Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Thực trạng và giải pháp huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.94 KB, 44 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế cao
nhất thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã khiến nhu cầu về vốn
của các NHTM ngày càng lớn, để đầu tư phát triển. Trong điều kiện đó những
năm qua ở nước ta vốn đầu tư của ngân sách hạn hẹp, vốn tự có của doanh
nghiệp hạn chế, thị trường chứng khoán chưa phát triển nên nguồn vốn giành
cho tăng trưởng chủ yếu là từ hệ thống ngân hàng nhất là các ngân hàng thương
mại nhà nước. Nguồn vốn của các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm tới
76% thị phần cung ứng vốn tín dụng của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Mặc dù vấn đề huy động vốn có ý nghĩa quan trọng, song trong năm qua
toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung và chi nhánh chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và phát triển tỉnh Sơn La nói riêng chịu ảnh hưởng mạnh từ chính sách thắt chặt
tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Trong một môi trường với các
điều kiện; thay đổi liên tục, cả hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã gặp
nhiều khó khăn: thiếu hụt thanh khoản kéo dài; Các Ngân hàng thương mại luôn
cạnh tranh gay gắt về lãi suất huy động, để thu hút nguồn tiền gửi tiết kiệm hiếm
hoi, và nhu cầu vốn của khách hàng tăng cao buộc các NHTM phải đặc biệt chú
trọng đến công tác huy động vốn và được quan tâm hàng đầu trong các chương
trình nhiệm vụ công tác; nhằm đảm bảo thanh khoản và tăng trưởng nguồn vốn
phục vụ cho đầu tư phát triển.
Nhận thức được vai trò to lớn của vốn đối với nền kinh tế nước nhà, tầm
quan trọng của vốn đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh. Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Sơn La đã có chủ trương, giải pháp tăng cường huy động
mọi nguồn vốn tạm thời nhàn dỗi, để có nguồn vốn đáp ứng nhu cầu tăng
trưởng nền kinh tế, nâng dần tính ổn định và duy trì mức chi phí hợp lý, đáp
ứng yêu cầu xin vay hợp lý của khách hàng. Những năm qua nguồn vốn huy
động tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La luôn tăng, song vẫn
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn phục vụ khách hàng, bởi còn gặp phải một
số hạn chế, khó khăn.
Đây là lý do khiến em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp huy
động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La” làm
đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Đề tài tuy không phải là mới song em thiết nghĩ thực trạng và giải
pháp huy động vốn vẫn là vấn đề cần thiết và cấp bách trong bối cảnh phát
triển vốn hiện nay.
Bài viết gồm 3 phần chính:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của NHTM
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
phát triển Sơn La
Chương III: Giải pháp huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Sơn La.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Thạc sỹ Lương Hương Giang, cùng
các Bác, cô chú, anh chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Sơn La đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề
tốt nghiệp này!
Do chưa có kinh nghiệm thực tế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót rất
mong được sự góp ý của các thầy cô, các Bác, cô chú, anh chị tại Chi nhánh để bài
viết của em được hoàn chỉnh.
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I:
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1. Khái niệm
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư, là cầu nối giữa những tổ chức, cá nhân tạm thời thâm hụt chi

tiêu tổ chức cá nhân có tiền nhàn rỗi thông qua hoạt động thu hút nguồn tiền nhàn rỗi
trong các tầng lớp dân cư và tiến hành cấp tín dụng cho những đối tượng cần vay tiền.
Với một mạng lưới rộng khắp, một quá trình hoạt động lâu dài, quy trình nghiệp vụ và
công nghệ hiện đại cùng nhiều mối quan hệ truyền thống, các NHTM đã trở thành kênh
huy động vốn có hiệu quả, một kênh tín dụng đáp ứng nhu cầu cho vay của mọi khách
hàng, một trung gian thanh toán tiện lợi và nhanh chóng. Thông qua chức năng này,
NHTM góp phần tạo lợi ích cho tất cả các chủ thể kinh tế tham gia vào lợi ích chung
của nền kinh tế.
Có thể hiểu NHTM là một tổ chức tài chính cung cấp danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng nhất định so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo luật các tổ chức tín dụng 1997 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng
và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Thành tựu của hệ thông Ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua là kết quả của
nhiều nhân tố tác động. Cùng với quá trình cải cách kinh tế nói chung, Đảng và Nhà
nước đặc biệt quan tâm cải cách trong lĩnh vực ngân hàng. Các chính sách tiền tệ - tín
dụng của Nhà nước góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Kinh tế thị
trường đã thúc đẩy quá trình xâm nhập và phát triển của tư tưởng và tác phong kinh
doanh mới trong Ngân hàng. Sự có mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng liên doanh đã góp phần tạo ra những động lực mới cho sự phát triển của hệ thống
NHTM Việt Nam.
2. Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại
NHTM được xem là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, với
chức năm là trung gian tín dụng. Các NHTM vừa là chủ thể đi vay nhưng cũng vừa
thực hiện cho vay. Từ đó, nghiệp vụ hoạt động chủ yếu của NHTM là nghiệp vụ huy

