ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU HẰNG
QUYỀN CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU HẰNG
QUYỀN CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. BÙI ĐĂNG HIẾU
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký tự các từ viết tắt
Danh mục hình ảnh
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ
QUYỀN NHÂN THÂN GẮN VỚI HÌNH ẢNH CỦA CÁ NHÂN 6
1.1. Khái niệm chung về quyền nhân thân của cá nhân 6
1.1.1. Khái niệm nhân thân 6
1.1.2. Khái Niệm quyền nhân thân 7
1.2. Khái quát chung về quyền nhân thân gắn với hình ảnh của
cá nhân 13
1.2.1. Khái niệm hình ảnh 13
1.2.2. Khái niệm quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân 15
1.2.3. Đặc điểm quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân 17
1.2.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân 27
1.3. Mối liên hệ giữa quyền hình ảnh và các quyền khác 28
1.3.1. Mối liên hệ giữa quyền hình ảnh và quyền về bí mật đời tư 28
1.3.2. Mối liên hệ giữa quyền hình ảnh và quyền về danh dự uy tín,
nhân phẩm 30
Chương 2: CÁC HÌNH THỨC XÂM PHẠM QUYỀN NHÂN THÂN
CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH 34
2.1. Các dạng hành vi xâm phạm 34
2.1.1. Hành vi sử dụng hình ảnh với mục đích thương mại không được
sự đồng ý của chủ thể có hình ảnh 34
2.1.2. Hành vi phát tán hình ảnh cá nhân nhằm mục đích xâm hại tới
danh dự, nhân phẩm uy tín của người đó 38
2.1.3. Hành vi sử dụng hình ảnh xâm phạm đến bí mật đời tư 40
2.1.4. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá
nhân vi phạm pháp luật dân sự chuyển hóa sang vi phạm pháp
luật hình sự 42
2.1.5. Hoạt động báo chí xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân trong
một số trường hợp 44
2.2. Nhận xét về thực trạng các dạng hành vi xâm phạm quyền
nhân thân của cá nhân về hình ảnh 52
Chương 3: TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM QUYỀN NHÂN THÂN
CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH 57
3.1. Các trách nhiệm do vi phạm quyền nhân thân của cá nhân
về hình ảnh 57
3.1.1. Trách nhiệm xin lỗi hoặc công khai xin lỗi 58
3.1.2. Trách nhiệm đền bù tài chính 59
3.2. Các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của
cá nhân 63
3.2.1. Biện pháp tự bảo vệ 65
3.2.2. Biện pháp kiện dân sự 69
3.2.3. Biện pháp hành chính 76
3.2.4. Biện pháp hình sự 79
3.3. Nhận xét về việc áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền nhân
thân của cá nhân về hình ảnh 83
3.4. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân của
cá nhân đối với hình ảnh 86
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu, chữ viết tắt
Giải thích
BLDS
VDC
Bộ luật dân sự
Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam
NĐ
CP
ACLU
NSW
HIV
Nghị định
Chính Phủ
Hiệp hội Dân quyền Mỹ
New South Wales
Human Immunodeficiency Virus
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Số hiệu hình
Tên hình Trang
Hình 2.1
Hình ảnh trò chơi “Em muốn làm Uyên Linh 36
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, chính sách mở rộng hội nhập kinh tế của
Đảng và nhà nước ta đã làm cho đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể.
Xã hội càng phát triển, nhu cầu của con người càng tăng lên, không chỉ dừng
lại ở những nhu cầu vật chất mà còn là những nhu cầu cao hơn về tinh thần.
Ngay từ khi ra đời Nhà nước ta đã công nhận và bảo vệ quyền và lợi ích của
công dân. Điều này đã được ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước
ta là Hiến pháp năm 1946, tại thời điểm này hiến pháp đã khẳng định quyền
làm chủ và các quyền cơ bản của nhân dân ta. Sau này trong các bản Hiến
pháp tiếp theo lần lượt là hiến pháp 1959, hiến pháp năm 1980 và hiến pháp
năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001. Nội dung các hiến pháp đã quy
định các quyền cơ bản của công dân, sau này đã được phát triển và mở rộng
thành chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong các quyền của công
dân thì không thể không nhắc đến “Quyền cá nhân về hình ảnh”.
