Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

ĐỀ ÁN ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.25 KB, 32 trang )

MỤC LỤC

1


Thực hiện Chương trình làm việc của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI,
Ban cán sự đảng Chính phủ được giao chủ trì xây dựng Đề án "Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" trình
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (khóa XI). Ban Chấp hành Trung ương
cho rằng đây là vấn đề lớn, hệ trọng và phức tạp, cịn nhiều ý kiến khác nhau, do
đó cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, tạo sự thống nhất cao để ban hành nghị
quyết vào một thời điểm thích hợp. Tại Kết luận số 51-KL/TW ngày 29 tháng 10
năm 2012, Ban Chấp hành Trung ương giao Ban Cán sự đảng Chính phủ chủ trì,
phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tiếp tục nghiên cứu, hồn chỉnh Đề án
để trình Ban Chấp hành Trung ương.
QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ ĐỀ ÁN
Từ tháng 01/2013, Ban soạn thảo Đề án tiếp tục triển khai các hoạt động
nghiên cứu, hoàn thiện dự thảo Đề án trên tinh thần khoa học, cầu thị, tiếp thu
các ý kiến góp ý của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Tuyên giáo
Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Hội đồng Khoa học các cơ quan
đảng Trung ương, Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tiếp thu ý kiến tại nhiều hội thảo khoa học với sự tham gia
của các cơ quan liên quan1, nhiều nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và các nhà
khoa học, trong đó có 2 cuộc hội thảo lớn (ngày 11-12/7 tại Hà Nội và ngày 16/7
tại TP. Hồ Chí Minh). Một số nội dung cơ bản của đề án được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng để xin ý kiến rộng rãi của nhân dân. Dự thảo Đề
án đã được gửi xin ý kiến góp ý của một số bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Liên Hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hội
Khuyến học Việt Nam, Hội Cựu giáo chức Việt Nam...
Chính phủ, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã có nhiều phiên họp thảo luận,


hoàn thiện Đề án. Ngày … tháng .. năm 2013, Bộ Chính trị đã nghe và cho ý
kiến về dự thảo Đề án. Đến nay, dự thảo Đề án đã hồn thành, xin kính trình
Ban Chấp hành Trung ương.
So với Dự thảo Đề án trình Hội nghị Trung ương 6, Dự thảo lần này
đã chỉnh sửa, bổ sung và làm sáng tỏ nhiều nội dung:
Phần thực trạng:
Đề án đã cập nhật các thông tin, tư liệu cho đến hết năm 2012; xây dựng 7
phụ lục minh chứng cho những nhận định, đánh giá; thể hiện sự thẳng thắn hơn
trong đánh giá thực trạng, nguyên nhân, sự logic về nội dung giữa các phần của
Đề án.

1

Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Văn
phịng Chính phủ, Văn phòng Trung ương Đảng, các trường Đại học,...

1


Về nội dung của đổi mới căn bản, toàn diện:
Đề án tập trung làm rõ việc khắc phục cơ bản các yếu kém kéo dài, đang
gây bức xúc trong xã hội; tạo chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả
giáo dục, phấn đấu để giáo dục trở thành nhân tố quyết định của sự phát triển bền
vững đất nước.
Về mục tiêu tổng quát:
Đề án đã cụ thể rõ hơn: Đến năm 2030, giáo dục Việt Nam trở thành nền
giáo dục mở, chất lượng cao, đạt trình độ nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và
hội nhập quốc tế.
Quan niệm và các quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục
và đào tạo được trình bày rõ hơn và được cụ thể hóa trong mục tiêu, các nhiệm

vụ và giải pháp.
Trong mục tiêu đã nhấn mạnh:
- Xây dựng mơ hình nhân cách con người Việt Nam vừa đáp ứng yêu cầu
xã hội, vừa phát triển cao nhất tiềm năng mỗi cá nhân.
- Xây dựng hệ thống giáo dục “mở”, thực học, thực nghiệp, xây dựng xã
hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng.
Về nhiệm vụ và giải pháp:
Nội dung giáo dục đổi mới theo hướng tinh giản, cơ bản, hiện đại, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, gắn lý thuyết với thực hành ứng dụng; chú trọng đổi mới
giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, chủ nghĩa Mác – Lênin, ngoại ngữ và tin học.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng khắc phục phương
thức truyền thụ áp đặt một chiều, xây dựng phương pháp dạy và học phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học theo phương châm “giảng ít, học
nhiều”; tăng cường các hoạt động xã hội của người học.
Đổi mới phương thức kiểm tra, thi, đánh giá chất lượng giáo dục đảm bảo
tính trung thực, tin cậy; đánh giá kết quả hình thành năng lực, phẩm chất chứ
khơng dừng lại ở đánh giá mức độ lĩnh hội kiến thức của người học.
Để thực hiện những đổi mới trên, Đề án xác định những giải pháp then
chốt là “đổi mới tư duy giáo dục”, “đổi mới quản lý giáo dục”, “phát triển đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”; trên cơ sở đổi mới tư duy, lấy “đổi
mới kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục” làm giải pháp đột phá.
Đề án gồm 5 phần:
Phần thứ nhất: Sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Phần thứ hai: Thực trạng giáo dục Việt Nam
Phần thứ ba: Định hướng đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo
Phần thứ tư: Tổ chức thực hiện
Phần thứ năm: Những vấn đề xin ý kiến Trung ương và kiến nghị
2



Kèm theo Đề án có 07 phụ lục: (1) Một số dữ liệu về hiện trạng giáo dục
Việt Nam; (2) Một số dữ liệu về dạy nghề; (3) Một số kết quả nổi bật của ngành
giáo dục và đào tạo thực hiện Nghị quyết XI của Đảng; (4)Đề xuất hoàn thiện cơ
cấu hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam; (5) Đề xuất phương án thống nhất
tích hợp và phân hóa trong chương trình giáo dục phổ thơng Việt Nam; (6) Đổi
mới thi - công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học; (7)
Kết quả dự thi Olympic, thi tay nghề quốc tế và khu vực của học sinh Việt Nam.

Phần thứ nhất
SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Chăm lo cho sự nghiệp giáo dục là chủ trương nhất quán của Đảng từ
khi thành lập nước đến nay. Qua ba lần cải cách 2 và đổi mới những năm gần
đây, về cơ bản, giáo dục (bao gồm cả đào tạo và dạy nghề, sau đây gọi chung là
giáo dục) Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả, góp phần quan trọng
vào thắng lợi của cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên trong quá
trình phát triển, giáo dục đã bộc lộ những yếu kém, bất cập, trong đó có những
vấn đề gây bức xúc xã hội kéo dài, không đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những đổi mới giáo dục
trong thời gian qua chưa đồng bộ, cịn chắp vá; nhiều chính sách, cơ chế, giải
pháp về giáo dục đã từng có hiệu quả, nay trở nên khơng cịn phù hợp với giai
đoạn phát triển mới của đất nước, cần được điều chỉnh.
2. Yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là
yêu cầu chuyển đổi mơ hình tăng trưởng theo chiều sâu và cơ cấu lại nền kinh tế
theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao đòi hỏi giáo dục phải
đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân, nhanh chóng góp phần tạo ra
đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu khơng đổi mới căn bản thì giáo dục sẽ là
yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước.
3. Nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát
triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, khoa học giáo dục và tình thế cạnh

tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi mới.
Thực chất cạnh tranh giữa các quốc gia hiện nay là cạnh tranh chất lượng nguồn
nhân lực, suy cho cùng là cạnh tranh về giáo dục, khoa học và công nghệ. Xu thế
chung của thế giới khi bước vào thế kỷ XXI là tiến hành cải cách giáo dục.
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), trong đó thừa nhận giáo dục là
một lĩnh vực dịch vụ khả mại (có điều kiện). Do đó, giáo dục khơng chỉ có chức
2

Từ khi giành được độc lập năm 1945 đến nay, nước ta đã ba lần tiến hành cải cách giáo dục vào năm 1950, năm
1956 và năm 1981.

3


năng đào tạo và phúc lợi xã hội, mà còn có các chức năng kinh tế, kết nối xã hội,
cạnh tranh quốc tế... Để chủ động và tích cực hội nhập quốc tế về giáo dục có
hiệu quả, cần phát huy những giá trị của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các giá trị
nhân loại và các xu thế đổi mới giáo dục hiện nay trên thế giới.
4. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định “Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” và “Phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân”.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một công việc hết sức trọng đại,
cần có sự thống nhất trong nhận thức và hành động; phát huy trí tuệ của tồn
Đảng, tồn dân; huy động nhiều nguồn lực với sự phối hợp của nhiều cơ quan,
ban ngành và các tổ chức xã hội. Để cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
XI, cần xây dựng Đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ".

