ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ THANH THỦY
NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH NGÔN NGỮ
Ở NHẬT BẢN THỜI CẬN ĐẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ THANH THỦY
NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH NGÔN NGỮ
Ở NHẬT BẢN THỜI CẬN ĐẠI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 06 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ VIỆT THANH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Thanh.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Các bài
trích dẫn tài liệu đều là những tài liệu đã được công nhận.
Hà Nội, tháng 01 năm 2015
Học viên
Trần Thị Thanh Thủy
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu,
Phòng Đào tạo sau đại học Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS. Nguyễn Thị Việt
Thanh, người thầy hướng dẫn đã đào tạo, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm, cùng toàn thể các thầy các
cô trong khoa Đông phương học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân
văn đã chỉ bảo, cung cấp những kiến thức quí báu và tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Đảng ủy, Ban giám hiệu Trường
Đại học Hà Nội, Khoa tiếng Nhật Trường Đại học Hà Nội đã giúp đỡ và tạo
mọi điều thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt khóa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp và sự giúp đỡ nhiệt
tình của bạn bè, đồng nghiệp trong quá trình thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, với lòng biết ơn sâu sắc nhất tôi xin gửi lời cám ơn tới toàn
thể gia đình tôi đã luôn ở bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi về mọi mặt để tôi
hoàn thành tốt luận văn này.
Hà Nội, tháng 01 năm 2015
Học viên
Trần Thị Thanh Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 6
1.1. Chính sách ngôn ngữ 6
1.1.1. Khái niệm chính sách ngôn ngữ 6
1.1.2. Các hệ vấn đề của chính sách ngôn ngữ …………………………10
1.1.3. Mối quan hệ giữa chính sách ngôn ngữ với kế hoạch hóa ngôn ngữ 13
1.1.4. Mối quan hệ giữa chính sách ngôn ngữ với lập pháp ngôn ngữ 18
1.2. Cảnh huống ngôn ngữ 18
Tiểu kết 19
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH NGÔN NGỮ Ở NHẬT
BẢN GIAI ĐOẠN CẬN ĐẠI 21
2.1. Cảnh huống ngôn ngữ Nhật Bản 21
2.1.1. Bối cảnh lịch sử Nhật Bản giai đoạn cận đại……………………. 21
2.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ - tộc người của Nhật Bản………………… 24
2.1.3. Những đặc điểm cơ bản trong cấu trúc nội tại của tiếng Nhật… 26
2.2. Các tổ chức chịu trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất chính sách ngôn ngữ
giai đoạn cận đại 33
2.3. Các đề xuất cải cách ngôn ngữ 35
2.3.1. Các đề xuất liên quan tới việc sử dụng chữ Kana 36
2.3.2. Đề xuất sử dụng hệ chữ Latinh (Rōmaji) 40
2.3.3. Đề xuất sử dụng chữ viết mới 45
2.3.4. Đề xuất hạn chế số lượng chữ Hán 46
2.3.5. Đề xuất xóa bỏ tiếng Nhật thay thế sử dụng tiếng Anh 48
Tiểu kết 49
CHƯƠNG 3: CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CHÍNH QUYỀN VỀ CHÍNH
SÁCH NGÔN NGỮ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN 52
3.1. Các chính sách nhằm nâng cao vị thế và khả năng hoạt động của tiếng
Nhật trong xã hội 52
3.1.1. Công cuộc cải cách giáo dục 52
3.1.2. Các chính sách ngôn ngữ trong giáo dục 55
3.2. Chính sách nhằm cải tiến tiếng Nhật cho hợp lý, khoa học, dễ sử dụng 65
3.2.1. Chính sách về chữ viết 66
3.2.2. Vấn đề từ vựng 74
3.2.3. Vấn đề phương ngữ và ngôn ngữ chuẩn 78
3.3. Ảnh hưởng của chính sách ngôn ngữ đến một số lĩnh vực 79
3.3.1. Ảnh hưởng đến văn học Nhật Bản 79
3.3.2. Ảnh hưởng đến thơ ca Nhật Bản 80
Tiểu kết 81
KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Chính sách ngôn ngữ là một phạm trù thuộc lĩnh vực chính trị - xã hội,
biểu thị hệ thống những quan điểm, chủ trương và biện pháp của một nhà
nước hay một tổ chức chính trị - xã hội nhằm tác động một cách có ý thức
theo một định hướng nhất định vào sự phát triển và hành chức của ngôn ngữ,
phù hợp với cảnh huống ngôn ngữ và bối cảnh chính trị - xã hội của một quốc
gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nhằm phục vụ cho lợi ích của đất
nước hay các giai tầng xã hội mà nhà nước hay tổ chức chính trị xã hội là
người đại diện.
Trong chính sách ngôn ngữ, ngôn ngữ là đối tượng chịu tác động chủ
yếu nhất. Vừa tồn tại và hành chức với tư cách là một loại phương tiện giao
tiếp, phương tiện tư duy của con người, biến đổi và phát triển theo những
quy luật khách quan của riêng mình, ngôn ngữ còn chịu những tác động rất
lớn của các yếu tố bên ngoài như thể chế chính trị, điều kiện xã hội, tình
trạng dân cư…, thường được gọi chung bằng thuật ngữ “cảnh huống ngôn
ngữ”, trong đó góp phần không nhỏ là yếu tố chủ quan của con người, đặc
biệt là những nhà cầm quyền muốn sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện
thực thi các chủ trương mang tính chủ quan nhằm thực hiện những mục
tiêu chính trị nhất định.
Chính sách ngôn ngữ là những quy định không thể thiếu đối với bất cứ
một quốc gia. Song nội dung của chính sách ngôn ngữ của các quốc gia lại
luôn khác nhau, phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh riêng. Ngay trong
một quốc gia, chính sách ngôn ngữ, cũng giống như các loại chính sách xã hội
khác, luôn có sự thay đổi ở những mức độ khác nhau tùy trong các giai đoạn
lịch sử, tùy thuộc vào điều kiện chính trị - xã hội và thái độ, mục tiêu của nhà
cầm quyền khi sử dụng ngôn ngữ phục vụ mục đích của mình.