Nhưng có một vấn đề đặt ra hiện nay là việc sử dụng hình ảnh như thế
nào? Vài năm trước đây dư luận nước ta từng xôn xao về đoạn quay cảnh
quan hệ giữa một nữ diễn viên tuổi học trò và bạn trai, thì thời gian gần đây
cư dân mạng lại rộ lên những clip quay lén lút cảnh nữ sinh và bạn trai vào
nhà nghỉ. Bên cạnh vấn đề về đạo đức, lối sống của thanh niên hiện nay thì
câu hỏi về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật Việt
Nam cũng đang được đặt ra? Điều này cũng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng
bối cảnh các thiết bị quay phim, chụp ảnh ngày càng hiện đại hơn: có khả
năng ghi hình từ xa, ghi hình trong bóng đêm, được thiết kế nhỏ, gọn để dễ
ngụy trang, cất giấu. Hơn nữa, với sự trợ giúp của Internet thì những hình
ảnh, những đoạn clip đó đã được phát tán với một tốc độ nhanh chóng. Vì vậy
2
mà việc ngăn chặn và tìm thủ phạm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Có thể
nói chưa bao giờ nguy cơ bị xâm phạm hình ảnh cá nhân lại cao như hiện nay,
bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân bị xâm phạm về quyền hình ảnh.
Đối với vấn đề quyền cá nhân đối với hình ảnh của mình thì Bộ luật
Dân sự năm 2005 cũng đã quy định khá cụ thể. Tuy vậy, có vẻ những quy
định đấy vẫn chưa đủ “mạnh” để buộc mọi người từ bỏ thói quen sử dụng
không xin phép hình ảnh của người khác. Vậy đâu mới là giải pháp cho vấn
đề này? Trước thực tế trên, bản thân tôi xin chọn đề tài “Quyền cá nhân đối
với hình ảnh theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu, tìm hiểu, với mong
muốn làm rõ thêm về quyền cá nhân về hình ảnh, cũng như thực trạng phương
pháp bảo vệ quyền nhân thân về hình ảnh trong xu thế phát triển hội nhập ở
Việt Nam hiện nay.
2. Tổng quan tài liệu
Liên quan đến chế định quyền nhân thân đã có nhiều người viết về các
quy định chung về quyền nhân thân, các quy định về quyền nhân thân trong
việc hiến các bộ phận cơ thể người, quyền hiến xác, quyền xác định lại giới
tính hay như quyền nhân thân trong bí mật đời tư, cụ thể là:
- Bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” của PGS.TS. Bùi
Đăng Hiếu trên tạp chí luật học số 7 năm 2009, tr 40.
- Đề tài khoa học cấp trường, Đại học Luật Hà Nội năm 2008 của TS.
Lê Đình Nghị, “Bàn về khái niệm quyền bí mật đời tư”.
- Bài viết: “Quyền cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật một số nước
phương tây – đối chiếu với pháp luật Việt Nam” của tác giả Chu Tuấn Đức.
- Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Việt Nam tập 1 của tác giả Hoàng
Thế Liên.
- Luận văn thạc sỹ: “Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ
luật dân sự năm 2005” của tác giả Lê Hương Trà năm 2008.
3
- Luận văn thạc sỹ: “Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá
nhân theo quy định của BLDS năm 2005” của tác giả Lê Thị Hoa năm 2006.
- Luận văn thạc sỹ: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lý luận và
thực tiễn về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định
trong pháp luật Dân sự Việt Nam” của tác giả Phùng Bích Ngọc năm 2011.
- Các bài báo, tạp chí, tọa đàm, khóa luận có bắt đầu đề cập đến vấn đề
này nhưng vào các thời điểm khác nhau trong khi tình hình thực tiễn và pháp
luật có nhiều thay đổi, mang tính chất bước ngoặt nên chưa toàn diện và chưa
đầy đủ về mặt pháp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Vì
vậy, tác giả đã mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này, mới mục đích là đưa ra
những giải pháp để giải quyết những tồn tại, vướng mắc của pháp luật quy
định về quyền cá nhân về hình ảnh, cũng như việc áp dụng chế định luật này
trong thực tiễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử: Vật chất quyết định ý thức, đời sống kinh tế xã hội
quyết định đời sống chính trị, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và sự
tác động ngược trở lại của thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ sở, pháp
luật dân sự nói chung, chế định nhân thân, và quyền các quy định về quyền
các nhân đối với hình ảnh nói riêng thuộc phạm trù của kiến trúc thượng
tầng nên tất yếu chịu sự chi phối của đời sống kinh tế, văn hóa xã hội. Do
đó việc nghiên cứu đề tài sẽ không tách khỏi nguyên lý trên. Luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật với tình huống
thực tế, với các quy định của luật pháp các nước trên thế giới để tìm ra những
hợp lý, bất cập trong quy định của pháp luật.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích phản ảnh các vụ việc trong thực tiễn
4
xét xử liên quan đến quy định của pháp luật hiện hành về quyền cá nhân đối
với hình ảnh.
- Phương pháp điều tra xã hội: Phỏng vấn, khảo sát.