động vốn và nghiệp vụ sử dụng vốn. Thông qua hai nghiệp vụ này ngân hàng đã cung
cấp các dịch vụ trung gian khác.
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là hoạt động đầu tiên và rất quan trọng của một ngân hàng. Để tạo nguồn
vốn cho mình các ngân hàng thực hiện huy động vốn sau:
Vốn chủ sở hữu: nguồn này được hình thành từ đóng góp của các cổ đông và các
quỹ của ngân hàng hình thành trong quá trình kinh doanh thể hiện dưới hình thức lợi
nhuận không phân chia.
Hoạt động huy động tiền gửi: Là việc ngân hàng huy động nhận tiền gửi, tiền
nhàn rỗi trong dân cư nhằm mục đích thanh toán, hưởng lãi của các cá nhân, hộ gia
đình.
Hoạt động đi vay: Là hoạt động ngân hàng tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các
tổ chức tín dụng, vay trên thị trường tiền tệ, vay NHNN dưới hình thức tái chiết khấu,
vay có bảo đảm…. mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của NHTM khi họ
không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. Ngân hàng cũng có thể huy động
bằng cách phát hành giấy tờ có giá. Ngân hàng sử dụng cách này để thu hút các khoản
vốn có tính chất dài hạn với ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn
giúp NHTM tăng cường tính ổn định của đồng vốn trong hoạt động kinh doanh của
mình.
Hoạt động huy động vốn khác: NHTM có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận
làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân hay tổ chức trong và ngoài nước.
Nghiệp vụ huy động vốn là một khâu quan trọng trong chu trình hoạt động kinh doanh
của NHTM mà sẽ được đi sâu nghiên cứu trong Chương II, hoạt động huy động vốn
ngày càng được mở rộng thì uy tín, vị thế của ngân hàng ngày càng được khẳng định và
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nâng cao. Việc mở rộng kênh huy động vốn là một trong những mục tiêu của ngân hàng
song điều quan trọng là ngân hàng cần phải căn cứ vào mục tiêu, chiến lược phát triển
kinh doanh của ngân hàng, chiến lược phát triển kinh tế của ngành, của vùng… để có

đủ vốn và cơ cấu phù hợp với chi phí huy động hợp lý cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Hoạt động chính của NHTM là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận.
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng
trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng đồng thời đây cũng là
hoạt động trực tiếp đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Các nguồn vốn mà NHTM có
được đều phải mất chi phí và do đó ngân hàng phải thực hiện nghiệp vụ sử dụng vốn
một cách an toàn và hiệu quả, đảm bảo thu hồi vốn, đủ bù đắp chi phí và có lãi. Trong
ngân hàng có các hoạt động sử dụng vốn sau:
a. Nghiệp vụ ngân quỹ : Với mục đích đảm bảo an toàn khả năng thanh toán
thường xuyên của ngân hàng, nghiệp vụ ngân quỹ được thể hiện qua các khoản mục
sau:
 Tiền mặt tại quỹ: Bao gồm tiền giấy, tiền kim loại có tại kho ngân hàng. Nhu
cầu dự trữ tiền mặt cao hay thấp là tùy thuộc quy mô hoạt động, nhu cầu rút tiền mặt
của khách hàng và tính chất thời vụ trong năm.
 Tiền gửi tại ngân hàng khác: Các ngân hàng có thể mở tài khoản lẫn nhau để
đổi lấy những dịch vụ khác nhau như: trung gian thanh toán cho khách hàng, giao dịch
ngoại tệ, mua bán chứng khoán…
 Tiền gửi tại ngân hàng Trung ương: Bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy
định của ngân hàng Trung ương và tiền gửi thanh toán. Mức tiền gửi dự trữ bắt buộc
trong từng thời kỳ thường chiếm tỷ lệ từ 10 – 35% trên nguồn vốn huy động. Dự trữ bắt
buộc vừa là một biện pháp để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, vừa là
một trong những công cụ điều tiết cung cầu tiền tệ trong quá trình thực thi chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
Các bộ phận trên hình thành nên phần dự trữ của các NHTM. Mặc dù dự trữ của
NHTM không tạo nên lợi nhuận nhưng nó đảm bảo khả năng thanh toán và các nghĩa
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