2
Nhật Bản là một quốc đảo nằm ở phía Đông của lục địa châu Á trên
biển Thái Bình Dương. Đây là một quốc gia với những điều kiện tự nhiên hết
sức độc đáo với gần 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 4 đảo chính là:
Hokkaido, Honshu, Shikoku và Kyushu, tổng diện tích là 377.914 km2, dân
số hơn 126 triệu người, trong đó 3/4 đất đai là đồi núi, sông ngòi, chỉ có hai
đồng bằng lớn ven biển mang tên Kanto và Kansai.
Có thể nói Nhật Bản là một quốc gia đơn dân tộc bởi tuyệt đại đa số cư
dân sống trên nước này là người Nhật, hiện đang sinh sống trên tất cả các hòn
đảo và sử dụng chung một ngôn ngữ duy nhất là tiếng Nhật. Do vậy, khác với
nhiều quốc gia đa ngôn ngữ như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia ,
Nhật Bản là một quốc gia đơn ngữ, tiếng Nhật vừa là tiếng nói của người
Nhật, vừa là ngôn ngữ chính thức và là ngôn ngữ quốc gia của Nhật Bản với
tên gọi là “Quốc ngữ” (国語 - Kokugo). Hiện nay, tiếng Nhật là ngôn ngữ
được sử dụng chính thức ở tất cả các cơ quan nhà nước, trong giáo dục, trên
tất cả các hệ thống thông tin đại chúng và trong đời sống hàng ngày. Tuy vậy,
để có một vị thế và khả năng đảm nhiệm tất cả các chức năng xã hội như hiện
có, tiếng Nhật đã trải qua những giai đoạn phát triển lâu dài, với những biến
động lớn dưới tác động của nhiều thời đại, nhiều thể chế chính trị, trong đó,
một trong những giai đoạn có tác động quan trọng tới sự phát triển và định
hình chức năng, vị thế và qua đó ảnh hưởng tới bản thân cấu trúc nội tại tiếng
Nhật là giai đoạn cận đại bắt đầu từ thời đại Minh Trị (明治時代 - Meiji jidai).
Thời đại Minh Trị (bắt đầu năm 1868), một giai đoạn có vai trò hết sức
quan trọng trong lịch sử Nhật Bản đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều
công trình nghiên cứu tại Nhật Bản và quốc tế, từ những góc độ khác nhau
như lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa Ở Việt Nam cũng có không ít nhà
nghiên cứu lấy giai đoạn cận đại này của Nhật Bản làm đối tượng nghiên
cứu của mình. Tuy nhiên, khảo sát những đặc trưng của giai đoạn này từ
3
góc độ chính sách ngôn ngữ với những quyết định có tầm ảnh hưởng quyết
định đến không chỉ sự phát triển của tiếng Nhật với tư cách là ngôn ngữ
quốc gia mà còn ảnh hưởng tới nhiều phương diện của đời sống xã hội, có
thể nói vẫn thiếu những nghiên cứu chuyên sâu. Đó chính là lý do chúng
tôi lựa chọn vấn đề chính sách ngôn ngữ Nhật Bản giai đoạn cận đại làm
đối tượng nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “Nghiên cứu chính sách ngôn ngữ ở Nhật Bản thời cận đại”,
luận văn hướng tới các mục tiêu sau:
- Nghiên cứu để có một cái nhìn toàn cảnh về chính sách ngôn ngữ ở
Nhật Bản thời cận đại trong mối quan hệ với các điều kiện chính trị, xã hội, văn
hóa giai đoạn này.
- Tìm hiểu vai trò của chính sách ngôn ngữ tác động đến sự phát triển,
vị thế và hoạt động của tiếng Nhật trong các phạm vi giáo dục, khoa học, văn
hóa, hành chính và đến chính sự biến đổi các phương diện của tiếng Nhật (từ
vựng, ngữ âm, ngữ pháp) trong giai đoạn cận đại và cả những giai đoạn phát
triển sau của Nhật Bản.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chính sách ngôn ngữ là một trong những vấn đề quan trọng đối với mọi
quốc gia, phải được đề cập tới và xây dựng dưới dạng quy định chặt chẽ của
nhà nước ngay từ khi quốc gia mới được thành lập. Đối với không ít quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, chính sách ngôn ngữ
liên quan chặt chẽ với những quyết sách về chính trị, xã hội, tôn giáo của nhà
cầm quyền, liên quan tới vị thế của dân tộc hay tầng lớp giữ vai trò lãnh đạo
xã hội. Với tầm quan trọng như vậy, chính sách ngôn ngữ được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm nhằm tìm hiểu không chỉ các vấn đề thuộc về ngôn ngữ,
mà rộng hơn là những vấn đề liên quan đến quan điểm chính trị, chiến lược
4
phát triển đất nước, trong đó có văn hóa, giáo dục, khoa học, thông tin… là
những lĩnh vực sử dụng ngôn ngữ với tư cách là phương tiện thực hiện hay
truyền tải.
Tại Nhật Bản, chính sách ngôn ngữ luôn là một cấu phần quan trọng
trong các công trình nghiên cứu tiếng Nhật từ góc độ đồng đại và lịch đại,
trong đó có thể kể đến như: “Lịch sử tiếng Nhật” (日本語の歴史 - Nihongo
no rekishi) của Yamaguchi Nakami (2006); “Chính sách ngôn ngữ ở Nhật
Bản” (日本の言語政策 - Nihon no gengoseisaku) của Shiota Norikazu
(2005)…
Ở Việt Nam, cũng đã có một số bài viết giới thiệu về chính sách ngôn
ngữ ở Nhật Bản như “Nhật Bản - nhịp cầu chuyển tải tư tưởng và văn minh
phương Tây vào phương Đông” của Nguyễn Thị Việt Thanh, “Chính sách
ngôn ngữ ở Nhật Bản thời kì cận - hiện đại” của Fukuda Yasuo và một số
nghiên cứu khác. Tuy nhiên các bài viết và nghiên cứu này chủ yếu dừng ở
bước giới thiệu các phân kì cơ bản chính sách ngôn ngữ hay giới thiệu ảnh
hưởng của chính sách ngôn ngữ giai đoạn cận đại Nhật Bản đối với Việt Nam
giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong phong trào Đông Du hay Tân
Thư. Còn thực tế, cho tới nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào tập
trung nghiên cứu chuyên sâu về chính sách ngôn ngữ giai đoạn này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chính sách ngôn ngữ.