4. Tính mới và ý nghĩa của luận văn
Là một trong nhiều người tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp
luật về dân sự nói chung và chế định về quyền cá nhân đối với hình ảnh
theo pháp luật Việt Nam nói riêng, bằng phương pháp phân tích, so sánh đã
nói ở trên, cùng với thực tiễn trong quá trình áp dụng các quy định pháp
luật luận văn đã hệ thống hóa các quy định của pháp luật Việt Nam về
quyền cá nhân về hình ảnh, ngoài ra luận văn còn nêu bật lên thực tế của
các hành vi xâm phạm hình ảnh, thực trạng áp dụng các biện pháp bảo vệ
quyền cá nhân về hình ảnh trong thực tiễn hiện nay. Từ đó đưa ra các kiến
nghị, giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới về các quy định
quyền cá nhân về hình ảnh.
5. Nội dung nghiên cứu của luận văn
Nội dung nghiên cứu trong đề tài luận văn này là nội dung của quyền
cá nhân về hình ảnh, về các thực trạng quy định của quyền cá nhân về hình
ảnh, đồng thời nghiên cứu các phương pháp bảo vệ quyền cá nhân về hình
ảnh và những quy định của pháp luật nói chung là pháp luật dân sự nói riêng
về quyền nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập chung nghiên cứu những vấn đề sau đây:
- Về quyền nhân thân của cá nhân của cá nhân – quyền nhân thân
không gắn với tài sản.
- Quyền cá nhân với hình ảnh
- Các quan điểm quyền cá nhân về hình ảnh ở một số nước trên thế giới
- Thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền cá nhân về hình ảnh.
5
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày theo 03 phần
- Lời mở đầu
- Nội dung
- Kết luận
Trong đó nội dung gồm 04 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền nhân thân và quyền nhân thân
gắn với hình ảnh của cá nhân
Chương 2: Các hình thức xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân đối
với hình ảnh
Chương 3: Trách nhiệm do vi phạm quyền nhân thân của cá nhân đối
với hình ảnh
6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ QUYỀN NHÂN
THÂN GẮN VỚI HÌNH ẢNH CỦA CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm chung về quyền nhân thân của cá nhân
1.1.1. Khái niệm nhân thân
Có thể nói rằng trong các vấn đề của xã hội loài người thì quyền con
người nói chung và quyền công dân nói riêng là những vấn đề có tính lịch sử
lâu đời cả về phương diện lí luận cũng như thực tiễn. Quyền công dân nói
chung được chia làm năm nhóm: Nhóm các quyền chính trị, nhóm các quyền
dân sự, nhóm các quyền kinh tế, nhóm các quyền văn hóa và nhóm các quyền
xã hội và pháp luật dân sự là công cụ để thực hiện nhóm các quyền dân sự của
công dân. Mỗi cá nhân đều luôn có nhu cầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển,
kéo theo đó là các nhu cầu về tư tưởng, tinh thần, nó gắn liền với hai loại quyền
đó là quyền về tài sản và các quyền về nhân thân. “Quyền nhân thân” là thuật
ngữ pháp lý dùng để chỉ những quyền gắn liền với bản thân của mỗi con người,
gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân và quyền này có liên quan mật
thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín Do đó quyền nhân thân là một quyền rất
quan trọng trong các quyền dân sự, cũng bởi chính lý do này mà quyền nhân
thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người đã được pháp
luật thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ.
Để hiểu rõ hơn về quyền nhân thân của cá nhân thì trước hết chúng ta
cùng làm rõ khái niệm “nhân thân”.
Khái niệm “nhân thân” được hiểu theo hai khía cạnh sau đây. Một là:
theo từ điển Tiếng Việt “Nhân thân được hiểu là tổng hợp các đặc điểm về
thân thể, tính cách và cuộc sống cá nhân của con người, về mặt thi hành
pháp luật” [24].
7
Hai là: Dưới góc độ pháp lý thì hiện nay chưa có văn bản nào đề cập
đến khái niệm “nhân thân”, xong chúng ta có thể tham khảo khái niệm nhân
thân đề cập đến trong công trình nghiên cứu cấp bộ với đề tài: Vai trò của Tòa
án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định
của BLDS của Tòa án nhân dân tối cao thì:
Nhân thân của một người bao gồm các đặc điểm sau: giới
tính, độ tuổi, dân tộc, thành phần văn hóa, nghề nghiệp, điều
kiện sống, hoàn cảnh gia đình, quá trình hoạt động chính trị xã
hội, tính tình, tác phong Mỗi người có một nhân thân riêng và
chính nó biểu thị đặc điểm liên quan đến nhận thức và hành vi
của từng người [38].
Như vậy khái niệm nhân thân được hiểu là một khái niệm rộng, bao
trùm nhiều đặc điểm khác nhau, và quan trọng nhất là các đặc điểm này phải
liên quan mật thiết đến một cá nhân cụ thể.
