giới và của cả xã hội.
Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu về văn hóa cũng cho thấy,
ảnh hưởng của các định kiến bất bình đẳng với phụ nữ của Nho giáo ở Việt
Nam không nặng nề như ở Trung Quốc, Triều Tiên hay Nhật Bản Dẫn
chứng sinh động cho nhận định này có thể tìm thấy trong Bộ luật Hồng Đức
(đời Hậu Lê). Mặc dù được ban hành từ thế kỷ XV, song Bộ luật nổi tiếng này
đã thừa nhận một số quyền dân sự của phụ nữ như quyền được ly hôn, tái hôn,
quyền thừa kế tài sản, quyền được chia tài sản chung trong hôn nhân, quyền
được bảo vệ về tính mạng, danh dự, nhân phẩm Cùng với nhiều quy định
khác, những quy định kể trên thể hiện sự tiến bộ nổi bật trên phương diện bảo
đảm nhân quyền của Bộ luật Hồng Đức so với pháp luật của các nước trên thế
giới - điều mà ngay các học giả Phương Tây cũng phải thừa nhận. Bộ luật
Hồng Đức có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Pháp
luật ấy về cơ bản được duy trì để thi hành ở những thế kỷ sau, cho đến khi nhà
Nguyễn ban hành bộ luật Gia Long thì uy tín, tinh thần những điều khoản luật
Hồng Đức vẫn còn sống trong dân gian. Bộ luật ấy đã có những quy định
tương đối tiến bộ, công nhận cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến một
số quyền lợi và phần nào bảo vệ họ đối với thái độ "trọng nam khinh nữ".
Tính đặc thù của "Quốc triều hình luật" thể hiện rõ trong hai chương "Hộ
hôn" và "Điền sản". Qua hai chương này, các nhà làm luật đã coi trọng cá
nhân và vai trò của người phụ nữ - điều mà các bộ luật trước và sau không
mấy quan tâm. Có 53/722 điều luật (7%) bàn về hôn nhân - gia đình; 30/722
điều luật (4%) bàn về việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Những
15
điều luật này ít nhiều đã đề cập đến một số quyền lợi của người phụ nữ trong
xã hội và trong gia đình.
Điều 322 - "Quốc triều hình luật" quy định: "Con gái thấy chồng chưa
cưới có ác tật có thể kêu quan mà trả đồ sính lễ", nếu "con rể lăng mạ cha mẹ
vợ, đem thưa quan, cho ly dị" [40]. Trong quyền thừa kế tài sản của cha mẹ để
lại, pháp luật nhà Lê không phân biệt con trai - con gái. Nếu cha mẹ mất cả thì
lấy 1/20 số ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho người con trưởng giữ,
còn lại chia đều cho các con (Điều 388); "người giữ hương hỏa có con trai
trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con trai trưởng thì dùng con gái
trưởng" (Điều 391). "Ruộng hương hỏa giao cho con trai, cháu trai, nếu
không có thì giao cho cháu gái ngành trưởng" [40].
Về việc áp dụng hình phạt "ngũ hình" có sự phân biệt giữa đàn ông và
đàn bà: không áp dụng hình phạt "trượng" cho đàn bà và áp dụng riêng từng
loại tội "đồ" cho đàn ông và đàn bà (Điều 1 - Quốc triều hình luật). Có thể
khẳng định, Quốc triều hình luật là di sản văn hóa của dân tộc, hàm chứa
nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử, xã hội, phong tục của một giai đoạn lịch sử
trong chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam
Lịch sử đấu tranh giành quyền bình đẳng cho phụ nữ đã trải qua chặng
đường dài kể từ khi phụ nữ tham gia những cuộc tuần hành trong phong trào
vận động quyền bầu cử của phụ nữ vào thế kỷ 19. Một trong những bước tiến
quan trọng của thế giới trong thế kỷ 20 là sự ra đời Công ước Liên hợp quốc
về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) ngày
18/12/1979 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 3/12/1981. CEDAW đảm bảo đầy
đủ sự công bằng cho phụ nữ, thể hiện qua những quy định cụ thể trong Công
ước, bao gồm hệ thống luật pháp, quyền bầu cử, chăm sóc sức khỏe, giáo dục,
việc làm, các quyền cơ bản của con người. CEDAW cũng yêu cầu các quốc
gia cần tiến hành các biện pháp chống lại nạn buôn bán, bóc lột phụ nữ và trẻ
em gái đang diễn ra khá phổ biến. Nhận thức rõ vai trò và vị thế của người
16
phụ nữ, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới đã phê
chuẩn và tham gia Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) ngày 27/11/1981.