Phạm vi nghiên cứu là giai đoạn cận đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành mục đích nghiên cứu trên, luận văn này sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu chính là: tổng hợp tư liệu, tài liệu văn bản liên quan
đến chính sách ngôn ngữ, đến hiện trạng thực thi chính sách. Thực hiện thủ
pháp phân tích, tổng hợp trên cơ sở cứ liệu nhằm đưa ra các kết luận.
5
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 1 sẽ trình bày những quan điểm của các nhà nghiên cứu về
chính sách ngôn ngữ và một số vấn đề có liên quan chặt chẽ, không thể tách
rời với chính sách ngôn ngữ như: mối quan hệ giữa chính sách ngôn ngữ với kế
hoạch hóa ngôn ngữ, mối quan hệ giữa chính sách ngôn ngữ với lập pháp ngôn
ngữ, trong đó nhấn mạnh vai trò của nhà nước đối với việc tác động nhằm
định hướng, điều chỉnh sự phát triển hoặc sử dụng ngôn ngữ theo một cách
nhất định nhằm thực hiện những mục tiêu nào đó.
Chương 2: Một số đề xuất cải cách ngôn ngữ ở Nhật Bản giai đoạn cận đại
Chương 2 sẽ mô tả bức tranh về điều kiện lịch sử - xã hội và những mục
tiêu chính trị tác động đến sự hình thành chính sách ngôn ngữ của Nhật Bản
giai đoạn cận đại. Trước tình hình tiếng Nhật chưa ổn định và thống nhất, các
học giả, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đưa ra các đề xuất phương án cải cách
chữ viết trong tiếng Nhật như: đề xuất xóa bỏ chữ Hán chỉ sử dụng chữ Kana,
đề xuất sử dụng chữ cái Latinh, đề xuất sử dụng kiểu chữ mới, đề xuất hạn chế
số lượng chữ Hán, đề xuất sử dụng tiếng Anh.
Chương 3: Các quyết định của chính quyền về chính sách ngôn
ngữ và kết quả thực hiện
Chương 3 sẽ trình bày nội dung chính sách ngôn ngữ mà chính quyền
Nhật Bản đã ban hành trên cơ sở các nghiên cứu, đề xuất của các tổ chức và
các nhà khoa học. Nội dung của các chính sách ngôn ngữ nhằm nâng cao vị
thế tiếng Nhật trong xã hội và cải tiến tiếng Nhật về các phương diện, nhằm
hướng tới mục đích nhanh chóng xây dựng một nước Nhật hùng cường.
.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Chính sách ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm chính sách ngôn ngữ
Thuật ngữ “Chính sách ngôn ngữ” (Language policy) đã được đề cập
đến với tư cách là một thuật ngữ công cụ quan trọng trong ngôn ngữ học xã
hội từ những năm 70 của thế kỷ trước. Thuật ngữ này đã được đưa ra trong
các nghiên cứu của Joshua Aaron Fishman (1970) trong tác phẩm “Ngôn ngữ
học xã hội” (Sociolinguistics) (bằng tiếng Anh), của Rafael Ninyoles (1975)
trong tác phẩm “Cấu trúc xã hội và chính sách ngôn ngữ” (Estructura Social y
Political Linguista) và của Helmut Gluck (1981) trong tác phẩm “Cấu trúc
ngôn ngữ và chính sách ngôn ngữ” (Sprach Theorie und Sprachien Politik)
(bằng tiếng Đức và tiếng Pháp). Tiếp sau đó, trong hàng loạt công trình
nghiên cứu, chính sách ngôn ngữ, cùng với đó là kế hoạch hóa ngôn ngữ,
chuẩn hóa ngôn ngữ, ngôn ngữ và dân tộc… là những đề mục không thể thiếu
trong nhiều công trình thuộc địa hạt ngôn ngữ học xã hội ở nhiều nước, tiêu
biểu là Nga, Đức, Anh, Mỹ, Tiệp Khắc…
Tại Việt Nam, thuật ngữ “Chính sách ngôn ngữ” đã trở nên quen thuộc
với các nhà ngôn ngữ và các nhà hoạch định chính sách từ những năm 60 của
thế kỷ trước trong những nghiên cứu đề xuất xây dựng các chính sách ngôn
ngữ phù hợp cho một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ phức tạp như Việt
Nam. Có thể kể đến một số tác giả có nhiều bài viết nổi tiếng về chính sách
ngôn ngữ như Hoàng Tuệ, Hoàng Phê, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang,
Trần Trí Dõi…
Theo từ điển Tiếng Việt thì chính sách là “Sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình
hình thực tế mà đề ra” [29; 173]. Như vậy, khái niệm chính sách ngôn ngữ là
7
một trong những khái niệm của rất nhiều các khái niệm về chính sách mà nhà
nước, chính phủ đề ra về vấn đề ngôn ngữ nhằm hướng sự hoạt động của
ngôn ngữ phục vụ những mục đích mang tính quốc gia.
Như mọi chính sách, chính sách ngôn ngữ gồm hai mặt: “Mặt lý thuyết
là những cơ chế của sự giao tiếp ngôn ngữ, về chức năng, bản chất và quy luật
phát triển của ngôn ngữ. Mặt hành động thực tiễn là những chủ trương của
nhà nước và đồng thời là những chương trình, kế hoạch thực hiện những chủ
trương ấy nhằm tác động vào sự phát triển của ngôn ngữ” [15; 62].
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Khang có khá nhiều định nghĩa hay
cách hiểu về “Chính sách ngôn ngữ”. Tựu chung có các trường phái chính
như sau: [10; 145-146]
“Chính sách ngôn ngữ là phạm trù khái niệm thuộc lĩnh vực chính trị -
xã hội, biểu thị hệ thống những quan điểm, những chủ trương và biện pháp
của một nhà nước hay của một tổ chức chính trị - xã hội, nhằm tác động một
cách có ý thức theo một định hướng nhất định vào sự hành chức và phát triển
của ngôn ngữ, phù hợp với cảnh huống ngôn ngữ và bối cảnh chính trị - xã
hội của đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhằm phục vụ cho lợi
ích của đất nước, của các giai tầng xã hội mà nhà nước ấy, hay tổ chức chính
trị - xã hội ấy làm người đại diện” (Hoàng Văn Hành, 2002).