1.1.2. Khái Niệm quyền nhân thân
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống
tinh thần của cá nhân được pháp luật thừa nhân và bảo vệ. Trong lịch sử lập
pháp của nước ta nói chung và pháp luật dân sự nói riêng, thuật ngữ quyền
nhân thân được ra đời khá muộn. BLDS Việt Nam 1995 là văn bản pháp lí
lần đầu tiên đề cập đến quyền nhân thân, đánh dấu một mốc quan trọng
trong quá trình hiện thực hóa quyền con người. Lần đầu tiên pháp luật Việt
Nam xác định rằng:
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với mỗi
cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Không ai có thể lạm dụng quyền nhân thân của
mình xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi
ích hợp pháp của người khác [25].
8
Bên cạnh đó, lần đầu tiên cá nhân có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền
nhân thân của mình không bị người khác vi phạm (Điều 27). Lần đầu tiên
quyền nhân thân của cá nhân được quy định thành một hệ thống các quyền, có
20 quyền được quy định chi tiết trong 20 Điều luật.
BLDS năm 1995 đã góp phần làm ổn định các quan hệ dân sự nói
chung, quan hệ nhân thân nói riêng, các chủ thể có được công cụ pháp lý hữu
hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của các quan hệ xã hội, các quan hệ dân sự ngày càng phức tạp hơn, đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi những giá trị thuộc về tinh thần đang dần
tìm được chỗ đứng quan trọng trong đời sống cá nhân. Với những quyền nhân
thân được quy định trong BLDS năm 1995 so với thực tiễn đã có những sự
thiếu hụt rất lớn, việc sửa đổi BLDS năm 1995 là tất yếu xảy ra.
Từ đó sự ra đời của BLDS 2005 đã kế thừa những quy định về nhân
thân trong BLDS năm 1995 và đã quy định cụ thể về quyền nhân thân tại
Điều 24: "Quyền nhân thân được quy định trong Bộ Luật này là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác” [28, Điều 24]. Theo quy định tại điều luật
này thì quyền nhân thân sẽ có hai đặc điểm:
Một là: Quyền nhân thân mang đặc tính quyền cá nhân, không bị chi
phối, phụ thuộc bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như: Độ tuổi, trình độ văn
hóa, giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội cũng bởi điều này mà pháp luật quy
định mọi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân.
Hai là: Quyền nhân thân của chủ thể không thể chuyển dịch cho chủ
thể khác được. Nghĩa là: Quyền nhân thân không thể là đối tượng trong
giao dịch dân sự (mua, bán, tặng, cho ). Tuy nhiên trong một số trường
hợp quyền nhân thân có thể được chuyển giao cho người khác theo quy
định của pháp luật.
9
Ví dụ: Quyền công bố, phổ biến tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết
thì quyền này có thể chuyển giao cho chủ thể khác hay các quyền khác về tinh
thần của tác giả đối với tác phẩm như quyền được tôn trọng tác phẩm. Hoặc
các quyền nhân thân gắn liền với tài sản có thể được phép chuyển giao
Nhìn vào hai đặc điểm này của quyền nhân thân thì chúng ta thấy một
vấn đề đặt ra là: Nếu như theo quy định trên thì quyền nhân thân chỉ gắn liền
với mỗi cá nhân cụ thể thì theo quy định tại Điều 604 và Điều 611 BLDS năm
2005 đã đề cập đến: “Danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác” [28].
Vậy, một vấn đề đặt ra là những quyền được quy định tại hai Điều luật trên
đây của pháp nhân và chủ thể khác có được xem là quyền nhân thân không?
Và nếu pháp nhân và chủ thể khác cũng là chủ thể của quyền nhân thân thì
liệu đặc tính “Quyền cá nhân hóa” trong quyền nhân thân có còn tồn tại? Tại
Điều 1 Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao quy định rằng:
Thiệt hại do tổn thất của pháp nhân và các chủ thể khác
không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do
danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự
tín nhiệm, lòng tin vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường
một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu [7, Điều 1].
Như vậy: Theo quy định tại Nghị định này đã thừa nhận các quyền
nhân thân đối với pháp nhân và các chủ thể khác. Từ việc phân tích trên
đây cho thấy quyền nhân thân có thể mở rộng phạm vi chủ thể quyền nhân
thân không chỉ bao hàm cá nhân mà còn bao gồm các chủ thể khác như:
pháp nhân, tổ chức
Thông qua các quy định trong BLDS, cũng như các quy định của các
văn bản pháp luật khác thì chưa có một khái niệm về quyền nhân thân một
cách rõ ràng. Tính đến thời điểm hiện nay thì khái niệm này mới chỉ được
trình bày trong các công trình nghiên cứu khoa học như:
10
Một là: Trong bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” của
Tiến sĩ Bùi Đăng Hiếu – Trường Đại học Luật Hà Nội đăng trên tạp chí luật
học số 7 năm 2009 thì: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với đời
sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể
chuyển giao cho chủ thể khác, trừ tường hợp pháp luật có quy định khác” [13].