Công ước CEDAW là văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người
nêu ra vấn đề quyền sinh sản của phụ nữ, vấn đề văn hóa và truyền thống có
ảnh hưởng đến việc hình thành vai trò về giới và vấn đề phụ nữ có quyền
nhập, giữ hoặc thay đổi quốc tịch của họ và con cái nếu họ muốn. Việc thực
hiện CEDAW trong 30 năm qua đã tạo ra những chuyển biến tích cực, đạt
được một số thành tựu đáng kể trong nhận thức và thực tiễn, góp phần quan
trọng vào việc cải thiện vai trò của phụ nữ tại nhiều nước trên thế giới. Bên
cạnh Công ước CEDAW, Cương lĩnh hành động Bắc Kinh ra đời năm 1995
đóng vai trò như một khuôn khổ định hướng cho việc đảm bảo bình đẳng giới
và tăng quyền năng cho phụ nữ ở cả trên các lĩnh vực công và tư, với các cơ
quan nhà nước và ngoài nhà nước. Có thể xem sự ra đời của Công ước
CEDAW là kết quả hơn 30 năm đấu tranh của Ủy ban về địa vị phụ nữ Liên
hợp quốc (CSW). Ủy ban được thành lập năm 1946 nhằm giám sát địa vị và
nâng cao quyền lợi của phụ nữ. Hoạt động của Ủy ban đã góp phần thúc đẩy
bình đẳng giới ở những nơi mà phụ nữ chưa được bình quyền như nam giới.
Kết quả của những nỗ lực vì sự tiến bộ của phụ nữ là sự ra đời một số tuyên
bố và điều ước quốc tế, trong đó CEDAW là văn kiện quan trọng và toàn diện
nhất về quyền bình đẳng của phụ nữ.
Trong phần mở đầu, Công ước thừa nhận một cách rõ ràng rằng "sự
phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nơi" và nhấn mạnh sự
phân biệt đối xử "vi phạm các nguyên tắc về quyền bình đẳng, xúc phạm tới
nhân phẩm con người". Sự phân biệt đối xử đã được định nghĩa ở Điều I là
"bất kỳ sự phân biệt, loại trừ, hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự và các lĩnh vực khác".
Công ước còn khẳng định rõ: tất cả các hình thức phân biệt đối xử đều bị lên
án và các quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp, bao gồm
17
cả biện pháp pháp luật, nhằm bảo đảm cho phụ nữ được thực hiện và thụ
hưởng đầy đủ quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam
giới (Điều 2 và Điều 3).
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 ghi rõ: "Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc". Tuyên ngôn của cách mạng tư sản Pháp (1789)
tuyên bố: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Những lời tuyên bố trong các tuyên
ngôn nói trên đã khẳng định sự mong muốn của con người, của công dân-một
khát vọng tột bậc đó là sự bình đẳng.
Thông qua nhiều diễn đàn quốc tế khác nhau mà đặc biệt là Hội nghị
thế giới lần thứ hai về quyền con người ở Viên (Áo) trong năm 1993, bạo lực
gia đình ngày càng được nhìn nhận như một trở ngại đối với sự bình đẳng và
là sự vi phạm thô bạo không thể chấp nhận được đối với nhân phẩm và các
quyền con người. Liên hợp quốc trong năm 1999 đã thông qua ngày 25 tháng 11
hàng năm là Ngày Quốc tế về xóa bỏ bạo lực chống lại phụ nữ.
Sống trong một đất nước đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược do các thế lực thù địch gây ra và do đó, cũng là một quốc gia dân tộc bị
vi phạm lớn nhất về quyền con người, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam hiểu
rằng, quyền con người nói chung và quyền bình đẳng của phụ nữ nói riêng
vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung của cả nhân loại, được ghi
trong Hiến chương Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và
cộng đồng quốc gia dân tộc. Vì vậy, trong một thế giới toàn cầu hóa kinh tế
và ngày càng phát triển đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con
người, cần có sự kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật
pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội
và những giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của mỗi
18
quốc gia dân tộc. Đồng thời, cần có sự nhìn nhận toàn diện đối với tất cả các
quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của phụ nữ trong một tổng
thể hài hòa, không nên xem nhẹ bất cứ quyền nào.