“Nói đến chính sách ngôn ngữ là nói đến sự can thiệp có ý thức, có tổ
chức, có cơ sở khoa học của xã hội vào sự hoạt động và phát triển của ngôn
ngữ. Nói cách khác, chính sách ngôn ngữ là sự lãnh đạo những yêu cầu ngôn
ngữ học của xã hội dựa trên sự hiểu biết khoa học về những quy luật của ngôn
ngữ, đưa ngôn ngữ vào quỹ đạo phát triển chung của xã hội, làm cho ngôn ngữ
phục vụ ăn khớp với sự phát triển của xã hội” (Nguyễn Hàm Dương, 1975).
“Chính sách ngôn ngữ là các chủ trương chính trị của một nhà nước,
chính xác hơn là của giai cấp thống trị nhà nước, một đảng phái, một nhóm xã
8
hội về vấn đề ngôn ngữ và các biện pháp thực hiện các chủ trương đó nhằm
hướng sự hoạt động của ngôn ngữ và các hình thức tồn tại của ngôn ngữ theo
những mục đích nhất định. Tính quy định chính trị là cơ sở để phân biệt và
đánh giá tính chất tiến bộ và phản tiến bộ của chính sách ngôn ngữ trong các
nước có chế độ xã hội khác nhau. Nó cũng là chỗ dựa để phân biệt các khái
niệm chính sách ngôn ngữ, xây dựng ngôn ngữ, kế hoạch hóa ngôn ngữ vốn
đang được dùng như là khái niệm đồng nghĩa trong các khuynh hướng ngôn
ngữ học xã hội gần đây” (Nguyễn Như Ý, 1985).
“Chính sách ngôn ngữ, hiểu theo nghĩa rộng “là các nguyên tắc mang
tính ý thức và các biện pháp thực tế để giải quyết các vấn đề ngôn ngữ trong
một quốc gia”, còn chính sách ngôn ngữ theo nghĩa hẹp “là hệ thống các biện
pháp nhằm làm biến đổi hoặc duy trì cảnh huống ngôn ngữ, hoặc làm thay đổi
hay duy trì chuẩn mực ngôn ngữ” (Nguyễn Văn Lợi, 2002).
“Chính sách ngôn ngữ là hệ thống biện pháp nhằm tác động một cách
có ý thức để điều chỉnh mặt chức năng của ngôn ngữ và thông qua đó tác
động đến cấu trúc ngôn ngữ ở một chừng mực nhất định” (V.A. Avrorin,
1970).
“Chính sách ngôn ngữ là toàn bộ các biện pháp nhằm thay đổi hoặc
bảo tồn sự phân bố chức năng đang tồn tại giữa các ngôn ngữ hay hình thái
ngôn ngữ nhằm áp dụng những chuẩn mực mới hay bảo lưu những chuẩn
mực đang sử dụng. Chính sách ngôn ngữ là toàn bộ hoạt động thực tiễn có
mục đích nhằm điều chỉnh các quá trình ngôn ngữ tự nhiên, cả ở các nước đa
dân tộc cả ở các nước đơn dân tộc và mang tính cấp tiến vừa mang tính bảo
thủ” (Nikolskij, L.B, 1982).
Trên cơ sở tổng hợp các ý kiến nêu trên, tác giả nhận thấy: chính sách
ngôn ngữ là một bộ phận không thể thiếu trong chính sách dân tộc chung của
một đất nước. Đây là một hệ thống những quan điểm, chủ trương, biện pháp
9
chính thức của nhà nước hoặc một tổ chức chính trị xã hội nào đó nhằm tác
động một cách có ý thức theo một định hướng nhất định vào sự hành chức
và phát triển ngôn ngữ sao cho phù hợp với tình hình ngôn ngữ và bối cảnh
chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước trong những giai đoạn lịch sử nhất
định, nhằm phục vụ lợi ích của đất nước hoặc của một tầng lớp xã hội nhất
định nào đó.
Chính sách ngôn ngữ phụ thuộc vào chính sách dân tộc của nhà nước.
Cùng với văn hóa, ngôn ngữ là một trong hai tác nhân quan trọng có khả năng
vừa tụ hợp, bảo vệ dân tộc vừa để chống lại sự xâm nhập và đồng hóa dân tộc.
Chính sách ngôn ngữ là khái niệm bao trùm lên toàn bộ vấn đề ngôn ngữ của
một quốc gia, thậm chí vượt ra ngoài ranh giới của một quốc gia.
Để thực thi những quan điểm của chính sách ngôn ngữ đòi hỏi phải có
chiến lược về ngôn ngữ quốc gia. Chính sách ngôn ngữ và chiến lược ngôn
ngữ quốc gia đều là những vấn đề chính trị xã hội, đòi hỏi được giải quyết
trong quá trình phát triển của một quốc gia trên cơ sở cảnh huống ngôn ngữ
của quốc gia đó. Giữa chính sách ngôn ngữ và cảnh huống ngôn ngữ có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, chỉ có chính sách ngôn ngữ mà tính đến tất
cả các nhân tố của cảnh huống ngôn ngữ thì mới có kết quả.
Chính sách ngôn ngữ là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp trong sự
ổn định và phát triển của một dân tộc một quốc gia. Tuy nhiên, nội dung
chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia khác nhau thường không giống nhau.
Ở các quốc gia đơn dân tộc, đơn ngữ, chính sách ngôn ngữ có nhiệm vụ
chính là phát triển và hoàn thiện các chức năng xã hội và chuẩn hóa ngôn ngữ
quốc gia như giải quyết những vấn đề về chuẩn mực ngôn ngữ, mối quan hệ
giữa ngôn ngữ quốc gia và ngoại ngữ… Trong khi đó, các quốc gia đa dân tộc,
đa ngữ thì nhiệm vụ của chính sách ngôn ngữ phức tạp hơn nhiều như lựa
chọn ngôn ngữ quốc gia, giải quyết mối quan hệ giữa ngôn ngữ quốc gia và
10
ngôn ngữ các dân tộc khác, giải quyết những vấn đề liên quan đến giáo dục
ngôn ngữ, hành chức và hoạt động ngôn ngữ trong những phạm vi, bối cảnh
xã hội khác nhau.