Hai là: Trong đề tài nghiên cứu cấp trường “Quyền nhân thân của con
người và bảo vệ quyền nhân thân của con người và bảo vệ quyền nhân thân
theo quy định của pháp luật” của tiến sĩ Lê Đình Nghị đã đưa ra khái niệm
quyền nhân trên hai phương diện như sau:
Theo nghĩa khách quan, quyền nhân thân được hiểu là tổng hợp
các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, trong đó có nội dung
quy định rõ các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân
mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện các quyền của mình.
Theo nghĩa chủ quan, quyền nhân thân là quyền dân sự chủ
quan gắn liền với cá nhân do nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và
các cá nhân không thể chuyển giao quyền này cho người khác [20].
Ba là: Trong luận văn thạc sĩ luật học “Quyền nhân thân liên quan đến thân
thể của cá nhân theo quy định trong BLDS năm 2005” của tác giả Lê Thị Hoa đã
đưa ra khái niệm: “Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời
sống tinh thần của cá nhân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ” [15].
Qua việc phân tích, cũng như tham khảo các khái niệm trên chúng ta có
thể hiểu khái niệm quyền nhân thân như sau:
Quyền nhân thân là quyền dân sự cho nhà nước quy định gắn liền với
giá trị tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể
chuyển giao trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
Từ khái niệm trên đây rút ra một số đặc điểm của quyền nhân thân là
11
Thứ nhất: Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản
Nếu như nhắc đến quyền tài sản thì chúng ta sẽ nghĩ ngay đến tính chất
tài sản, nó được xác định bằng một giá trị vật chất nhất định, theo nguyên tắc
đền bù ngang giá. Nhưng khi nhắc đến quyền nhân thân là chúng ta sẽ nhắc
đến tính chất phi tài sản. Vì, xét về bản chất thì quyền nhân thân không bao
giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản hoặc không gắn với tài
sản và đối tượng nó là những giá trị tinh thần – là các giá trị phi tài sản. Do
đó, quyền nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương,
không thể trao đổi ngang giá. Từ đó quyết định việc: Quyền nhân thân không
thể bị định đoạt hay đem ra chuyển nhượng cho người khác.
Ví dụ: Một chủ nợ không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ vì quan
hệ nhân thân không thể cụ thể hóa thành tài sản hay tiền tệ là điều không thể.
Thứ hai: Hành vi xâm phạm quyền nhân thân không nhất thiết phải gây
ra thiệt hại
Một hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân thì có thể gây ra thiệt hại
hoặc không gây ra thiệt hại. Điều đó có nghĩa là thiệt hại không phải căn cứ
bắt buộc để xác định trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi xâm phạm. Trên
thực tế, ngay cả trong trường hợp bị xâm phạm quyền nhân thân không những
là không gây thiệt hại gì cho người bị xâm phạm mà thậm chí còn có lợi cho
họ. Nhưng về nguyên tắc nếu không có sự đồng ý của cá nhân đó thì đều coi
là hành vi vi phạm.
Ví dụ: Một nhiếp ảnh gia sử dụng một bức ảnh một cô nữ sinh trong
tà áo dài truyền thống để dự thi triển lãm ảnh quốc tế mà không có sự đồng
ý của cô gái. Trong trường hợp nhiếp ảnh gia đó được giải thưởng, cô gái
đó sẽ được nhiều người biết đến và ngưỡng mộ với vẻ đẹp Á Đông của
mình. Xong hành vi sử dụng hình ảnh mà chưa xin phép chủ thể của nhiếp
ảnh gia trên đã vi phạm quyền nhân thân của cá nhân về hình ảnh dù bản
12
thân việc sử dụng ảnh không làm xấu đi hình ảnh của cô gái, mà còn làm
cô đẹp lên trong mắt mọi người.
Ba là: Thiệt hại về quyền nhân thân không có tiêu chí định lượng
Vì trên thực tế trong các quyền nhân thân thì quyền nhân thân liên quan
tới đời sống tinh thần của các chủ thể luôn chiếm số lượng lớn. Quyền nhân
thân gắn liền với đời sống tinh thân của cá nhân là toàn thể các hoạt động nội
tâm của con người như: Ý nghĩ, tình cảm
Đối với tổ chức thì danh dự, uy tín của là những yếu tố gắn liền với
giá trị tinh thần của tổ chức. Danh dự là sự đánh giá của xã hội và sự tín
nhiệm của mọi người đối với hoạt động của tổ chức đó, uy tín là những giá
trị tốt đẹp mà tổ chức đó đạt được trong quá trình hoạt động mà được công
chúng biết đến.