Việc bảo đảm và thúc đẩy thực hiện quyền con người trước hết là bảo
vệ quyền bình đẳng của phụ nữ là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia
dân tộc. Các quốc gia có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong nước
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến
chương Liên hợp quốc, có tính đến hoàn cảnh của quốc gia mình để bảo đảm
cho người dân được hưởng thụ quyền con người một cách tốt nhất. Thế
nhưng, do khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển,
giá trị truyền thống văn hóa… nên cách thực hiện quyền con người của mỗi
quốc gia có thể khác nhau. Sự hợp tác và đối thoại giữa các quốc gia để thúc
đẩy việc thực hiện và bảo vệ quyền con người là một yêu cầu cần thiết và
khách quan.
Xã hội Việt Nam ngày nay, các quyền cơ bản của phụ nữ đã và đang
được thực hiện trên thực tế và được Hiến pháp, pháp luật Nhà nước bảo vệ.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang làm tất cả những gì có thể làm
được nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam,
đồng thời góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân
quyền trên thế giới. Những năm qua, cùng với sự phát triển không ngừng về
mọi mặt của đất nước, các quyền cơ bản của phụ nữ cũng ngày càng được
hoàn thiện cả về mặt pháp lý, nội dung và điều kiện thực hiện. Xem xét một
cách tổng quát nội dung hệ thống Hiến pháp, pháp luật nước ta, có thể nói
rằng, qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, căn cứ vào những điều kiện
cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ dân trí của nhân dân, Nhà
nước Việt Nam luôn luôn tôn trọng những nguyên tắc của Hiến chương Liên
hợp quốc và các công ước quốc tế về quyền con người nói chung và các
quyền cơ bản của phụ nữ nói riêng.
19
Hiến pháp năm 1946 khẳng định nguyên tắc bình đẳng nam nữ trên tất
cả các lĩnh vực khi quy định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện" (Điều 9); "Mọi công dân đều bình đẳng về quyền trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa" (Điều 6) và " Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật" (Điều 7) Những quy định kể trên đã đánh dấu một
bước ngoặt vĩ đại về địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam. Lần đầu tiên trong
lịch sử, phụ nữ Việt Nam được pháp luật thừa nhận và bảo đảm có những
quyền bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực. Những quy định đó
cũng cho thấy tính chất tiến bộ của pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực này, nếu
so sánh với pháp luật quốc tế. Bình đẳng nam nữ (trên tất cả các phương diện)
được khẳng định ngay từ Hiến pháp năm 1946, khi nước Việt Nam mới được
thành lập. Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp phát triển và xây
dựng đất nước luôn được Đảng và Nhà nước ghi nhận và đánh giá cao.
Các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 của nước ta đã kế thừa những
nguyên tắc tiến bộ của Hiến pháp năm 1946 và liên tục bổ sung những nội
dung mới nhằm bảo đảm và thúc đẩy hơn nữa vị thế, việc hưởng thụ các
quyền con người của phụ nữ. Không những vậy, rất nhiều đạo luật quan trọng
như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân - gia
đình cũng được Nhà nước ban hành và sửa đổi, bổ sung qua các thời kỳ,
nhằm cụ thể hóa các nguyên tắc về bình đẳng nam nữ trong Hiến pháp. Trước
hết, Hiến pháp năm 1980 khẳng định lại các quyền xã hội cơ bản trong Hiến
pháp năm 1959, nhưng bổ sung, mở rộng nội dung phần lớn các quyền đó cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Đối với quyền bình đẳng nam, nữ
(Điều 63), Hiến pháp bổ sung các điểm mới: một là, Nhà nước và xã hội có
nghĩa vụ chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và
nghề nghiệp của phụ nữ để phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội; hai là,
Nhà nước cần hoạch định chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ.