Như vậy, chính sách ngôn ngữ là một bộ phận hay một nội dung trong
hệ thống chính sách chính trị - xã hội của một quốc gia. Chính sách ngôn ngữ
là một hệ thống các biện pháp, có thể là biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp
luật, các đường lối chủ trương, các kế hoạch, quy chế… nhằm tác động vào
các quá trình phát triển của cảnh huống ngôn ngữ, tạo phương hướng cho
ngôn ngữ phát triển phù hợp với các nhu cầu của xã hội. Chính sách ngôn ngữ
cũng chính là kế hoạch phát triển ngôn ngữ có liên quan đến kế hoạch phát
triển xã hội, tộc người; có liên quan đến chính sách phát triển văn hóa, giáo
dục của nhà nước. Kế hoạch phát triển ngôn ngữ thường được thể hiện ra
bằng một loạt biện pháp như: Quy định ngôn ngữ quốc gia, xác định ngôn
ngữ chuẩn, giải quyết các mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ
nói, giải quyết mối quan hệ của ngôn ngữ quốc gia và ngôn ngữ nước ngoài,
xác định các chuẩn ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, chính tả…
Với mọi quốc gia trên thế giới thì chính sách ngôn ngữ có vai trò rất
quan trọng trong đời sống xã hội. Muốn phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội… thì vấn đề đầu tiên cần lưu tâm với mỗi dân tộc là vấn đề phát triển
ngôn ngữ. Một chính sách ngôn ngữ phù hợp sẽ đảm bảo cho sự ổn định xã
hội và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Chính sách ngôn ngữ thực
chất là nhằm giải quyết các vấn đề: Quan hệ giữa ngôn ngữ quốc gia và ngôn
ngữ các dân tộc thiểu số, giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ nói, giữa ngôn
ngữ bản địa và ngôn ngữ nước ngoài.
1.1.2. Các hệ vấn đề của chính sách ngôn ngữ
Thứ nhất, chính sách ngôn ngữ là một trong những nhân tố của quá
trình phát triển ngôn ngữ. Bởi vì chính sách ngôn ngữ tác động đến sự phân
11
bố chức năng giữa các thực thể ngôn ngữ trong quốc gia bao gồm quan hệ
giữa các ngôn ngữ, giữa các phương ngữ, giữa các hình thức ngôn ngữ nói,
viết… Hơn nữa chính sách ngôn ngữ còn tác động đến sự phát triển của hệ
thống ngôn ngữ. Cả hai tác động trên đều diễn ra theo hai hướng là kích thích
sự phát triển và kiềm chế sự phát triển. Trong phạm vi giữa các ngôn ngữ có
thể kích thích sự phát triển của ngôn ngữ ở vị trí hàng đầu đồng thời cản trở
sự mở rộng và hạn chế phạm vi chức năng của một số ngôn ngữ khác, tạo nên
sự phân bố chức năng theo kiểu đa thể ngữ giữa các ngôn ngữ trong một quốc
gia. Có thể thấy chính sách ngôn ngữ liên quan đến việc lựa chọn ngôn ngữ,
lựa chọn hình thức tồn tại của ngôn ngữ và lựa chọn các đơn vị ngôn ngữ để
đạt được mục đích giao tiếp nhất định.
Thứ hai, chính sách ngôn ngữ được xây dựng để giải quyết những vấn
đề ngôn ngữ nảy sinh trong xã hội. Đó là những vấn đề đa dạng và phức tạp,
tuy nhiên có thể đưa về hai dạng chính: dạng vĩ mô và dạng vi mô. Thuộc
dạng vĩ mô là những vấn đề liên quan đến sự phân bố các thực thể ngôn ngữ
theo phạm vi giao tiếp. Vấn đề lựa chọn ngôn ngữ cho mục đích giao tiếp nào
đó không chỉ bao gồm quá trình lựa chọn thể trạng ngôn ngữ mà còn bao gồm
cả quá trình tuyển lựa các đơn vị ngôn ngữ trong qua trình chuẩn hóa, qui
hoạch ngôn ngữ. Thuộc dạng vi mô là những vấn đề nảy sinh trong quá trình
giao tiếp của các thực thể riêng rẽ. Nghiên cứu các vấn đề thuộc vĩ mô và vi
mô một mặt giúp cho ta hiểu rõ hơn nội dung cụ thể của chính sách ngôn ngữ
và mặt khác tạo cơ sở khách quan cho chính sách ngôn ngữ.
Thứ ba, nhìn từ góc độ xã hội học, chính sách ngôn ngữ là một phần
chính sách đối nội của một quốc gia nào đó. Điều này thể hiện ở chỗ, cần xem
xét chính sách ngôn ngữ được đưa ra thể hiện lợi ích của toàn xã hội hay chỉ
thể hiện lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ở đây một lần nữa cho thấy vai trò vô
cùng quan trọng của chính sách ngôn ngữ. Vì thế, một chính sách ngôn ngữ
12
phù hợp với cảnh huống ngôn ngữ là phải làm cho ngôn ngữ trở thành một
biểu tượng của sự thống nhất cộng đồng về mặt chính trị, văn hóa xã hội và
dân tộc và làm cho ngôn ngữ trở thành công cụ đoàn kết chính trị các cộng
đồng ngôn ngữ dân tộc khác nhau trong phạm vi quốc gia.
Khi nói đến các yếu tố hình thành dân tộc thì ngôn ngữ được coi là một
trong những yếu tố quan trọng, là linh hồn của dân tộc. Nhìn rộng ra, ở các
quốc gia đa dân tộc, ngôn ngữ cùng với dân tộc, tôn giáo là một trong những
vấn đề nóng bỏng nhưng lại hết sức nhạy cảm và tế nhị. Không ít những cuộc
chiến tranh xảy ra trong nội bộ một quốc gia đa dân tộc do nguyên nhân xung
đột dân tộc mà yếu tố ngôn ngữ vừa là nguyên nhân vừa như hệ quả.
Vì thế, bất kì một quốc gia nào cũng coi trọng vấn đề ngôn ngữ bằng
việc đưa ra một chính sách ngôn ngữ phù hợp để góp phần vào duy trì, củng
cố nền độc lập, thống nhất quốc gia, đẩy mạnh phát triển kinh tế, củng cố
chính quyền cũng như sự đoàn kết thống nhất giữa các dân tộc hay trong nội
bộ một dân tộc.