Cả hai phương diện quyền nhân thân của cá nhân và quyền nhân thân
của tổ chức thì đều không có một chuẩn mực chung nào để cụ thể nó gia thành
một giá trị. Vì thế, thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền nhân thân không được
cân, đo, đong, đếm bằng một đại lượng cụ thể. Đặc trưng này không loại trừ
nghĩa bồi thường thiệt hại khi hành vi bị xâm phạm tới quyền nhân thân. Bởi
vì, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần được xác định là chủ thể thực
hiện hành vi vi phạm phải có nghĩa vụ bù đắp những tổn thất về tinh thần đã
gây ra cho chủ thể bị thiệt hại. Các thiệt hại về tinh thần này thể hiện bằng việc
chủ thể bị thiệt hại phải chịu những đau đớn, lo lắng về mặt tinh thần, mà sự
đau khổ này ở mỗi chủ thể là không giống nhau, do đó không trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cũng không cụ thể hóa được bằng một con số cụ thể, đặc điểm
này của quyền nhân thân khác hắn so với quyền tài sản. Bởi vì, trách nhiệm
pháp lý khi vi phạm quyền tài sản được xác định bằng những khối lượng cụ
thể. Hay nói cách khác tài sản khi bị xâm phạm thiệt hại tới đâu thì người gây
ra hành vi vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại tới đó.
13
1.2. Khái quát chung về quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân
1.2.1. Khái niệm hình ảnh
Về khái niệm hình ảnh của cá nhân, cho đến nay vẫn chưa có văn bản
nào quy định rõ. Nếu BLDS năm 2005 mới chỉ quy định quyền cá nhân về
hình ảnh tại Điều 31, trong khi đó lại không quy định khái niệm hình ảnh thì
việc xác định nội hàm quyền cá nhân về hình ảnh bao gồm những quyền gì?
Các hành vi nào được xem là hành vi xâm phạm quyền hình ảnh của cá nhân?
Hay việc bảo vệ hình ảnh của cá nhân như thế nào? Là một điều rất khó khăn.
Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là việc xây dựng một khái niệm chuẩn để áp
dụng vào thực tế là rất cần thiết.
Trên thực tế hiện nay thì việc hiểu “Hình ảnh” là gì là phụ thuộc vào
bản chất của từng lĩnh vực, từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau như:
Trong lĩnh vực truyền hình, khái niệm hình ảnh được hiểu: “Là những
gì mà con người thấy được thông qua thị giác rồi sau đó chuyền về não, giúp
con người cảm nhận hình ảnh đó một cách thực chất. Từ đó đưa ra những
phản xạ, cảm nhận những hình ảnh mà con người vừa tiếp nhận được
”
[22].
Trong lĩnh vực mỹ thuật, khái niệm hình ảnh được hiểu: là sự diễn tả
hay tái hiện một vật, một người trong nghệ thuật tạo hình (hội họa, đồ họa,
điêu khắc ). Hình ảnh trong nghệ thuật không phải là sự sao chụp thụ động
vẻ bên ngoài của mẫu thuật, mà còn nhằm lột tả tinh thần của mẫu.“Người ta
có thể thấy trong hình ảnh cá tính nghệ thuật của người nghệ sỹ và dấu ấn
thời đại” [24].
Trong triết học, thì hình ảnh được xem kết quả của sự phản ánh
khách thể, đối tượng vào ý thức của con người. Ở trình độ cảm tính thì hình
ảnh là những cảm giác, tri giác và biểu tượng, ở trình độ tư duy, đó là
những khái niệm, phán đoán và suy luận. Về mặt nguồn gốc, hình ảnh là
khách quan; về cách nhận thức tồn tại, hình ảnh là chủ quan. Hình thức thể
14
hiện vật chất của hình ảnh là cách hành động thực tiễn, ngôn ngữ, các mô
hình ký hiệu khác nhau.
Trong từ điển tiếng việt đã giải thích hình ảnh là: “Hình người, vật,
cảnh tượng thu được bằng khí cụ quang học như máy ảnh hoặc để lại ấn
tượng nhất định và tái hiện được trong trí óc, là khả năng gợi tả sống động
trong cách diễn đạt” [24].
Theo từ điển tiếng việt thì chúng ta sẽ có một cách hiểu sau đây: Hình
ảnh chính là sự sao chép lại những hình ảnh, biểu tượng, được nhận thức bằng
tư duy của con người hoặc bằng các cách thức sao chụp nguyên mẫu. Tuy
nhiên hình ảnh lúc này phải đảm bảo yếu tố không chỉ đơn thuần là sự sao
chép nguyên mẫu mà còn phải để lại dấu ấn riêng cho từng bức ảnh. Hay nói
cách khác hình ảnh không tồn tại độc lập với đối tượng được phản ánh mà
phải bảo đảm nội dung của đối tượng phản ánh. Từ các phân tích trên đây,
cùng với quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại Điều 31 BLDS
năm 2005 thì chúng ta có thể hiểu: “Hình ảnh của cá nhân bao gồm mọi hình
thức tác phẩm nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người cụ thể như ảnh
chụp, ảnh vẽ, ảnh họa chép và suy luận rộng ra có thể có cả bức tượng của cá
nhân đó nữa” [28, Điều 31].