Phần thứ hai
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC VIỆT NAM
I. Những thành tựu, kết quả
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, giáo dục đã góp phần chủ đạo trong việc
cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đưa đất
nước vượt qua khủng hoảng kinh tế, thốt khỏi tình trạng nước nghèo. Những
thành tựu, kết quả chính của giáo dục là:
1. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền
giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng
cao được trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động
Hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh và thống nhất; mạng
lưới cơ sở giáo dục các cấp học và trình độ đào tạo rộng khắp cả nước với 23,5
triệu người đi học; không cịn “xã trắng” về giáo dục mầm non3. Hình thành
được hệ thống mạng lưới cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp (gồm
trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề) phân bố hợp lý ở các địa phương, vùng
3

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI, NXBGDVN: Trước năm 2002, tồn quốc
cịn 222 xã chưa có cơ sở mầm non và 323 xã chỉ có 1 lớp mẫu giáo, đến nay mạng lưới các cơ sở giáo dục mầm
non đã được phát triển rộng khắp đến từng thơn, bản và khơng cịn “xã trắng” nữa. Số cơ sở giáo dục mầm non
liên tục tăng, từ 9528 ở năm học 2001 – 2002 lên 13172 ở năm học 2011 – 2012. Trường tiểu học có ở tất cả các
xã, phường và thị trấn; trường trung học cơ sở có ở tất cả các xã hoặc liên xã; trường THPT có ở tất cả các
huyện. Số cơ sở giáo dục liên tục tăng từ năm học 2001 – 2002 đến năm học 2011 – 2012: tiểu học từ 13936 lên
15337 trường; THCS từ 9362 lên 10797 trường; THPT từ 1967 lên 2661 trường.

4



miền4. Các cơ sở đào tạo cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết các địa
bàn đông dân cư, các vùng, các địa phương, kể cả ở vùng khó khăn 5. Mạng lưới
giáo dục thường xuyên những năm gần đây phát triển khá mạnh, đáp ứng cơ bản
nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân6.
Giáo dục mầm non thu hút hơn 90% trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo 7, đang
thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi8. Hoàn thành mục tiêu phổ
cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ vào năm 2000, đang thực hiện phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi9; tỷ lệ dân số biết chữ trong độ tuổi 15-19 đạt 96,5% ở
năm 2002 và 98,1% ở năm 200810. Hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục trung
học cơ sở vào năm 2010. Đang tiếp tục củng cố, nâng cao kết quả phổ cập giáo
dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và xoá mù chữ cho người lớn.
Trong giai đoạn 2000 - 2010, tổng số nhân lực qua đào tạo ở tất cả các trình
độ đã tăng gấp 3,4 lần, từ 5,9 triệu người lên 20,1 triệu người; tỷ lệ lao động đã
qua đào tạo tăng từ 16% lên 40%. Đây chính là đội ngũ nhân lực đã đóng vai trị
chủ yếu trong việc thực hiện thành công đường lối đổi mới của Đảng, đưa đất
nước ra khỏi nhóm các nước nghèo.
2. Cơng bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối
với người dân tộc thiểu số11, trẻ em gái, nữ học sinh, sinh viên12, lao động nơng
thơn, các đối tượng chính sách và các đối tượng bị thiệt thịi. Hệ thống trường
phổ thơng dân tộc nội trú và trường phổ thông dân tộc bán trú phát triển, góp
phần nâng cao trình độ dân trí và tạo nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu số của

4

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI, NXBGDVN: có 295 trường trung cấp
chuyên nghiệp. Theo Bộ Lao động – Thương bình và xã hội, tính đến tháng 12/2012 có: 155 trường cao đẳng
nghề, 305 trường trung cấp nghề, 867 trung tâm dạy nghề và hơn 700 cơ sở giáo dục khác tham gia dạy nghề;
5
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI, NXBGDVN: Số trường tăng từ 191 trường
năm 2001 lên 419 trường năm 2012 (trong đó có 215 trường cao đẳng, 204 trường đại học bao gồm cả Viện, Học

viên và các trường thành viên của Đại học vùng, Đại học quốc gia).
6
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI, NXBGDVN: Tính đến năm 2012, cả nước
có 712 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và cấp quận/huyện (tăng 1,44 lần so với năm 2001), có 10826
trung tâm học tập cộng đồng (tăng 86,61 lần so với năm 2001) và 1891 trung tâm Ngoại ngữ, tin học.
7
Tổng Cục Thống Kê, UNICEF, UNFPA (2011), Điều tra Đánh giá Các Mục tiêu Trẻ em và Phụ nữ 2011: Năm
2011, tỷ lệ trẻ đi học mẫu giáo là 71,9% và tỷ lệ trẻ vào lớp 1 đã qua học mẫu giáo là 92,6%.
8
Hiện cả nước đã có 5 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi giai đoạn 2010-2015: Phú
Thọ, Thái Bình, Cần Thơ, Bắc Ninh, Hải Dương và Hịa Bình.
9
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012). Báo cáo tổng kết năm học 2011 – 2012: tính đến tháng 8/2012 có 59/63 tỉnh,
thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.
10
Tổng cục thống kê (2011): Khảo sát mức sống dân cư năm 2010.
11

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI: Tỷ lệ học sinh, sinh viên người dân tộc
thiểu số ở các cấp bậc học đều tăng: giáo dục phổ thông từ 13% lên 15,7% ở giai đoạn 2000 – 2012; trung cấp
chuyên nghiệp từ 4,6% lên 5,5% ở giai đoạn 2000 – 2010; cao đẳng, đại học từ 0,3% lên 0,8% ở giai đoạn 2000 2007. Năm 2012, cân bằng giới về cơ bản đã đạt được, tỷ lệ học sinh nữ ở giáo dục phổ thông là 49,4%; ở đại
học, cao đẳng là 49,6%.
12
Tổng Cục Thống Kê, UNICEF, UNFPA (2011), Điều tra Đánh giá Các Mục tiêu Trẻ em và Phụ nữ 2011:
năm 2011 chỉ số bình đẳng giới ở tiểu học là 1,00 và ở trung học là 1,07; tỷ lệ học sinh nữ ở phổ thông là 49,4%
và ở cao đẳng, đại học là 49,6% vào năm 2012. Tỷ lệ biết chữ của nữ 15 tuổi trở lên tăng từ 89,3% năm 2002 lên
92% năm 2010; tỷ lệ biết chữ của phụ nữ là 96,4% ở năm 2011.

5



các tỉnh13. Khoảng cách về cơ hội tiếp cận giáo dục phổ thơng giữa các nhóm
dân tộc được thu hẹp14.
Chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho vay đi học,… đã giúp
nhiều học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách, hộ nghèo, cận nghèo có cơ hội
đến trường, duy trì học tập15. Đối với nhóm hộ nghèo nhất, một số chỉ số về giáo
dục được cải thiện, như tỷ lệ dân số 10 tuổi trở lên biết chữ tăng, tỷ lệ dân số 15
tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường giảm liên tục ở giai đoạn 2002-2010 16... Tỷ
lệ học sinh nông thôn tốt nghiệp trung học phổ thông, sơ cấp, trung cấp và cao
đẳng ngày càng tăng17.
Tỷ lệ trẻ em khuyết tật được đến trường tăng 18, hầu hết các tỉnh, thành phố
đều có lớp học hòa nhập cho trẻ em khuyết tật, tạo cơ hội học tập ở các lớp hòa
nhập, bán hòa nhập hoặc chuyên biệt.
3. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu
cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non
giảm19. Năng lực ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thơng tin của thanh, thiếu
niên những năm gần đây có chuyển biến tích cực. Chất lượng giáo dục đỉnh cao
có bước phát triển mới. Học sinh, sinh viên Việt Nam đạt kết quả, thứ hạng cao
trong các cuộc thi khu vực và quốc tế 20. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri
thức của học sinh, sinh viên được nâng cao. Nhân lực nước ta đã làm chủ được
13

Năm học 2012-2013, cả nước có 3 trường phổ thơng dân tộc nội trú trực thuộc Bộ GDĐT, 50 trường cấp tỉnh,
248 trường cấp huyện (tăng 65 trường so với năm học 2000 – 2001), và 569 trường phổ thông dân tộc bán trú
(trong đó tiểu học là 157, THCS là 412).
14
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI: Năm học 2011 – 2012, duy trì 7 tiếng dân
tộc thiểu số (Khmer, Hoa, Chăm, Ê-đê, Jrai, Ba-na và Hmông) tại 21 tỉnh, với 688 trường, 4.767 lớp và 108.118
học sinh. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ công chức công tác tại vùng dân tộc thiểu số