Việc xác định ngôn ngữ quốc gia và chính sách ngôn ngữ quốc gia
trong mối quan hệ với ngôn ngữ các dân tộc khác là không đơn giản. Chính
sách ngôn ngữ được đặc trưng bởi sự định hướng vào ngôn ngữ của một
nhóm dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và tạo cho ngôn ngữ này một địa vị
ưu tiên; còn trong quốc gia đơn dân tộc thì chính sách ngôn ngữ tập chung
chống lại việc sử dụng các yếu tố ngôn ngữ nước ngoài, những yếu tố duy
nhất được chấp nhân là yếu tố gốc bản ngữ.
Vì vậy, khi làm chính sách ngôn ngữ cần tính đến những nội dung
như: lợi ích lâu dài của giai cấp vốn quy định bản chất giai cấp của chính
sách ngôn ngữ, lợi ích của cộng đồng dân tộc, mục đích văn hóa, quan điểm
tôn giáo.
13
1.1.3. Mối quan hệ giữa chính sách ngôn ngữ với kế hoạch hóa
ngôn ngữ
1.1.3.1. Khái niệm kế hoạch hóa ngôn ngữ
Kế hoạch hóa ngôn ngữ (còn gọi là quy hoạch ngôn ngữ) có thể được
hiểu là công việc quản lý ngôn ngữ. Thuật ngữ này ra đời vào những năm
cuối thập niên 50 đầu thập niên 60 của thế kỷ XX. Kế hoạch hóa ngôn ngữ
chịu tác động rất lớn của bối cảnh ngôn ngữ xã hội lúc đó. Hay nói cách khác,
chính bối cảnh ngôn ngữ xã hội khi đó là cơ sở xã hội ngôn ngữ cho sự ra đời,
hình thành và phát triển của công việc kế hoạch hóa ngôn ngữ.
Kế hoạch hóa ngôn ngữ là một bộ phận của chính sách ngôn ngữ, hay
nói cách khác đó là sự thực thi chính sách. Nghĩa là giữa kế hoạch hóa ngôn
ngữ và chính sách ngôn ngữ có một mối quan hệ vô cùng chặt chẽ.
Sau đại chiến thế giới thứ II, nhiều quốc gia trên thế giới giành được
độc lập, vấn đề di dân cũng nổi lên có liên quan đến sử dụng ngôn ngữ… tất
cả tạo nên một bức tranh đa tạp về văn hóa, ngôn ngữ và chính trị. Nhưng có
lẽ đối với chính quyền hành chính thì sự phức tạp trở nên bội phần là xử lí các
vấn đề liên quan đến ngôn ngữ. Bởi vậy, kế hoạch hóa ngôn ngữ có tầm quan
trọng to lớn đối với sự ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, văn hóa của
một quốc gia. Thực tế chứng minh rằng, ngôn ngữ phát triển hợp lí sẽ tạo đà
tốt cho sự phát triển quốc gia, dân tộc. Ngược lại nó sẽ cản trở sự phát triển
hưng thịnh của quốc gia và rất dễ dẫn đến các xung đột dân tộc có nguyên
nhân từ xung đột ngôn ngữ.
Kế hoạch hóa ngôn ngữ là một phản ứng điều tiết có chủ động, có tổ
chức, có kế hoạch đối với hoạt động của ngôn ngữ, bao gồm ba nội dung lớn
là kế hoạch địa vị ngôn ngữ, kế hoạch hóa bản thể ngôn ngữ và kế hoạch hóa
uy tín ngôn ngữ. Như vậy, kế hoạch hóa ngôn ngữ là tác động của con người
vào ngôn ngữ nhưng sự tác động đó không phải là tùy tiện mà có tổ chức.
14
1.1.3.2. Một số định nghĩa về kế hoạch hóa ngôn ngữ
Theo tác giả Robert Cooper
có rất nhiều cách hiểu khác nhau của các
nhà nghiên cứu về kế hoạch hóa ngôn ngữ như sau: [61; 29-35]
“Kế hoạch hóa ngôn ngữ là quản lí để hoàn thiện ngôn ngữ vốn có,
sáng tạo ra ngôn ngữ chung của cộng đồng ngữ, ngôn ngữ khu vực và ngôn
ngữ quốc tế” (P.S. Ray).
“Kế hoạch hóa ngôn ngữ là sự hoạt động điều chỉnh và cải thiện các
ngôn ngữ sẵn có hoặc tạo ra những ngôn ngữ mới” (V. Tauli).
“Kế hoạch hóa ngôn ngữ nhằm chỉ những hoạt động cũng như những
cố gắng tập trung vào việc tạo nên những thay đổi có chủ ý hoặc có kế hoạch
đối với ngôn ngữ, đối với cách sử dụng ngôn ngữ, tác động đến hành vi ngôn
ngữ” (R.L. Cooper).
“Kế hoạch hóa ngôn ngữ là một sự theo đuổi có tổ chức những giải
pháp cho vấn đề ngôn ngữ, điển hình là ở cấp độ quốc gia” (Joshua Aaron
Fishman).
“Kế hoạch hóa ngôn ngữ là sự thay đổi ngôn ngữ một cách có chủ ý;
nghĩa là, thay đổi trong những hệ thống mã ngôn ngữ hay những hệ thống
tiếng nói hay cả hai được quy hoạch bởi những tổ chức” (J. Rubin).
“Kế hoạch hóa ngôn ngữ là lựa chọn nền tảng của giao tiếp, được sự
thừa hưởng quyền của nhà nước mà cố gắng một cách không ngừng, có ý thức
để thay đổi chức năng của ngôn ngữ trong xã hội” (Weinstien).
“Kế hoạch hóa ngôn ngữ bao hàm những quyết định có quan hệ tới việc
dạy và sử dụng ngôn ngữ, cùng với những quy tắc do những người có thẩm
quyền quy định để hướng dẫn mọi người thực hiện” (Markee).
Với các định nghĩa trên, tác giả nhận thấy: điểm quan trọng nhất về kế
hoạch hóa ngôn ngữ là sự quan tâm có hệ thống, có tổ chức, mang tính xã hội
tới các vấn đề ngôn ngữ. Nó bao hàm cả những quy định có quan hệ tới việc
15
dạy và sử dụng ngôn ngữ, cùng với những qui tắc do những người có thẩm
quyền quy định để hướng dẫn mọi người thực hiện.