Ví dụ như: Ảnh chụp có thể bao gồm: ảnh chân dung, ảnh nghệ thuật,
ảnh tư liệu, ảnh phóng sự
Ảnh vẽ có bao gồm: vẽ truyền thần, vẽ ký họa
Từ quy định của điều luật này chúng ta có thể hiểu hình ảnh cá nhân là
những hình ảnh mang tính chất riêng tư, hạn chế ở những nơi riêng tư. Điều
này trái ngược với hình ảnh ở những nơi công cộng, nơi đông người
Ví dụ như: Hình ảnh của một người đứng trên một bãi biển, nếu chỉ
riêng người đó thì có thể xem là ảnh riêng tư, ảnh cá nhân. Nhưng nếu là một
tấm ảnh chụp quang cảnh của số đông bộ phận người trên bãi biển, có nhiều
15
người trong tấm ảnh thì có thể xem đây là ảnh sinh hoạt tập thể nơi công
cộng, không thể xem đây là hình ảnh cá nhân, mang tính chất riêng tư nữa.
Điều này đặt ra vấn đề là: Nếu trên phương diện quyền sở hữu trí tuệ
thì bức ảnh, tấm hình, pho tượng đều là loại hình tác phẩm nghệ thuật, người
sử dụng tác phẩm trước hết phải xin phép chủ sở hữu của tác phẩm và phải có
nghĩa vụ trả cho họ một khoản lợi ích vật chất nhất định, đồng thời phải trả
thù lao, nhuận bút cho người sáng tác (người chụp ảnh, sao chép, họa hình ).
Nhưng nếu theo quy định tại Điều 31 BLDS 2005 thì ai muốn sử dụng hình
ảnh của cá nhân thì đều phải được sự đồng ý của người có hình ảnh, tức là
người có thật trong bức ảnh đó.
Qua các khái niệm về hình ảnh của từng ngành nghề, lĩnh vực nhất định
trên đây cho chúng ta thấy tùy thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau
thì lại có những cách nhận định về hình ảnh khác nhau. Nếu trong truyền hình
coi hình ảnh là những gì mà chúng ta thấy được thông qua thị giác, phản
chiếu lên não bộ chúng ta thì đối với các nhiếp ảnh gia hình ảnh lại bao gồm
hình dáng và màu sắc của vật thể. Nếu theo cách hiểu thông thường thì hình
ảnh là sự sao chép hình ảnh, biểu tượng mà tư duy chúng ta có thể nhận biết
được thì trong mỹ thuật lại coi hình ảnh chính là sự diễn tả một vật thể, con
người trong nghệ thuật tao ra hình ảnh. Do đó yếu tố tinh thần của vật thể tạo
nên hình ảnh trong mỹ thuật luôn được đề cao. Hay nói cách khác hình ảnh
không chỉ đơn thuần là sự phản chiếu của sự vật, hiện tượng mà trong mỗi
bức ảnh còn phải ẩn chứa nét riêng của chủ thể trong từng bức ảnh giúp phân
biệt hình ảnh đó và các hình ảnh khác.
1.2.2. Khái niệm quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân
Hiện nay, chưa có một quy định rõ ràng nào về quyền nhân thân đối với
hình ảnh của cá nhân. Điều 31 BLDS 2005 quy định:
Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
16
1. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó
đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi
dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng,
con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ
trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp
luật có quy định khác.
2. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh [28, Điều 31].
Nhìn vào điều luật trên cho chúng ta thấy pháp luật Dân sự 2005 chưa
đưa ra khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh.
BLDS 2005 chỉ đưa ra một khía cạnh của quyền nhân thân đối với hình
ảnh, quy định mọi cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình và chế tài áp
dụng khi có hành vi xâm phạm về hình ảnh diễn ra mà không quy định rõ về
khái niệm quyền nhân đối với hình ảnh của cá nhân.
Hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về cách hiểu quyền cá
nhân đối với hình ảnh xong theo cá nhân tôi thì quyền nhân thân đối với hình
ảnh được hiểu là quyền nhân thân tuyệt đối đối với hình ảnh của riêng một cá
nhân đó mà thôi. nên chỉ có cá nhân đó mới có quyền quyết định việc thay đổi
hình ảnh hay vẻ bề ngoài của mình. Trừ trường hợp người chưa thanh niên
hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của người đại diện
cho họ là cha, mẹ, vợ, chồng hoặc con cái.