với 243 lớp và 11.233 học viên ở năm học 2011 – 2012.
15
Tổng cục thống kê (2011): Khảo sát mức sống dân cư năm 2010: tỷ lệ học sinh được miễn giảm học phí hoặc
các khoản đóng góp ở năm 2010 là 38,6%, tăng so với các năm trước. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục
Việt Nam đầu thế kỷ XXI, NXBGDVN: tính đến 31/12/2012, cả nước có hơn 3 triệu học sinh, sinh viên được vay
vốn, với tổng doanh số cho vay là 43326 tỷ đồng. Hiện tại còn trên 2,3 triệu người đang vay và tổng dư nợ là
35802 tỷ đồng. Tỷ lệ trả nợ đúng hạn trên 95%.
16
Tổng cục thống kê (2011), Khảo sát mức sống dân cư năm 2010: giai đoạn 2002 – 2008, tỷ lệ dân số từ 10 tuổi
trở lên biết chữ tăng từ 83,91% lên 84,7%; giai đoạn 2006 – 2010, tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên chưa bao giờ đến
trường giảm từ 18% xuống 15,5%, đạt trình độ cao nhất là tốt nghiệp tiểu học giảm từ 27,1% xuống 26,8%, tốt
nghiệp trung học cơ sở giảm từ 26,7% xuống 25%, còn tốt nghiệp trung học phổ thông tăng từ 6,5% lên 8,1%.
17
Tổng cục thống kê (2011), Khảo sát mức sống dân cư năm 2010: giai đoạn 2006 – 2010, tỉ lệ người đạt trình
độ cao nhất là tốt nghiệp trung học phổ thông tăng từ 10,5% lên 12,2%, sơ cấp nghề tăng từ 2,5% đến 2,6%,
trung cấp nghề tăng từ 1,3% đến 1,6%, cao đẳng nghề không đổi là 0,2%.
18
Hiện nay, có khoảng hơn 1.320.000 trẻ em khuyết tật bao gồm: Khiếm thính (khoảng 15%), khiếm thị (khoảng
12%), chậm phát triển trí tuệ (khoảng 27%), bị tật ngơn ngữ (khoảng 19%), tật vận động (khoảng 20%), còn lại
là các loại khuyết tật khác. Năm 2010, có khoảng 30% trẻ em khuyết tật được học tập ở loại hình giáo dục hịa
nhập, bán hòa nhập hoặc chuyên biệt.
19
Báo cáo thống kê của Bộ GD&ĐT: Năm học 2010 – 2011, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở nhà trẻ là
5,8% (giảm 3,2% so với đầu năm học) và mẫu giáo là 6,2% (giảm 3,0% so với đầu năm học). Tỷ lệ suy dinh
dưỡng thể thấp còi ở nhà trẻ là 5,6% và mẫu giáo là 5,7%.
20
Từ năm 2007 đến 2013, hầu hết học sinh tham dự Olypic quốc tế đều đoạt giải, đặc biệt ở hai năm 2011 và
2012 có 100% học sinh đoạt giải. Tại Hội thi Khoa học và Kỹ thuật Quốc tế (Intel ISEF), năm 2012 đoạt giải
nhất, năm 2013 đoạt 2 giải Tư.


6


một số công nghệ hiện đại21. Chất lượng đào tạo một số ngành nghề được cải
thiện, bước đầu đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động22.
4. Công tác quản lý giáo dục có bước chủn biến tích cực. Nhiều chính
sách, cơ chế phát triển giáo dục và đào tạo được ban hành. Cơ chế tài chính
trong giáo dục từng bước được đổi mới. Phân cấp quản lý giáo dục và quyền tự
chủ và chịu trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục được tăng cường. Công tác
thanh tra, kiểm tra được chú trọng hơn. Cải cách hành chính được đẩy mạnh.
Công khai, dân chủ đang là một tiền đề quan trọng đổi mới quản lý giáo dục.
Bước đầu hình thành tổ chức chuyên trách về kiểm định chất lượng giáo dục 23.
Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong quản lý ngành.
5. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng,
trình độ đào tạo được nâng lên24, từng bước đáp ứng yêu phát triển giáo dục;
khắc phục dần sự bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục và
phát triển các cấp học, các ngành nghề đào tạo. Tình trạng thiếu giáo viên ở
vùng khó khăn, vùng xa, thiếu giáo viên một số mơn học đặc thù đã được khắc
phục một bước.
6. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng
thêm và từng bước hiện đại hóa. Hồn thành một số mục tiêu chủ yếu về kiên cố
hóa trường học và xây nhà cơng vụ cho giáo viên 25; giảm số phòng học cấp 4; cơ
bản chấm dứt tình trạng phịng học ba ca. Số trường học mầm non, phổ thông

21

Nhân lực nước ta làm chủ được một số công nghệ hiện đại như công nghệ tự động hố, cơng nghệ đúc, cơng
nghệ hàn, thiết kế và chế tạo các thiết bị siêu trường, siêu trọng, giàn khoan tự nâng 90m nước, thiết kế công
nghệ số, công nghệ thông tin (Công nghệ điều khiển số máy tính hóa…), cơng nghệ dầu khí, chế biến thủy sản,
lai tạo giống lúa và cây trồng (lúa lai hai dòng, Việt lai 50, lúa thuần hương cốm,…),...

22
Sở Lao động, Thương bình và Xã hội TP Hồ Chí Minh khảo sát trên 10.000 học sinh, sinh viên tốt nghiệp giai
đoạn 2009 - 2012: 80% đã tìm được việc làm; 20% cịn lại tìm việc rất khó khăn hoặc khơng tìm được việc làm.
Theo Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội, trên 70% học sinh nghề tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau
khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề trên 90%; một số nghề tiếp cận trình độ tiên tiến của thế
giới như nghề hàn đạt 6G, nghề công nghệ thơng tin, điện tử, du lịch, dầu khí, viễn thơng…
23
Đã thành lập: Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục năm 2003; 63 Phịng khảo thí và quản lý chất
lượng giáo dục các sở giáo dục và đào tạo, các trung tâm khảo thí và đảm bảo chất lượng ở các trường trung cấp
chuyên nghiệp và dạy nghề, trung tâm đảm bảo chất lượng ở 156 trường đại học, 145 trường cao đẳng năm 2012.
Từ năm 2008 đến nay đã đào tạo được 472 kiểm định viên chất lượng dạy nghề, 1.511 cán bộ tự kiểm định chất
lượng dạy nghề, trong đó 33 kiểm định viên được đào tạo theo chương trình của Mỹ
24
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI: Từ 2001 - 2012, quy mô mẫu giáo tăng
1,6 lần, phổ thông tăng 1,2 lần (tiểu học 1,0, trung học cơ sở 1,3, trung học phổ thông 1,8 lần), trung cấp chuyên
nghiệp 2 lần, đại học tăng 2,6 lần; từ 2006 đến 2012, giáo viên dạy nghề tăng 2,6 lần. Tại năm học 2011 - 2012, tỷ
lệ giáo viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên ở các cấp học là: nhà trẻ 91,13%; mẫu giáo 97,08%; tiểu học
99,63% (trên chuẩn 61,3%); trung học cơ sở 99,22% (trên chuẩn 46,2%); trung học phổ thông 99,6% (trên chuẩn
6,93%). Trong giai đoạn 2001 - 2012, giảng viên có trình độ sau đại học ngày càng được nâng cao, tỷ lệ giảng
viên trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 5,7% lên 26,2%, cao đẳng tăng từ 4,9% lên 38,5% và đại học tăng từ
45,4% lên 60,5%. Tại năm 2012, giảng viên cao đẳng nghề có trình độ từ đại học trở lên là 69,4%.
25
Kết quả của Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012 đáp ứng
được 65,5% số phòng học kiên cố, 40,8% số phịng nhà cơng vụ

7


đạt chuẩn quốc gia ngày càng nhiều 26. Kinh phí đầu tư cho dạy nghề tăng
mạnh27. Thiết bị giáo dục được bổ sung và hiện đại hơn. Hầu hết các trường phổ

thơng đều có thư viện và phịng bảo quản thiết bị 28. Nhiều cơ sở đào tạo có thư
viện, phịng thí nghiệm, xưởng thực hành được trang bị theo hướng hiện đại.
7. Xã hội hóa giáo dục và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, đạt nhiều kết
quả quan trọng.
Nhận thức của Đảng, Nhà nước và toàn dân về giáo dục ngày càng sâu
sắc và toàn diện hơn.
Trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp, hàng năm Nhà nước vẫn dành
20% tổng chi ngân sách cho giáo dục29, tập trung ưu tiên đầu tư cho giáo dục
phổ cập, giáo dục vùng khó khăn và đối tượng chính sách.
Huy động ngày càng nhiều sự quan tâm của các tổ chức chính trị - xã hội,
các thành phần kinh tế và các chủ thể khác cho sự nghiệp phát triển giáo dục 30.
Loại hình cơ sở giáo dục, hình thức đào tạo được đa dạng hóa. Giáo dục ngồi
cơng lập phát triển, đặc biệt là ở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học 31.
Cùng với giáo dục chính quy, giáo dục khơng chính quy ngày càng phát triển,
tạo cơ hội học tập suốt đời, nâng cao trình độ dân trí, cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
Hợp tác quốc tế về giáo dục được triển khai ngày càng đa dạng trên các
lĩnh vực cử thanh niên du học; trao đổi nhà giáo và học sinh, sinh viên; liên kết
đào tạo với nước ngoài; áp dụng các mơ hình và cơng nghệ giáo dục tiên tiến

26

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI: giai đoạn 2008 - 2012, với tổng số vốn
đầu tư 32.566,033 tỷ đồng, đã xây dựng được 93.144 phịng học kiên cố và 23.142 nhà cơng vụ giáo viên. Ở giáo
dục mầm non, tỷ lệ phòng học kiên cố tăng từ 14,9% năm học 2001 – 2002 lên 51% năm học 2011 – 2012; tỷ lệ
trường đạt chuẩn quốc gia tăng từ 3,8% năm học 2004-2005 lên 21% (2.828 trường) năm học 2011–2012. Ở
giáo dục phổ thơng, tỷ lệ phịng học kiên cố tăng từ 52% năm 2006 lên 71% năm 2010, giảm số phòng học cấp 4
và cơ bản chấm dứt tình trạng phịng học ba ca. Năm học 2011 – 2012, tỷ lệ trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia
là 46,68% (7.130 trường), trung học cơ sở là 25,31% (2.748 trường) và trung học phổ thông là 14,20% (378
trường), tăng lần lượt là 445, 439 và 86 trường so với năm học trước.