Tuy vậy, một số nhà nghiên cứu cũng có những cách quan niệm không
thực sự thống nhất. Theo hai tác giả P.S. Ray và V. Tauli thì kế hoạch ngôn
ngữ tập trung chủ yếu vào nội bộ ngôn ngữ, tức là nhấn mạnh đến tính công
cụ của ngôn ngữ. Còn theo quan điểm của tác giả J. Rubin thì kế hoạch hóa
ngôn ngữ xuất phát từ sự biến đổi theo hướng phát triển ngôn ngữ một cách
có ý thức thông qua tác động của yếu tố con người và một điều quan trọng
hơn là ở định nghĩa này tác giả đã chỉ ra được sự khác nhau giữa sự biến đổi
của ngôn ngữ là do kế hoạch hóa ngôn ngữ mang lại so với sự biến đổi ngôn
ngữ do cá nhân mang đến. Tác động của một cá nhân thường là không tự giác,
ở một qui mô nhỏ hẹp còn tác động kiểu kế hoạch hóa ngôn ngữ là có qui mô,
mang tính chính thức và có ý thức rõ rệt.
Bên cạnh đó, quan điểm của Weinstein lại có những điểm mới khi cho
rằng kế hoạch ngôn ngữ là một nỗ lực cụ thể, có hệ thống nhằm giải quyết
các vấn đề ngôn ngữ và nhằm giải quyết các vấn đề ngôn ngữ và nhằm đạt
một mục tiêu có liên quan thông qua sự can thiệp có tổ chức về mặt thể chế
đối với việc sử dụng kế hoạch ngôn ngữ. Sau Weinstein, Markee lại bổ sung
thêm một nội dung nữa trong kế hoạch hóa ngôn ngữ, đó là vấn đề giảng dạy,
giáo dục ngôn ngữ, bao gồm ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ dân tộc và ngoại
ngữ như là những nội dung quan trọng, không thể thiếu.
Qua một số định nghĩa trên cũng như những cách giải thích mang tính
định nghĩa, có thể thấy xung quanh khái niệm kế hoạch hóa ngôn ngữ bên
cạnh những quan điểm trùng nhau thì giữa các tác giả còn có cái nhìn khác
nhau. Sự khác nhau đó tập trung vào ba nội dung với ba câu hỏi sau: Ai làm
kế hoạch hóa ngôn ngữ; kế hoạch hóa ngôn ngữ là gì và kế hoạch hóa ngôn
ngữ như thế nào.
16
Có thể nói, kế hoạch hóa ngôn ngữ là những cố gắng tác động vào chức
năng của ngôn ngữ, cái cách thức người ta sử dụng ngôn ngữ. Kế hoạch hóa
đặc biệt hướng tới việc sử dụng ngôn ngữ trong chức năng nghi thức hay công
cộng hơn là trong giao tiếp thông thường hàng ngày, nơi mà ở đó sự lựa chọn
được quyết định bởi các nhân tố tâm lý, xã hội, tự nhiên chi phối hoàn cảnh
nói năng. Do vậy có thể hình dung khái niệm kế hoạch hóa ngôn ngữ bao
gồm: sự can thiệp, tính rõ ràng, tính hướng đích, tính hệ thống, sự lựa chọn
các giải pháp và sự điển chế hóa.
Kế hoạch hóa ngôn ngữ bao gồm hai nội dung lớn là kế hoạch hóa địa
vị ngôn ngữ và kế hoạch hóa bản thể ngôn ngữ.
- Kế hoạch hóa địa vị ngôn ngữ được hiểu là làm thay đổi chức năng xã
hội của một ngôn ngữ hay một phương ngữ. Ở trong xã hội đa ngữ hay đa
phương ngữ, địa vị của một ngôn ngữ hay phương ngữ được xác lập nhờ mối
quan hệ của nó đối với các ngôn ngữ và các phương ngữ khác. Địa vị này
thường được xem xét từ chức năng giao tiếp của ngôn ngữ hay phương ngữ
đó. Vì tính chất quan trọng liên quan đến sinh mệnh của từng ngôn ngữ cũng
như quyền lợi của các thành viên trong xã hội nên kế hoạch địa vị ngôn ngữ là
vấn đề thuộc phạm vi quan tâm của nhà nước dưới các hình thức chính phủ
trực tiếp chỉ đạo hoặc giao cho tổ chức thừa quyền.
- Kế hoạch bản thể ngôn ngữ nhằm chuẩn hóa và phát triển bản thân
ngôn ngữ. Đây là nhằm giải quyết mối quan hệ nội tại trong bản thân ngôn
ngữ, cụ thể là việc cải tạo theo hướng tích cực bản thân ngôn ngữ ở các bình
diện ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, chữ viết. Muốn thực thi kế hoạch hóa bản
thể ngôn ngữ được quyết định bởi hai nhân tố. Một là xác định mức độ phát
triển của ngôn ngữ cần được kế hoạch hóa bản thể; thứ hai là xác định nhu
cầu trong xã hội của từng ngôn ngữ. Tùy thuộc vào bản thân từng ngôn ngữ
để đưa ra những nội dung kế hoạch hóa cho phù hợp. Đối với các ngôn ngữ
17
đã ở mức độ tương đối phát triển thì kế hoạch hóa bản thể ngôn ngữ chủ yếu
tập trung vào mặt chuẩn hóa và giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ. Trong
khi đó đối với ngôn ngữ chưa có truyền thống chữ viết hoặc ở mức độ phát
triển thấp thì kế hoạch hóa ngôn ngữ lại tập trung chủ yếu vào mở rộng, nâng
cao năng lực thực hiện chức năng của bản thể ngôn ngữ (qua các yếu tố từ
vựng, ngữ pháp).
Bên cạnh hai nội dung cơ bản trên, trong một số quốc gia còn phải bổ
sung thêm nội dung kế hoạch hóa uy tín ngôn ngữ, tức là hướng tới xây dựng
những giá trị hoặc uy tín của một (hoặc một số ngôn ngữ) nào đấy trong xã
hội, nhằm những mục tiêu chính trị hay xã hội cho cộng đồng sử dụng ngôn
ngữ đó. Đối với những quốc gia có vấn đề về sắc tộc hoặc dân tộc, nhiều khi
những cố gắng của kế hoạch hóa địa vị ngôn ngữ và kế hoạch hóa bản thể
ngôn ngữ sẽ không thành công nếu thiếu kế hoạch hóa uy tín ngôn ngữ.