Là sản phẩm của thời kỳ đổi mới, Hiến pháp năm 1992 đạt tới sự phát
triển cao trong việc hoàn thiện các quyền xã hội cơ bản của công dân. Hiến
20
pháp năm 1992, một mặt, tiếp tục ghi nhận những quyền xã hội mà Hiến pháp
năm 1980 quy định; mặt khác, sửa đổi, bổ sung nội dung các quyền đó cho
phù hợp với khả năng và điều kiện của đất nước. Từ đó cũng làm xuất hiện
một số quyền xã hội mới. Điều 63 quy định quyền bình đẳng nam, nữ và bổ
sung: "Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân
phẩm phụ nữ". Việc bổ sung này là cần thiết nhằm phòng ngừa và chống lại
những hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, đánh đập, hành hạ, mua bán phụ
nữ, sử dụng phụ nữ như là một công cụ để làm giầu phi pháp.
Nhận thức được vai trò to lớn của phụ nữ đối với sự nghiệp cách
mạng, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chỉ thị,
nghị quyết thể hiện sự quan tâm, tạo điều kiện để phụ nữ đạt được sự tiến bộ
và bình đẳng trong gia đình và xã hội. Quy định trên là căn cứ để tiến hành
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi xâm phạm đến quyền
bình đẳng của phụ nữ, có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc răn đe, ngăn chặn
tình trạng xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ.
Căn cứ vào các chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới, các nguyên
tắc cơ bản về bình đẳng giới và yêu cầu của việc phải lồng ghép giới trong việc
xây dựng pháp luật, Bộ luật hình sự đã hình sự hóa những hành vi xâm phạm
quyền bình đẳng của phụ nữ cũng như các hành vi khác trên cơ sở giới bảo đảm
các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới, trong đó đặc biệt chú trọng đến các
nguyên tắc như: Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và
gia đình; nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới; chính sách bảo vệ và hỗ
trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới; biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới. Cụ thể, về nguyên tắc xử lý
tội phạm, Điều 3 của Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định "1- Mọi hành vi
phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng
pháp luật. 2- Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội" [33].
Quy định này phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992: "Mọi công dân
21
đều bình đẳng trước pháp luật" [32, Điều 52] và thể hiện sự không phân biệt
đối xử, không có đặc quyền, đặc lợi trong xử lý tội phạm, bình đẳng về trách
nhiệm pháp lý trước hành vi phạm tội, bình đẳng trong việc truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Bộ luật hình sự năm 1999 với vai trò là công cụ sắc bén trong đấu
tranh và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ cùng với Luật bình đẳng giới
năm 2006 đã xác định rõ chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới trong
việc quy định các dấu hiệu cấu thành tội phạm (trong các tình tiết định tội,
tình tiết định khung); trong các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự; trong các quy định về hình phạt. Bộ luật hình sự năm 1999 chú trọng
tới việc thực hiện chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ; chú ý tới các đặc
điểm về giới tính dẫn đến hành vi phạm tội đồng thời bảo vệ, hỗ trợ người mẹ
khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ. Các hành vi phạm tội gây ra sự bất
bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình cần phải
được xử lý thích đáng.
Bên cạnh Điều 130 tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, Bộ
luật hình sự năm 1999 còn có các điều luật khác đề cập đến vấn đề giới như:
Tội mua bán phụ nữ (Điều 119); Tội phá thai trái phép (Điều 243). Quy định
của Bộ luật hình sự đã chú trọng tới việc thực hiện chính sách trong việc bảo vệ
và hỗ trợ người mẹ; hoặc đã thể hiện tính nhân đạo, cân nhắc tới các đặc điểm
về giới tính dẫn đến hành vi phạm tội như trong điểm h, khoản 1 Điều 48;
điểm b khoản 1 Điều 93; điểm d, khoản 1 Điều 104; điểm a, điểm g khoản 2
Điều 110; điểm g khoản 2 Điều 111; điểm b, khoản 2 112, điểm đ khoản 2
Điều 113… Quy định của Bộ luật hình sự đã chú ý tới đặc điểm sinh học của
phụ nữ khi mang thai; thể hiện tính nhân đạo của pháp luật như trong điểm h,
khoản 1 Điều 48, Điều 35, Điều 94.
Ngoài ra, trong Bộ luật hình sự có những điều luật tuy quy định mang
tính chất trung tính nhưng trong điều kiện thực tiễn hiện nay của nước ta thì