27
Giai đoạn 2006 – 2010: tập trung đầu tư cho 3 trường cao đẳng nghề tiếp cận trình độ dạy nghề tiến tiến trong khu
vực, 59 trường cao đẳng nghề và trung cấp nghề trọng điểm, 48 trường vùng khó khăn; hỗ trợ đầu tư cho 25 trường
vùng dân tộc thiểu số và 246 trung tâm nghề.
28
Bằng nguồn vốn của Dự án Phát triển giáo dục trung học cơ sở II, các địa phương đã xây 819 phòng học, 180
phòng thư viện, 112 phịng thí nghiệm, 960 phịng ở nội trú, 867 nhà cơng vụ cho giáo viên. Năm 2010 cả nước
có 24.746/27.541 (đạt 98,8%) trường có thư viện hoặc tủ sách giáo khoa dùng chung.
29
Đầu tư của Nhà nước cho giáo dục tăng nhanh, từ 15,3% tổng chi ngân sách nhà nước năm 2001 lên 20% năm
2008. Từ năm 2010 đến nay, Nhà nước vẫn ưu tiên duy trì mức chi 20% tổng chi ngân sách cho giáo dục. Suất
đầu tư trên đầu người tăng đáng kể, từ 210.000 đồng (14 USD)/người/năm năm 2000 lên 1.939.310 đồng (92
USD)/người/năm năm 2012.
30
Theo báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện xã hội hóa giáo dục của Bộ GDĐT.
31

Thống kê của Bộ GD&ĐT: Trong giai đoạn 2001 - 2012, tỷ lệ cơ sở đào tạo ngồi cơng lập trung cấp chun
nghiệp tăng từ 5,6% lên 32,9%, cao đẳng tăng từ 7,9% lên 13,0%, đại học tăng từ 12,2% lên 26,5%. Ở năm học
2011 - 2012, tỷ lệ học sinh, sinh viên theo học tại các cơ sở giáo dục ngồi cơng lập là: tiểu học 0,6%, trung học
cơ sở 0,6%, trung học phổ thông 9,1%; trung cấp chuyên nghiệp 26,7%; cao đẳng 18,8% và đại học 13,1%.
Thống kê của Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội, trong giai đoạn 2007 – 2012, tỷ lệ cơ sở dạy nghề ngồi
cơng lập tăng: trung tâm dạy nghề từ 36,4% lên 37,6%, trường trung cấp nghề từ 14,4% lên 33,1%, trường cao
đẳng nghề từ 11,3% lên 25,2%.

8


của thế giới; vay ưu đãi và viện trợ không hoàn lại phục vụ đổi mới giáo dục và
tăng cường cơ hội tiếp cận giáo dục, chủ yếu cho các vùng khó khăn...

II. Những hạn chế, yếu kém
1. Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước
Chất lượng giáo dục nhìn chung thấp, nhất là ở bậc đại học, sau đại học và
giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề; chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân
lực và nhu cầu của người học; chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế.
Giáo dục và đào tạo cịn nặng bệnh thành tích, nhiều cơ sở đánh giá kết quả
giáo dục thiếu thực chất. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất
lượng, giữa dạy chữ với dạy người, dạy nghề. Nhìn chung, chất lượng giáo dục
khơng chính quy thấp so với giáo dục chính quy; giáo dục ngồi cơng lập thấp
so với giáo dục công lập; giáo dục vùng khó khăn thấp so với vùng kinh tế - xã
hội phát triển.
Giáo dục hướng nghiệp hiệu quả thấp. Số đông học sinh, sinh viên thiếu
kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ và hoạt động xã hội; thiếu
tính chủ động sáng tạo, hạn chế về khả nǎng vận dụng kiến thức vào sản xuất và
đời sống; chưa thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của cơng nghệ và thị
trường lao động. Nhiều học sinh, sinh viên ra trường chưa tìm được việc làm
hoặc phải làm việc khơng đúng chuyên ngành đào tạo 32. Đặc biệt, đáng lo ngại là
một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý
tưởng, sống thực dụng, thiếu hồi bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản
thân và đất nước.
Trong các cơ sở giáo dục đại học, chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa
học còn thấp.
2. Nội dung, phương pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá còn lạc hậu,
nhiều bất cập.
Nội dung giáo dục nặng về lý thuyết, có mặt xa rời thực tiễn, chưa chú
trọng giáo dục đạo đức, ý thức và trách nhiệm cơng dân. Chương trình giáo dục
phổ thơng cịn q tải với học sinh. Giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề và giáo dục
đại học chưa chú trọng giáo dục kỹ năng thực hành nghề nghiệp, kỹ năng sử dụng

công nghệ thông tin, năng lực ngoại ngữ và hoạt động xã hội của học sinh, sinh
viên. Phương pháp dạy và học chậm đổi mới, vẫn phổ biến lối dạy học truyền thụ
một chiều, chưa thật sự phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khả năng tự
học của học sinh, sinh viên. Các hoạt động giáo dục chủ yếu mới diễn ra trong
32

Theo Trung tâm Nghiên cứu và Phân tích chính sách thuộc trường Đại học KHXH-NV Đại học Quốc gia Hà
Nội, 26,2% cử nhân được khảo sát chưa hoặc khơng tìm được việc làm (http: lib.hcmussh.edu.vn/? wca =
newmng&wci=v_dat&wce =dtl&itm=1363232735). Theo báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa, tính
đến 20/2/2013 tồn tỉnh có 24.956 học sinh, sinh viên đã tốt nghiệp nhưng chưa có việc làm, trong đó trình độ
trên đại học là 45, đại học là 5674, cao đẳng là 6845, trung cấp chuyên nghiệp là 6003, còn lại là cao đẳng nghề
và trung cấp nghề ( />
9


khn viên các nhà trường. Phương pháp và hình thức kiểm tra, thi, đánh giá kết
quả giáo dục còn lạc hậu, phiến diện, chủ yếu mới dừng lại ở đánh giá mức độ
lĩnh hội kiến thức của người học qua chấm điểm các bài thi, kiểm tra; không đồng
bộ và cản trở đổi mới phương pháp dạy học.
3. Hệ thống giáo dục cịn khép kín, cứng nhắc, thiếu tính liên thơng giữa
các cấp học, trình độ đào tạo, các phương thức giáo dục, chưa tạo điều kiện cho
việc xây dựng nền giáo dục mở. Chưa gắn đào tạo với sử dụng và nhu cầu của thị
trường lao động
Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo
dục chưa hợp lý, thiếu đồng bộ. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu trình độ và
ngành nghề đào tạo, giữa các vùng miền chậm được khắc phục. Công tác phân
luồng và hướng nghiệp chưa đạt yêu cầu. Chưa phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà
trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chưa có cơ chế phối trong q
trình đào tạo giữa nhà trường và các cơ sở sử dụng người lao động qua đào tạo.
4. Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, là nguyên nhân của

nhiều yếu kém khác, nhiều hiện tượng tiêu cực kéo dài trong giáo dục, gây bức xúc
xã hội
Quản lý hệ thống giáo dục cịn phân tán, chồng chéo; phân cơng, phân cấp
chưa hợp lý, chưa coi trọng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tính sáng tạo của
các cơ sở giáo dục
Hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế thiếu đồng bộ và chậm đổi mới,
triển khai thực hiện thiếu thống nhất. Ở các địa phương, ngành giáo dục chưa
được chủ động quản lý nhân sự và tài chính để đáp ứng yêu cầu quản lý thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn. Công tác quản lý chất lượng giáo dục còn nhiều lúng túng.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát giáo dục chưa thường xun, có nơi, có lúc bị
bng lỏng, hiệu lực thấp.
Việc nâng cấp, thành lập nhiều cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp trong một thời gian ngắn là ngun nhân chính của tình trạng khơng đáp
ứng điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và phá vỡ quy hoạch mạng lưới33.
Một số hiện tượng tiêu cực như thiếu trung thực trong tuyển sinh, thi và
cấp bằng, lạm thu, dạy thêm vẫn tồn tại kéo dài, chậm được khắc phục, có việc cịn
trầm trọng hơn, gây bức xúc xã hội. Tình trạng giáo dục bị thương mại hóa, chạy
theo lợi ích cục bộ, bạo lực ở lứa tuổi học sinh đã gây ra nhiều lo ngại trong xã
hội. Thiếu giải pháp kịp thời, hiệu quả để quản lý các hoạt động đào tạo có yếu tố
nước ngồi và quản lý lưu học sinh ở ngoài nước.
5. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập.

33

Theo kết quả thanh tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo cuối năm 2012: Có 23/30 trường cao đẳng, đại học được
thanh tra vi phạm các quy định bảo đảm chất lượng và tuyển sinh; có 161/1002 chuyên ngành, thuộc 50 cơ sở
đào tạo thạc sĩ được thanh tra không đảm bảo điều kiện về số lượng giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ cùng
ngành, chuyên ngành hoặc không tuyển được học viên trong 3 năm liên tiếp.