Quyền nhân thân đối với hình ảnh được hiểu là quyền nhân thân
tuyệt đối đối với hình ảnh của riêng một cá nhân đó mà thôi. Nên chỉ có cá
nhân đó mới có quyền quyết định việc thay đổi hình ảnh hay vẻ bề ngoài
của mình. Trừ trường hợp người chưa thanh niên hoặc mất năng lực hành
vi dân sự thì phải có sự đồng ý của người đại diện cho họ là cha, mẹ, vợ,
chồng hoặc con cái.
17
Ví dụ: Quyền riêng của cá nhân đó đối với hình ảnh bên ngoài như việc
thay đổi phong cách thời trang, sự lựa chọn cách trang điểm, kiểu tóc. Khi có
bất kỳ một hành vi sử dụng nào mà không xin phép thì coi như đã xâm phạm
đến quyền nhân thân của cá nhân đó về hình ảnh.
Ví dụ như: một tờ báo muốn đăng tải những hình ảnh nhạy cảm liên
quan đến một nam thanh niên bị nhiễm bệnh HIV thì phải có sự đồng ý của cá
nhân đó trước khi sử dụng hình ảnh. Còn ngược lại nếu không có sự cho phép
của cá nhân đó thì coi như là xâm phạm.
Tại Điều 31 BLDS năm 2005 cũng chỉ mới có tên gọi “Quyền đối với
hình ảnh của cá nhân mà thôi” [28, Điều 31]. Những nếu xét về bản chất thì
quyền nhân thân về hình ảnh cũng có những đặc điểm của quyền cá nhân, nó
là quyền tuyệt đối của mỗi cá nhân và chỉ có cá nhân đó mới có quyền quyết
định việc thay đổi hình ảnh của mình chứ không bởi ai khác.
Xuất phát từ cách hiểu: Quyền nhân thân của cá nhân là quyền mà
mọi cá nhân đều có quyền hưởng và khái niệm hình ảnh đã phân tích ở
phần 1.2.1 chúng tôi xin đưa ra khái niệm quyền nhân thân đối với hình
ảnh của cá nhân như sau:
Quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân gắn
liền với cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, theo đó cá nhân được
phép tạo dựng, sử dụng và cho phép người khác sử dụng hình ảnh theo ý chí
của cá nhân đó
1.2.3. Đặc điểm quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân
Quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân thuộc loại quyền nhân
thân nên mang đầy đủ những đặc điểm của quyền nhân thân nói chung, ngoài
ra quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân còn mang một số đặc điểm
đặc trưng phân biệt với các quyền nhân thân khác như sau:
18
Một là: Quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân là quyền nhân
thân của cá nhân
Đặc trưng quyền nhân thân gắn với hình ảnh là quyền nhân thân của cá
nhân nhằm mục đích phân biệt với quyền nhân thân về gắn với chủ thể là
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Trên thực tế thì quyền nhân thân gắn với
hình ảnh chỉ thuộc về chủ thể là cá nhân mà thôi vì nếu nói tới hình ảnh của tổ
chức thì rất khó có thể hình dung hình ảnh cụ thể đó là gì? Hơn nữa pháp luật
thừa nhận hình ảnh của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thông qua cơ chế
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà cụ thể là nhãn hiệu được bảo hộ.
Mặt khác, khi chúng ta sống trong một xã hội với nhiều biến động như
ngày nay thì mỗi cá nhân là một tế bào của xã hội xong họ lại là một chỉnh thể
riêng biệt, không ai giống ai. Từ hình dạng, đặc điểm cho đến hình ảnh cụ thể
bên ngoài, nếu có xuất hiện sự giống nhau thì cũng chỉ là sự tương đồng rất
nhỏ, trong các trường hợp sinh đôi cũng không hoàn toàn giống nhau. Do vậy
hình ảnh của cá nhân là một đặc tính không thể tách rời mà nó luôn gắn liền
với một cá nhân cụ thể.
Hai là: Quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân là quyền nhân
thân không gắn với tài sản
Theo cách hiểu thông thường thì nhóm quyền nhân thân được chia ra
làm hai loại: Đó là quyền nhân thân không gắn liền với tài sản bao gồm từ
Điều 26 đến Điều 51 BLDS năm 2005, còn quyền nhân thân gắn liền với tài
sản gồm hai điều quy định Khoản 2 Điều 738 và mục a khoản 1 Điều 751
BLDS năm 2005. Như vậy, quyền nhân thân gắn với hình ảnh thuộc nhóm
quyền nhân thân không gắn liền với tài sản. Nhưng có một vấn đề hiện nay là
khi mà xu thế toàn cầu hóa, giao lưu thương mại phát triển thì các hình ảnh
của cá nhân đang được đem ra khai thác, sử dụng với mục đích thương mại
ngay càng cao, nhất là trong hoạt động in sách báo, ấn phẩm tranh ảnh.