Như vậy, giữa chính sách ngôn ngữ và kế hoạch ngôn ngữ có mối quan
hệ chặt chẽ, phụ thuộc với nhau. Kế hoạch hóa ngôn ngữ là sự vận dụng của
chính sách ngôn ngữ trong thực tế hoặc cũng có thể coi chính sách ngôn ngữ
như một khung pháp lý và việc kế hoạch hóa ngôn ngữ là sự triển khai một
cách tổng thể, hệ thống các hoạt động nhằm xác định rõ và bảo đảm vị thể nào
đó cho một hoặc một số ngôn ngữ.
Tuy vậy, về vấn đề này có những sự khác biệt đáng kể giữa các nhà
nghiên cứu Hoa Kỳ và nhà nghiên cứu châu Âu. Các nhà nghiên cứu Hoa
Kỳ có xu thế hướng nhấn mạnh chủ yếu đến mặt kĩ thuật của việc can thiệp
vào cảnh huống ngôn ngữ tạo thành kế hoạch hóa, trong khi đó những nhà
nghiên cứu Châu Âu lại chú trọng tới vai trò hoặc quyền lực của chính
quyền đối với ngôn ngữ, tức là coi trọng sự can thiệp của con người vào
ngôn ngữ. Tuy nhiên, cả hai trường phái đều thống nhất kế hoạch hóa ngôn
ngữ không chỉ thuộc về bản thân ngôn ngữ mà còn chịu ảnh hưởng lớn của
18
quyết sách chính trị của chính quyền và khả năng triển khai, thực hiện các
quyết sách chính trị đó.
1.1.4. Mối quan hệ giữa chính sách ngôn ngữ với lập pháp ngôn ngữ
Khi nói đến chính sách ngôn ngữ, người ta không thể không nhắc đến
những quy định trong hiến pháp về ngôn ngữ, các pháp lệnh, bộ luật… và rất
nhiều điều khoản, quy định khác. Đó là các quy định mang tính cưỡng chế về
quyền lợi, nghĩa vụ và mục tiêu thực hiện. Thông qua pháp luật để quy định
quyền lợi và nghĩa vụ của một ngôn ngữ.
Nói chung, luật pháp về ngôn ngữ thường ít khi can thiệp vào các lĩnh
vực sử dụng ngôn ngữ phi chính thức hoặc cá nhân mà tập trung vào lĩnh vực
sử dụng ngôn ngữ chính thức như:
- Xác định vị thế quốc gia của ngôn ngữ quốc gia.
- Xác định vị thế pháp lý của các ngôn ngữ khác trong quốc gia.
- Xác định quyền và nghĩa vụ của công dân đối với ngôn ngữ.
- Xác định trách nhiệm của nhà nước và các cơ quan pháp luật đối với
vấn đề ngôn ngữ.
- Quy định cụ thể về sử dụng từng ngôn ngữ ở phạm vi đối nội (trong
hành chính công quyền, trong giáo dục, xuất bản, phương tiện thông tin đại
chúng ) và đối ngoại (trong ngoại giao, trong các tổ chức quốc tế…).
- Quy định về chuẩn mực ngôn ngữ như cách đọc, cách viết, ngữ
pháp… (thường đối với ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ chính thức…) và
việc xây dựng chữ viết, điều chỉnh chữ viết, chọn chữ viết đối với các ngôn
ngữ dân tộc thiểu số.
1.2. Cảnh huống ngôn ngữ
Chính sách ngôn ngữ là phạm trù thuộc lĩnh vực chính trị - xã hội, cảnh
huống ngôn ngữ là phạm trù thuộc văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, cảnh huống
ngôn ngữ và chính sách ngôn ngữ có một mối quan hệ vô cùng khăng khít,
19
luôn gắn liền với nhau và khái niệm này là một trong những phạm trù cơ bản
của ngôn ngữ học xã hội.
Về khái niệm cảnh huống ngôn ngữ có rất nhiều định nghĩa khác nhau.
Theo Hoàng Văn Hành “Cảnh huống ngôn ngữ là phạm trù thuộc văn hóa tinh
thần của cộng đồng tộc người hay liên cộng đồng tộc người, định hình trong
tiến trình lịch sử lâu dài trên một vùng lãnh thổ (một quốc gia, một khu vực)
phản ánh trạng thái tồn tại và các hình thái thể hiện sự hoạt động và tác động
qua lại của các ngôn ngữ” [8; 30].
Nguyễn Như Ý thì cho rằng cảnh huống ngôn ngữ là: “Toàn bộ các
ngôn ngữ hoặc toàn bộ các hình thức tồn tại của một ngôn ngữ có các quan
hệ tương hỗ về mặt lãnh thổ và xã hội, có sự tác động qua lại với nhau về
mặt chức năng trong phạm vi một vùng địa lý hoặc một thể thống nhất về
chính trị - hành chính nhất định. Thông thường cảnh huống ngôn ngữ được
hiểu là toàn bộ các hình thái tồn tại (kể cả các phong cách) của một ngôn
ngữ hay của các ngôn ngữ trong một quốc gia hay một khu vực địa lý nhất
định” [31; 30].
Từ những định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng: cảnh huống ngôn ngữ
chính là các chức năng và các hình thức tồn tại của ngôn ngữ có liên quan
chặt chẽ với các điều kiện xã hội, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Cảnh
huống ngôn ngữ của một quốc gia hay một khu vực luôn chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng trong việc xác định địa vị của các ngôn ngữ. Để xây dựng và
thực thi chính sách ngôn ngữ một cách hiệu quả thì cần thiết phải xác định
được cảnh huống ngôn ngữ, bao gồm các nhân tố: dân tộc - nhân khẩu, các
nhân tố ngôn ngữ học, các nhân tố vật chất và nhân tố con người.
Tiểu kết
Chính sách ngôn ngữ là một vấn đề của ngôn ngữ - xã hội, thuộc lĩnh
vực nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội. Chính sách ngôn ngữ là một bộ