10



Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục vừa thừa, vừa thiếu cục bộ
về, yếu về năng lực; thiếu động lực tự học và đổi mới; chưa bắt kịp yêu cầu của
đổi mới giáo dục.
Hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên cịn phân tán. Cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều hạn chế. Các
trường sư phạm chưa đi đầu trong đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng. Năng lực của nhiều nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa tương
xứng với bằng cấp, nhất là đối với những người được đào tạo theo hình thức
khơng chính quy. Nhà giáo ở các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề
nghiệp vừa thiếu kinh nghiệm thực tế về nghề, vừa ít nghiên cứu khoa học 34.
Một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục thiếu tâm huyết, trách nhiệm,
thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp, ảnh hưởng đến uy tín của ngành.
6. Chính sách, cơ chế tài chính và cơ sở vật chất giáo dục cịn lạc hậu
Cơ chế phân bổ tài chính mang tính bình quân, dàn trải, ảnh hưởng đến
chất lượng và hiệu quả đầu tư, khơng khuyến khích được các cơ sở giáo dục nâng
cao chất lượng. Hiệu quả sử dụng vốn vay trong một số dự án giáo dục cịn có
mặt hạn chế.
Việc duy trì mức học phí thấp và cào bằng giữa các ngành học tồn tại nhiều
năm (từ năm 1998 đến 2010) và chưa có chế tài quy định trách nhiệm của doanh
nghiệp sử dụng lao động qua đào tạo đóng góp đầu tư cho giáo dục đã làm hạn
chế nguồn tài chính giáo dục.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở giáo dục còn thiếu và lạc hậu, chưa
đạt chuẩn quy định35. Vẫn cịn tình trạng phịng học tạm ở giáo dục mầm non và
giáo dục phổ thơng, nhất là ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn; thư viện, phịng thí nghiệm, phịng học bộ mơn và các phương tiện dạy
học chưa đảm bảo về số lượng36, chủng loại và chất lượng so với yêu cầu nâng
cao chất lượng giáo dục, nhất là ở các cơ sở giáo dục đại học. Thiếu quỹ đất dành
cho phát triển giáo dục. Các cơ sở giáo dục nhìn chung chưa đáp ứng được yêu

cầu hội nhập quốc tế về cơ sở vật chất, kỹ thuật.
III. Nguyên nhân của những thành tựu và những hạn chế, yếu kém
1. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu, kết quả

34

Thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo: tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học thấp, năm học 2011 - 2012,
giảng viên đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở: trung cấp chuyên nghiệp là 23,1% và 3,2%; cao đẳng là 35,9% và là
2,6%; đại học là 46,2% và 14,3%. Trong các trường đại học, tỷ lệ giảng viên có chức danh khoa học phó giáo sư
là 3,4%, giáo sư là 0,5%. Tính đến tháng 9/2012, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh có 787 bài báo được đăng
trên các tạp chí khoa học, trong đó có 188 bài báo đăng trên tạp chí quốc tế với 147 bài thuộc ISI (là các tạp chí
khoa học có uy tín trên thế giới). Như vậy, tỷ lệ bài báo khoa học ISI trên mỗi giảng viên cơ hữu chỉ là 0,06%
(theo />35
Theo kế hoạch của Đề án Kiên cố hóa trường học, giai đoạn 2008 - 2012 mới đáp ứng được 65,5% số phịng
học kiên cố, 40,8% số nhà cơng vụ, với nhu cầu vốn khoảng 24.560 tỷ đồng.
36
Nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất tại các địa phương cần số vốn khoảng 234.000 tỷ đồng: Số phòng học là
336.224; số phòng bộ mơn, thiết bị là 64.580; phịng hiệu bộ là 74.120; phòng đa năng là 18.710; thư viện là
17.393; phòng y tế học đường là 18.322.

11


- Sự nghiệp giáo dục của nước ta đạt được những thành tựu, kết quả quan
trọng là bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của dân tộc, sự quan tâm và ưu tiên
đầu tư của các gia đình, khuyến khích con em chăm chỉ học tập.
- Ý thức ham học hỏi và tinh thần vượt khó của các thế hệ học sinh, sinh
viên.
- Đảng và Nhà nước luôn quan tâm trực tiếp và thường xuyên đến sự
nghiệp giáo dục, ban hành nhiều chủ trương chính sách ưu tiên phát triển giáo

dục phù hợp với từng giai đoạn. Các đoàn thể, tổ chức xã hội, cá nhân tích cực
phối hợp chăm lo cho sự nghiệp giáo dục.
- Ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng trong quản lý chỉ đạo và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ, bước đầu đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp phát triển
giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại bộ phận
nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tận tụy với nghề, hết lịng vì thế hệ trẻ, vì sự
nghiệp giáo dục, ln nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn hồn
thành nhiệm vụ.
- Sự ổn định về chính trị và những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi về môi trường và nguồn lực phát triển
giáo dục.
2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
- Chưa nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của giáo dục. Tư duy về giáo
dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự chuyển đổi của đất nước và xu thế phát triển
trên thế giới. Chưa có những nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ về phát
triển giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Thói quen
bao cấp trong giáo dục cịn nặng nề; Nguồn lực tài chính khơng đáp ứng điều
kiện tối thiểu để đảm bảo chất lượng các hoạt động giáo dục. Chưa nhận thức
đầy đủ về vai trò quyết định chất lượng giáo dục của đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục; Những nhận thức lệch lạc về giáo dục, bệnh hình thức, sính
bằng cấp và những tiêu cực xã hội đã để lại nhiều hậu quả khó khắc phục trong
giáo dục. Chưa coi trọng đúng mức vai trò quan trọng của khoa học giáo dục.
- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy chưa
quan tâm cụ thể hóa quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” trong thực tiễn
và chưa chịu trách nhiệm về tình trạng yếu kém của giáo dục.
- Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành trung ương chưa thể chế hóa kịp
thời, phù hợp các chủ trương, chính sách của Đảng về giáo dục. Chưa có sự phối
hợp tốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát
triển giáo dục. Suất đầu tư trên mỗi người học chưa tương ứng với yêu cầu về
chất lượng, chưa phù hợp ngành nghề và trình độ đào tạo. Nhiều mục tiêu phát

triển giáo dục được xác định trong khi khơng cân nhắc tính tốn đầy đủ đến các
điều kiện thực hiện. Thiếu quy hoạch phát triển nhân lực của đất nước, của ngành
giáo dục37. Không kịp thời sơ kết, tổng kết, đánh giá các chính sách về giáo dục.
37

Công tác dự báo để làm quy hoạch giáo dục ở các cấp bậc học không thực hiện tốt dẫn đến sự phát triển không
đồng bộ, giáo viên nơi thừa nơi thiếu, có bậc học phát triển mạnh về quy mô vượt quá khả năng của hệ thống...

12


Các chế độ, chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa thỏa
đáng.
- Công tác quản lý, chỉ đạo của ngành giáo dục còn nặng về điều hành, sự
vụ; chưa chủ động tham mưu các chính sách, giải pháp đảm bảo các điều kiện
phát triển giáo dục; chưa coi trọng đúng mức công tác quản lý chất lượng, thanh
tra, kiểm tra, giám sát; chưa kịp thời tổng kết, nhân rộng các điển hình tiên tiến,
chưa tạo được động lực đổi mới từ trong ngành. Ba nguyên lý giáo dục (học đi
đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn; giáo dục kết hợp với lao động, sản
xuất; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội) chưa
được quán triệt và thực hiện tốt38. Mục tiêu giáo dục tồn diện chưa được hiểu và
thực hiện đúng. Chưa có cơ chế sàng lọc, bố trí những nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục không đạt chuẩn sang công tác khác.
IV. Đánh giá chung
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực cịn hạn hẹp,
được sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, với những nỗ
lực của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí, sự nghiệp giáo dục đã đạt những
thành tựu rất có ý nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện
giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo
dục đã giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Các điều kiện đảm bảo và chất

lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ. Hợp tác quốc tế
được mở rộng. Lực lượng lao động qua đào tạo tăng khá nhanh. Những thành
tựu trên và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới cho phép và đòi hỏi
giáo dục Việt Nam chuyển từ phát triển theo mục tiêu quy mơ, số lượng là chính
sang mục tiêu coi trọng cả chất lượng, hiệu quả và quy mô, số lượng.
Tuy nhiên, giáo dục vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa được ưu
tiên nhất trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chưa là nhân tố quyết
định của phát triển đất nước. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục đã được nêu từ
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII vẫn chậm được khắc phục, có mặt còn nặng
nề hơn. Khoa học giáo dục còn lạc hậu. Chất lượng giáo dục chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội; chưa tạo ra lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ về nhân lực
của nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa tích cực chủ
động góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Quản
lý giáo dục còn nhiều bất cập; kinh phí đầu tư cho giáo dục cịn hạn chế. Thiếu dự
báo nhu cầu nhân lực cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thiếu
dự báo nhu cầu học tập để làm cơ sở cho công tác quy hoạch phát triển giáo dục.
Phần thứ ba
ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TỒN DIỆN
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
38

Học đi đơi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn; giáo dục kết hợp với lao động, sản xuất; giáo dục nhà trường

kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

13


I. Bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo
Sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay đứng

trước các thuận lợi và khó khăn sau:
1. Thuận lợi
- Đất nước ổn định về chính trị, thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong
10 năm qua, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 với yêu cầu tái
cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mơ hình tăng trưởng, cùng với Chiến lược và Quy
hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 là những tiền đề cơ bản để thực
hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam.
- Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển
giáo dục và đào tạo, mong muốn đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, tận
dụng cơ hội đất nước trong giai đoạn "cơ cấu dân số vàng".
- Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
truyền thông, kinh tế tri thức phát triển mạnh làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới căn bản, toàn diện và
đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo dục (nội dung, phương pháp và
hình thức tổ chức giáo dục), đổi mới quản lý giáo dục và xây dựng một nền giáo
dục tiên tiến, hiện đại đáp ứng nhu cầu của xã hội và cá nhân người học.
- Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục đang diễn ra ở quy mơ
tồn cầu tạo cơ hội thuận lợi để nước ta tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới,
những mô hình giáo dục và quản lý giáo dục hiện đại và tranh thủ các nguồn lực
bên ngoài để phát triển giáo dục.
Giáo dục trên thế giới đang diễn ra những xu hướng mới: xây dựng xã hội
học tập cùng với các điều kiện đảm bảo học tập suốt đời; đại chúng hóa, đa dạng
hóa, tồn cầu hóa, hội nhập và hợp tác cùng với cạnh tranh quốc tế về giáo dục…
2. Khó khăn và thách thức
- Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
địi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, trong khi nguồn lực quốc gia và
khả năng đầu tư cho giáo dục của phần đơng gia đình cịn hạn chế. Chất lượng
nguồn nhân lực còn thấp, đặt ra nhiệm vụ nặng nề và thách thức lớn đối với sự
phát triển giáo dục và đào tạo.
- Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, sự phát triển khơng đều

giữa các địa phương ngày càng rõ rệt sẽ có thể dẫn đến sự gia tăng thiếu bình
đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục và khoảng cách chất lượng giáo dục giữa các
đối tượng người học và các vùng miền.
- Tư duy bao cấp, sức ỳ trong nhận thức, tác phong quan liêu trong hành
động về giáo dục của nhiều cấp, nhiều ngành, của nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục cũng như của người dân cịn lớn, khơng theo kịp sự phát triển nhanh
của kinh tế, xã hội và khoa học công nghệ.
14


- Khoảng cách phát triển về kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo giữa nước ta và các nước tiên tiến trong khu vực, trên thế giới có
xu hướng gia tăng. Hội nhập quốc tế và sự phát triển của kinh tế thị trường đang
làm nảy sinh nhiều nguy cơ tiềm ẩn như sự xâm nhập lối sống khơng lành mạnh,
xói mịn bản sắc văn hoá dân tộc; sự thâm nhập của các loại dịch vụ giáo dục
kém chất lượng, lạm dụng dạy thêm, học thêm, chạy trường, chạy điểm, v.v...
Những thuận lợi và khó khăn nêu trên địi hỏi sự chủ động, sáng tạo của
Đảng, của cả hệ thống chính trị cũng như của toàn xã hội và của ngành giáo dục
trong việc tận dụng, khai thác các thuận lợi và hạn chế, khắc phục các khó khăn.
II. Quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hướng vào giải quyết những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, có tác động tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ về chất
lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.
Đổi mới nhằm chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu dạy chữ sang kết hợp
hài hòa dạy người, dạy chữ và dạy nghề; từ chủ yếu nặng về đối phó với thi cử
sang học để biết, để sống và làm việc có hiệu quả; từ chủ yếu đào tạo theo khả
năng của các cơ sở giáo dục sang đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, thị trường lao
động và nhu cầu của người học.
Đổi mới phải đảm bảo tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp

đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học. Đổi mới khơng né tránh những vấn đề khó
như đổi mới tư duy giáo dục, các cơ chế, chính sách và các điều kiện đảm bảo
chất lượng giáo dục,...
Đổi mới căn bản và toàn diện khơng có nghĩa là làm lại tất cả, làm lại từ
đầu mà cần xem xét chấn chỉnh những lệch lạc, củng cố những kết quả đã đạt
được, phát triển những nhân tố mới tích cực; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm,
có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương. Những hạn chế, thách thức
của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu và lộ trình để
khắc phục, vượt qua; đưa sự nghiệp giáo dục lên tầm cao mới.
Trong các văn kiện của Đảng về giáo dục, Trung ương đã nêu nhiều quan
điểm phát triển còn nguyên giá trị phải tiếp tục được quán triệt và thực hiện 39.
Để có thể thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo cần quán
triệt thêm một số quan điểm chỉ đạo sau:
1. Giáo dục giữ vai trò quyết định thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
39

Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước; giáo
dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và toàn dân; mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài; giáo dục phải gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học - cơng nghệ;
đa dạng hóa các loại hình giáo dục; học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình, xã
hội; thực hiện cơng bằng trong giáo dục; ưu tiên phát triển giáo dục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và các đối tượng diện chính sách…

15


2. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu chú trọng kiến thức sang tập
trung phát triển năng lực và phẩm chất người học.

3. Chuyển mơ hình phát triển giáo dục hiện nay chủ yếu theo quy mô, số
lượng sang phát triển vừa lấy trọng tâm là nâng cao chất lượng, hiệu quả, vừa
chú ý quy mô, số lượng; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa.
4. Chuyển hệ thống giáo dục "đóng", cứng nhắc, thiếu tính liên thơng
hiện nay sang hệ thống giáo dục "mở", linh hoạt, đẩy mạnh phân luồng sau trung
học cơ sở, bảo đảm liên thông giữa các cấp học, trình độ và giữa các phương thức
đào tạo; hình thành cơ chế học tập suốt đời gắn với xây dựng xã hội học tập; thực
hiện xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.
5. Phát triển giáo dục phù hợp với cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa. Phát triển hài hịa, bình đẳng, hỗ trợ lẫn nhau giữa giáo dục
cơng lập và ngồi cơng lập, giáo dục các vùng, miền.
6. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập để phát triển đất
nước. Việc hội nhập phải trên cơ sở giữ gìn bản sắc văn hóa và độc lập dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát triển bền vững giáo dục nước nhà.
III. Mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tới năm
2030
1. Mục tiêu tổng quát
Tạo chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả giáo dục; khắc phục cơ
bản các yếu kém kéo dài đang gây bức xúc trong xã hội; giáo dục trở thành nhân tố
quyết định của sự phát triển bền vững đất nước.
Đến năm 2030, giáo dục Việt Nam trở thành nền giáo dục mở, chất lượng
cao, đạt trình độ nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và hội nhập quốc tế.
a) Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, trung thực, nhân
văn, tự do sáng tạo, có hồi bão và lý tưởng phục vụ Tổ quốc, cộng đồng; làm
chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ xã hội; có hiểu biết và kỹ năng cơ
bản để sống tốt và làm việc hiệu quả; phát triển hài hòa con người cá nhân và
con người xã hội.
b) Xây dựng nền giáo dục mở, dân chủ, thực học và thực nghiệp, có cơ
cấu hợp lý; bảo đảm cho các cơ sở giáo dục và đào tạo có đủ các điều kiện nâng

cao chất lượng. Hệ thống giáo dục được chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa, hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản
sắc dân tộc.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Đối với giáo dục mầm non
Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về vị trí quan trọng bậc nhất
của giáo dục mầm non đối với việc hình thành nhân cách của trẻ.

16


Giáo dục mầm non phải thực hiện tốt sứ mệnh giúp trẻ phát triển về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ bước vào tiểu học.
Hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm
2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và thực hiện miễn
học phí trước năm 2020 cho đối tượng này. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các
trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng, phù
hợp với điều kiện và yêu cầu của từng địa phương và cơ sở giáo dục.
b) Đối với giáo dục phổ thông
Giáo dục phổ thông tập trung thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, phát hiện
và bồi dưỡng năng khiếu, hình thành phẩm chất, năng lực cơng dân, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục đạo đức, lối sống, kỹ năng, ngoại ngữ (trước hết là tiếng Anh), tin học, năng
lực thực hành và vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Bồi dưỡng hứng thú và hình
thành năng lực tự học để đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của mỗi học sinh.
Xây dựng mới chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015.
Bảo đảm cho học sinh kết thúc lớp 9 phải có tri thức phổ thông nền tảng, cơ bản
và chuẩn bị phân hoá mạnh sau trung học cơ sở; các năm trung học phổ thông
phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thơng có chất

lượng. Thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục. Phấn đấu đến năm 2020 có 80%
thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thơng và tương đương.
c) Đối với giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề
Giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề tập trung thực hiện sứ mệnh đào tạo
nhân lực kỹ thuật trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh.
Hình thành hệ thống giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề với nhiều phương
thức và trình độ đào tạo, kỹ năng nghề nghiệp của mạng lưới các cơ sở theo
hướng ứng dụng, thực hành, đảm bảo đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật của
doanh nghiệp, thị trường lao động trong nước và xuất khẩu.
d) Đối với giáo dục đại học
Giáo dục đại học tập trung thực hiện sứ mệnh đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững của đất nước và hội nhập quốc tế. Thực hiện đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội.
Có mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào
tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia. Đa dạng hóa các cơ sở đào
tạo phù hợp với nhu cầu phong phú về cơng nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh
vực, ngành nghề, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế
- xã hội.
e) Đối với giáo dục thường xuyên

17


Giáo dục thường xuyên thực hiện tốt sứ mệnh tạo cơ hội cho mọi người,
nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng diện chính sách được học
tập ở mọi lúc, mọi nơi, mọi trình độ nhằm nâng cao dân trí, trình độ, kỹ năng
chun mơn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để
chuyển đổi nghề nghiệp đối với người lao động; củng cố bền vững kết quả xóa
mù chữ.

Có mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực
hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học, tăng cường áp dụng hình thức giáo
dục từ xa.
IV. Nhiệm vụ và giải pháp
1. Đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc tư duy giáo dục, tăng
cường vai trò của Đảng và Nhà nước đối với quá trình đổi
mới giáo dục - đào tạo
Đổi mới nhận thức toàn diện về mục tiêu giáo dục, về vai trò của các giải
pháp, điều kiện đảm bảo để tạo chuyển biến căn bản và toàn diện nền giáo dục
nước nhà; tư duy mới về giáo dục được cụ thể hóa từ khâu quán triệt đến tổ chức
thực hiện các quan điểm, đường lối và chủ trương phát triển giáo dục của Đảng.
a) Giáo dục nhằm đào tạo, phát triển con người với tư cách là chủ thể bản
thân, chủ thể xã hội, chủ thể đất nước, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
sự phát triển kinh tế - xã hội; coi phát triển giáo dục là nhân tố quyết định sự phát
triển bền vững đất nước và phát triển con người Việt Nam. Đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục có vai trị quyết định đối với chất lượng giáo dục. Cơng
nghệ thơng tin ngày càng có tác động mạnh mẽ làm thay đổi cơ bản cách lựa chọn
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và quản lý giáo dục...
b) Hệ thống Đảng và chính quyền các cấp chịu trách nhiệm và có vai trị
quyết định trong lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, đồng bộ đối với sự nghiệp đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
c) Tăng cường nghiên cứu để tạo cơ sở khoa học và vận dụng các kết quả
nghiên cứu khoa học giáo dục, khoa học quản lý phục vụ công tác đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
d) Đổi mới mạnh mẽ công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về
nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia của toàn xã hội vào công
cuộc đổi mới và phát triển giáo dục.
2. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của
chương trình giáo dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo
hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học

Chuyển chương trình giáo dục chủ yếu hướng tới trang bị kiến thức sang
yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực người học.
a) Xác định mục tiêu giáo dục con người vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa
phát triển cao nhất tiềm năng của cá nhân. Phát triển năng lực và phẩm chất
18


người học thay vì chỉ chú trọng trang bị kiến thức; kết hợp hài hòa dạy người,
dạy chữ và dạy nghề.
b) Nội dung giáo dục đổi mới theo hướng tinh giản, cơ bản, hiện đại,
giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành và vận dụng kiến thức và kỹ năng vào
thực tiễn. Dạy học ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, đảm
bảo năng lực sử dụng thực tế của người học. Chú trọng giáo dục khoa học xã hội
- nhân văn, kỹ năng sống, pháp luật, thể chất, quốc phòng an ninh và hướng
nghiệp. Đổi mới chương trình giáo dục đạo đức, giáo dục cơng dân, chủ nghĩa
Mác - Lênin theo hướng tập trung vào những giá trị cơ bản của đạo lý dân tộc,
đạo đức xã hội, trách nhiệm cộng đồng, triết học Mác - Lênin; giảm tải phù hợp
với lứa tuổi, trình độ đào tạo và đặc trưng ngành nghề.
Tiếp tục đổi mới nội dung giáo dục mầm non theo hướng chú trọng cả
chăm sóc - ni dưỡng và giáo dục phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi.
Thiết kế nội dung giáo dục phổ thơng theo hướng tích hợp cao các mơn
học ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt
buộc; tăng số môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục dành cho học sinh tự chọn.
Khắc phục tình trạng chương trình bị cắt khúc, thiếu xuyên suốt, thiếu thống
nhất giữa các cấp học. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù
hợp với đặc thù của các địa phương, các đối tượng, chú trọng đến học sinh dân
tộc thiểu số và học sinh có hồn cảnh khó khăn.
Đa dạng hóa nội dung giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề theo hướng tích
hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học.
Đổi mới nội dung giáo dục đại học theo hướng cơ bản, tích hợp các lĩnh

vực kiến thức, kỹ năng và hiểu biết xã hội, tiếp cận thành tựu khoa học - công
nghệ tiên tiến trên thế giới, nhất là trong các ngành kinh tế, khoa học kỹ thuật,
công nghệ, y tế; đáp ứng yêu cầu nhân lực trong điều kiện thế giới việc làm thay
đổi nhanh chóng.
Phát triển đa dạng nội dung, tài liệu học tập đáp ứng nhu cầu học tập suốt
đời của mọi người.
c) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học, tập trung dạy cách
học, cách nghĩ và tự học, theo phương châm “giảng ít, học nhiều”. Chuyển q
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Bồi dưỡng khát vọng học tập suốt đời. Coi
trọng sự phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội.
Chuyển cách học từ chủ yếu là lắng nghe và ghi chép sang suy nghĩ và
phản hồi tích cực với bạn, với thầy, phối hợp các hoạt động học tập của cá nhân
và của nhóm. Chuyển từ chủ yếu thực hiện chương trình giáo dục trên lớp học
sang tổ chức đa dạng các hình thức thực hiện chương trình giáo dục; tăng cường
các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học của người học. Đẩy mạnh ứng dụng

19


công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học; tăng cường áp dụng hình
thức giáo dục từ xa có chất lượng.
Phương pháp giáo dục mầm non phải tạo điều kiện cho trẻ được làm
quen, tự thể hiện bản thân, tự khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình
thức đa dạng; tạo hứng thú theo phương châm “chơi mà học”, kết hợp hài hịa
hoạt động nhóm bạn và hoạt động cá nhân; có nhiều hình thức hỗ trợ giữa giáo
dục gia đình và giáo dục nhà trường; chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào lớp 1.
3. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp kiểm

tra, thi và đánh giá chất lượng giáo dục, bảo đảm trung
thực, khách quan, chính xác, theo yêu cầu phát triển
năng lực, phẩm chất người học
Ứng dụng các thành tựu khoa học mới về đánh giá giáo dục nhằm đảm
bảo hoạt động kiểm tra, thi và đánh giá sẽ cung cấp những cơ sở tin cậy cho việc
điều chỉnh cách dạy, cách học.
a) Nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục phải chú
trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các
vấn đề lý luận và thực tiễn; hạn chế yêu cầu ghi nhớ máy móc, “học tủ”; đánh
giá được sự tiến bộ về phẩm chất và năng lực của người học; phối hợp sử dụng
kết quả đánh giá trong quá trình học và đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá
của người dạy và tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường và đánh
giá của gia đình, của xã hội;
b) Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông
theo hướng kiểm tra năng lực học sinh, thiết thực, hiệu quả, tin cậy, sử dụng
được kết quả công nhận tốt nghiệp làm căn cứ cho tuyển sinh của nhiều cơ sở
giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề và giáo dục đại học;
c) Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp đối với giáo
dục dạy nghề trên cơ sở tích hợp đánh giá kiến thức và kỹ năng thực hành, có sự
tham gia của doanh nghiệp hoặc đại diện sử dụng lao động.
d) Ngoài việc đánh giá kết quả học tập của người học, cần tiến hành các
hình thức đánh giá chất lượng giáo dục cả nước, từng địa phương, từng cơ sở
giáo dục; thực hiện các kỳ đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông quốc gia và
tham gia đánh giá quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục;
e) Xây dựng, hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục của Nhà
nước, của xã hội. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và
các chương trình đào tạo, cơng khai kết quả kiểm định trước xã hội.
4. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập

Chuyển hệ thống giáo dục “đóng” thành hệ thống giáo dục “mở”, linh
hoạt, liên thông giữa các yếu tố của hệ thống và liên thơng với mơi trường bên
ngồi hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo tính sáng tạo cho việc xây dựng, tổ chức
20


các nội dung, hình thức giáo dục, tạo cơ hội tiếp cận giáo dục cho người học, tận
dụng các nguồn lực cho giáo dục và đảm bảo tính hiệu quả, phát triển bền vững
của hệ thống.
a) Xây dựng khung trình độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp phù
hợp với bối cảnh đất nước và xu thế các nước trong khu vực và trên thế giới. Mở
thêm loại hình bồi dưỡng sau tiến sĩ;
b) Trước mắt ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay, thực
hiện giáo dục cơ bản, bắt buộc 9 năm, phân luồng mạnh sau trung học cơ sở;
phân hóa và định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông; tiếp tục nghiên cứu
đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông, tiến tới giảm bớt số năm học đồng thời với
tổ chức dạy học cả ngày;
c) Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề, giáo
dục đại học gắn với quy hoạch phát triển nhân lực. Hợp nhất hệ thống trung cấp
chuyên nghiệp và trung cấp nghề, cao đẳng và cao đẳng nghề thành hệ thống
giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề, hình thành một số cơ sở giáo dục kỹ thuật và
đào tạo nghề chất lượng cao; đẩy mạnh giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề sau
trung học, liên thông giữa giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề và giáo dục đại học.
Hình thành luồng giáo dục ứng dụng, thực hành. Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới
các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu, đồng thời đổi mới cơ chế
để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học. Phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo
định hướng nghiên cứu, định hướng ứng dụng và định hướng thực hành. Hoàn
thiện mơ hình đại học quốc gia, đại học vùng, đồng thời củng cố và phát triển
một số cơ sở giáo dục đại học và giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề để cung cấp
nhân lực chất lượng cao. Nghiên cứu giảm hợp lý số năm học đại học ở một số

ngành và lĩnh vực (cá biệt có trường hợp tăng thêm);
d) Hệ thống giáo dục phổ thông chủ yếu là loại hình trường cơng lập;
đồng thời khuyến khích xã hội đầu tư phát triển các trường chất lượng cao.
Trong giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề và giáo dục đại học, phát triển song
song loại hình trường cơng lập và ngồi cơng lập; từng bước tăng cường vai trị
trường ngồi cơng lập, bao gồm cả các trường chất lượng cao. Hướng tới có loại
hình cơ sở giáo dục do cộng đồng đầu tư;
e) Đa dạng hoá các phương thức đào tạo. Xây dựng các chương trình đào tạo
theo học chế tín chỉ, có cơ chế cho phép người học được cơng nhận và tích lũy kết
quả học tập để có thể học liên thơng theo các phương thức, các trình độ đào tạo
khác nhau. Quy hoạch phát triển các cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập suốt
đời của nhân dân và xây dựng xã hội học tập. Phát triển các trung tâm giáo dục đào tạo - bồi dưỡng nghề các cấp từ cơ sở. Đẩy mạnh đào tạo nghề, bồi dưỡng năng
lực, kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh. Xây dựng cơ chế để doanh
nghiệp, cơ sở sử dụng lao động tham gia xây dựng, đánh giá, điều chỉnh chương
trình đào tạo, hướng dẫn thực hành, thực tập và đánh giá năng lực người học.
Tập trung phát triển một số cơ sở giáo dục đại học dẫn đầu về nghiên cứu
và phát triển công nghệ đào tạo mở và từ xa.
21


5. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đảm bảo dân chủ,
thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo
dục; coi trọng quản lý chất lượng
Tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước, phát huy vai trị của ngành giáo
dục, vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội, đẩy mạnh phân cấp quản lí, tạo
động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục.
a) Từng bước phân định công tác quản lý nhà nước về giáo dục với công
tác quản lý chuyên môn của cơ sở giáo dục; cơ quan quản lý không làm thay
công việc quản trị của cơ sở giáo dục.
b) Các cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo, dạy nghề được chủ động quản

lý thống nhất về nhân sự, tài chính và nhiệm vụ chun mơn. Thống nhất cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề. Hồn thiện cơ chế
phân cơng, phối hợp quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội, các Bộ/Ngành liên quan và Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố đối
với các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề.
c) Coi trọng quản lý chất lượng đầu ra, quản lý q trình đào tạo và chuẩn
hóa các điều kiện đảm bảo chất lượng. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về
chất lượng giáo dục - đào tạo.
d) Xây dựng cơ chế thu nhận và xử lý các thông tin phản hồi trong quản lý
giáo dục. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục, nhà
giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý, cơ sở giáo dục tham gia đánh giá cơ quan
quản lý nhà nước về giáo dục. Đo lường mức độ hài lòng của người dân đối với sự
phục vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và của các cơ sở giáo dục.
e) Phát triển hệ thống thông tin quản lý giáo dục và thị trường lao động.
Tăng cường công tác dự báo về giáo dục, đào tạo và nhu cầu nguồn nhân lực của
xã hội.
g) Hoàn thiện cơ chế quản lý lưu học sinh ở nước ngoài, cơ chế liên kết
đào tạo với nước ngoài và cơ chế quản lý những cơ sở giáo dục nước ngoài ở
Việt Nam.
h) Đổi mới quản trị cơ sở giáo dục, đào tạo theo hướng phát huy dân chủ,
tính sáng tạo; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đồng bộ cả về tổ chức thực
hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính, tài sản; tăng dần vai trò của Hội đồng trường,
giảm dần vai trò của bộ chủ quản. Trong Hội đồng trường đảm bảo vai trò của
Đảng ủy và cơ quan chủ quản. Thực hiện cơ chế tự chủ và chịu trách nhiệm xã
hội, công khai, chịu sự giám sát của các chủ thể trong nhà trường, của Nhà nước
và của xã hội đối với cơ sở giáo dục đồng thời với công tác thanh tra, kiểm tra
của cơ quan quản lý các cấp.
i) Các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội, các cơ quan quản lý
và các cơ sở giáo dục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, phối hợp trách
nhiệm giải quyết các hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc xã hội.


22


6. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục - đào tạo
Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, gương mẫu về đạo đức nhà giáo và trách nhiệm nghề nghiệp,
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên tự học, thiết tha với nhiệm vụ đổi
mới giáo dục.
a) Xây dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục.
Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên theo hướng khắc phục
tình trạng phân tán; hình thành các trường sư phạm khu vực. Các trường sư
phạm chỉ làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và
nghiên cứu khoa học. Không giao nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đối với
một số cơ sở đào tạo sư phạm hiện nay nếu xét thấy khơng cịn phù hợp. Tập
trung xây dựng một số trường sư phạm, sư phạm kỹ thuật trọng điểm. Xây dựng
và thực hiện cơ chế điều hịa, phối hợp trong q trình phát triển và hoạt động
của các trường sư phạm, sư phạm kỹ thuật theo mục tiêu, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên phạm vi cả nước.
Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những người
có năng lực phù hợp vào ngành sư phạm.
b) Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo
lại, bồi dưỡng giáo viên và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện trong đào tạo, bồi
dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, trách nhiệm, đạo đức nhà
giáo và năng lực nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của giáo dục các cấp
học và trình độ đào tạo.
Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý theo từng cấp
học. Tiến tới tất cả giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở phải có trình độ

đại học; giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề có
trình độ đại học trở lên và có chứng chỉ sư phạm nghề, chứng chỉ năng lực nghề
tương ứng với trình độ và nghề đào tạo; giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ
từ thạc sĩ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Nhà giáo
các cơ sở đào tạo phải đi thực tế tại các cơ sở sản xuất, dịch vụ. Cán bộ quản lý
giáo dục các cấp phải được đào tạo về nghiệp vụ quản lý.
c) Có chế độ đặc thù cho nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở giáo
dục và cơ quan quản lý giáo dục.
Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục phải trên cơ sở đánh giá thực tế năng lực và hiệu quả công tác.
Tiếp tục thực hiện chủ trương về lương cho giáo viên như Nghị quyết Trung
ương 2 (khóa VIII) đã khẳng định, có thêm chế độ phụ cấp thâm niên và phụ cấp
khác tùy theo tính chất, kết quả và chất lượng công việc, theo vùng, đi đôi với cơ
chế đánh giá, sàng lọc; bổ sung chế độ cho cán bộ quản lý giáo dục được hưởng
thâm niên nghề.
23


Có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các giảng viên trẻ có nhà ở,
tham gia nghiên cứu khoa học, học tập nâng cao trình độ, năng lực. Có chế độ
ưu đãi và quy định hợp lý tuổi nghỉ hưu đối với nhà giáo có trình độ cao, đồng
thời có cơ chế miễn nhiệm hoặc bố trí cơng việc khác đối với những người
khơng cịn phù hợp. Đảm bảo bình đẳng về chế độ chính sách giữa nhà giáo
trong và ngồi cơng lập.
Xây dựng, áp dụng chính sách và cơ chế động viên đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun
mơn nghiệp vụ. Tạo điều kiện để các nhà giáo, chuyên gia nước ngoài, kể cả
người Việt Nam ở nước ngoài, tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở trong nước;
7. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, tăng cường cơ sở vật chất,
huy động sự tham gia đóng góp của tồn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư

để phát triển giáo dục
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư kinh phí cho giáo dục, đầu tư
có trọng điểm, khơng dàn trải. Đa dạng các nguồn đầu tư giáo dục phù hợp với
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
a) Đảm bảo đủ kinh phí đáp ứng yêu cầu của ngành giáo dục, trong đó tỷ
lệ chi cho lương và phụ cấp theo lương không quá 75% tổng kinh phí chi thường
xuyên hàng năm của các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông. Suất đầu
tư cho sinh viên đại học đảm bảo tối thiểu bằng 1,2 lần thu nhập bình qn đầu
người/năm. Ưu tiên kinh phí từ ngân sách cho giáo dục phổ cập. Quan tâm đầu
tư hơn nữa cho giáo dục vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Khuyến khích xã hội đầu tư phát triển
một số trường mầm non, phổ thơng chất lượng cao được thu học phí cao để bù
đắp chi phí giáo dục, ngồi phần đầu tư của Nhà nước.
b) Từng bước chuyển cơ chế cấp phát kinh phí bình qn sang đặt hàng
trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng
của một số loại hình dịch vụ đào tạo, không phân biệt cơ sở đào tạo công lập và
ngồi cơng lập nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh và phát triển bình đẳng. Đảm
bảo suất đầu tư trên mỗi người học tương ứng với chất lượng, phù hợp ngành
nghề và trình độ đào tạo nhất là đối với giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề. Minh
bạch hóa trong các hoạt động liên danh, liên kết của các đơn vị sự nghiệp giáo
dục - đào tạo công; khắc phục tình trạng cơng - tư lẫn lộn; đổi mới cơ chế phân
phối theo hướng vừa bảo đảm quyền lợi của người lao động, người học, vừa có
tích lũy tái đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất của các đơn vị sự nghiệp cơng;
c) Có chính sách, cơ chế, quy định tỷ lệ đóng góp của người học, xã hội và
Nhà nước; đối với những ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, mức đóng
học phí được quy định trên cơ sở từng bước đủ bù đáp chi phí, tương ứng với chất
lượng đào tạo. Xây dựng cơ chế học phí cao - chất lượng cao đối với một số
chương trình đào tạo, có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước và xã
hội. Tiếp tục hồn thiện chính sách và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh viên có
hồn cảnh khó khăn được vay để chi trả cho việc học. Khuyến khích việc hình

thành các quỹ học bổng giúp cho học sinh nghèo và học sinh giỏi;
24


×