vụ tài chính khác cho ngân hàng. Nó hạn chế nguy cơ rủi ro thanh khoản, góp phần
nâng cao uy tín của ngân hàng, tạo nên nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời của
ngân hàng.
Chứng khoán: NHTM nắm giữ chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng
hóa tài sản. Ngân hàng giữ nhiều loại chứng khoán có thể là chứng khoán của chính
phủ, của địa phương, chứng khoán của các ngân hàng khác, của công ty tài chính hay
doanh nghiệp phát hành. Ngân hàng giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho
ngân hàng và có thể bán được để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Trong đó chứng
khoán ngắn hạn của chính phủ thường được xếp hàng đầu trong số các chứng khoán
thanh khoản, được giữ như một tài sản đệm cho ngân quỹ: chúng sinh lời cao hơn ngân
quỹ và khi cần có thể bán để chi trả như ngân quỹ. Chứng khoán chính phủ có thời gian
đáo hạn dài, chứng khoán trung và dài hạn của các công ty có tỷ lệ sinh lời cao ngân
hàng thường nắm giữ đến ngày đáo hạn để hưởng lợi. Ngân hàng cũng nắm chứng
khoán công ty để thực hiện quyền tham dự, kiểm soát hoạt động công ty.
b. Nghiệp vụ tín dụng : Đây là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực
tiếp cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng xã hội. Nghiệp vụ này sử dụng lượng
vốn lớn nhất và tạo lợi nhuận nhiều nhất, khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có thể
kiểm soát trực tiếp và thường xuyên mục đích sử dụng tiền vay. Có nhiều hình thức
phân loại tín dụng.
− Theo thời gian: có tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
 Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động
 Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố
định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn.
 Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như nhà,
sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
 Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều
khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Tín dụng ngắn hạn tại
các NHTM thường chiếm tỷ trọng cao hơn tín dụng trung và dài hạn.
− Theo hình thức tài trợ: Tín dụng được chia thành
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B

6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn trong đó ngân
hàng mua những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán với giá trị bằng giá trị thương
phiếu trừ đi phần lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí. Đến thời hạn thanh toán thương
phiếu ngân hàng sẽ đòi người mắc nợ theo giá trị của thương phiếu.
 Cho vay ứng trước: Là một hình thức cho vay được thực hiện trên cơ sở
hợp đồng tín dụng, trong đó người đi vay được phép sử dụng một hạn mức tín dụng
trong một thời gian nhất định. Để thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng mở cho khách
hàng một tài khoản, chuyển số tiền cho vay vào tài khoản để khách hàng sử dụng theo
nhu cầu.
 Cho vay thấu chi: Là hình thức đặc biệt của tín dụng ứng trước, thực hiện
trên cơ sở hợp đồng tín dụng, khách hàng có thể sử dụng một số tiền trong một thời hạn
nhất định vượt quá số dư ngay trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng.
 Để đa dạng hóa nghiệp vụ tín dụng và đáp ứng nhu cầu vay vốn của
khách hàng ngân hàng còn có các hình thức cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo
hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp…
− Theo tài sản đảm bảo: Có các loại tín dụng sau
 Nghiệp vụ cho vay cầm cố: Ngân hàng có thể cho vay khi người đi vay
có tài sản cầm cố tại ngân hàng dưới các hình thức như: tài sản là động sản, các chứng
từ có giá (Sổ tiết kiệm,kỳ phiếu, trái phiếu, chứng khoán…), vàng, bạc.
 Nghiệp vụ cho vay thế chấp tài sản: Ngân hàng cho vay trên cơ sở người
đi vay mang các giấy tờ sở hữu các loại tài sản là bất động sản để thế chấp vay vốn.
Nghiệp vụ này cũng tương tự như nghiệp vụ cho vay cầm cố nhưng khác ở chỗ là trong
suốt thời hạn cho vay tài sản thế chấp vẫn được người đi vay sử dụng, ngân hàng chỉ
nắm giữ hồ sơ gốc.
 Nghiệp vụ cho vay không cần tài sản đảm bảo (tín chấp): Có thể được
cấp cho các khách hàng có uy tín thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi,
tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa hoặc món vay tương
đối nhỏ so với vốn của người vay.

Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Ngoài ra còn có các hình thức phân loại tín dụng khác như: theo ngành
kinh tế có tín dụng công, nông, lâm, ngư nghiệp; theo mục đích là sản xuất hay tiêu
dùng…
c. Nghiệp vụ đầu tư : Bộ phận vốn được ngân hàng sử dụng phải có tính ổn
định cao, chủ yếu là vốn tự có. Các hình thức đầu tư phổ biến như: liên doanh, đầu tư
chứng khoán. Nghiệp vụ này còn góp phần nâng cao năng lực thanh toán của ngân hàng và
bảo toàn được ngân quỹ.
d. Nghiệp vụ sử dụng vốn khác : Đối với ngân hàng mới thành lập phải dành
một phần vốn cần thiết để đầu tư mua sắm tài sản cố định, phương tiện làm việc của ngân
hàng. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng luôn phải quan tâm đổi mới công nghệ, cơ sở
vật chất tương ứng với quy mô kinh doanh và nâng cao chất lượng phục vụ khách khàng,
hội nhập với tiến trình phát triển của thế giới. Đồng thời ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo,
khen thưởng nhằm nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp và khuyến khích tinh thần làm
việc của cán bộ nhân viên.
2.3. Các nghiệp vụ trung gian
Nghiệp vụ trung gian chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là trung gian
thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân
hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc,
ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối
các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, các dịch vụ của ngân hàng cũng phát triển
theo để đáp ứng nhu cầu càng phong phú đa dạng của khách hàng. Qua việc thực
hiện các dịch vụ trung gian: tư vấn, môi giới, ủy thác, bao thanh toán, đại lý bảo
hiểm, mua bán ngoại tệ ngân hàng được hưởng thu nhập từ phí hoặc hoa hồng. Các
dịch vụ tiện ích như cho thuê két sắt, bảo quản vật có giá, đổi tiền cũng góp phần
tăng thu nhập từ phí dịch vụ cho ngân hàng.

Các hoạt động trung gian phản ánh mức độ phát triển của ngân hàng. Việc đa
dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cung ứng sẽ làm tăng thu nhập cho ngân hàng, tăng
uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Thực hiện tốt các hoạt động này,
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, điều đó cũng tạo điều kiện phát
triển hoạt động huy động vốn và cho vay của ngân hàng. Đồng thời với các hoạt
động trung gian này, NHTM góp phần làm tăng khả năng chu chuyển của đồng
vốn, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông
trong xã hội.
II. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của NHTM là tất cả các nguồn tài chính mà NHTM có quyền sử dụng để
tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu: là vốn thuộc sở hữu của các chủ ngân hàng. Tuy chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh,
nó là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, là nguồn có
thể sử dụng lâu dài hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của
ngân hàng bao gồm:
 Nguồn vốn hình thành ban đầu (vốn tự có ban đầu)
Vốn này được hình thành khi ngân hàng mới bắt đầu hoạt động. Số lượng vốn này tùy
theo năng lực tài chính và tính chất sở hữu. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá
nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước thì do ngân sách nhà nước cấp; nếu là
ngân hàng cổ phần thì do cổ đông đóng góp thông qua mua các cổ phần (hoặc cổ phiếu); nếu
là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp vốn…
 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức
khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.

Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng gia
tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Thường những
ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận có thể cao hơn so với
vốn của chủ hình thành ban đầu.
Vốn của chủ còn được bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm hoặc được cấp
thêm… để mở rộng quy mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
gia tăng vốn của chủ do NHNN quy định.
Ngân hàng có thể gia tăng vốn của chủ từ các quỹ: Ngân hàng thường lập nhiều quỹ,
mỗi quỹ có mục đích riêng.
Quỹ dự phòng tổn thất: quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù
đắp những tổn thất xảy ra.
Quỹ bảo toàn vốn: nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát.
Quỹ thặng dư: là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và
mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.
Ngoài ra ngân hàng thường trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như quỹ khen
thưởng, quỹ đào tạo, quỹ phúc lợi, quỹ nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới…
Vốn bổ sung bằng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu. Một số
ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng có
khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Do
nguồn này có thể sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn
trả khi đến hạn.
Vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng trong hoạt động của NHTM. Nó không những tạo
cảm giác an tâm cho người gửi tiền mà còn tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động
ngân hàng. Bởi nếu quy mô vốn của chủ lớn, người gửi tiền và người cho vay sẽ cảm thấy an
tâm hơn về ngân hàng (với các điều kiện khác là như nhau). Mặt khác để hoạt động, điều kiện
đầu tiên là ngân hàng phải có được số vốn tối thiểu ban đầu (vốn pháp định). Số vốn này trước
hết để mua sắm hoặc thuê trang thiết bị, nhà cửa cần thiết cho quá trình kinh doanh, phần còn

lại tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng như cho vay, mua bán chứng khoán…
Cũng thông qua vốn của chủ, chúng ta có thể tính được các tỷ lệ quy mô nguồn tiền gửi trên
vốn của chủ, hệ số COOK, ROE, quy mô cho vay tối đa đối với một hoặc một nhóm khách
hàng…
1.2. Vốn nợ
Là nguồn chủ yếu trong hoạt động của ngân hàng bao gồm tiền gửi, tiền vay và
các nguồn vốn khác.
2. Huy động vốn của ngân hàng thương mại
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ bên ngoài
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Thông qua nghiệp vụ này sẽ hình thành nên nguồn
vốn kinh doanh cho ngân hàng.
Ngoài lợi nhuận giữ lại ngân hàng thường huy động những nguồn vốn sau.
2.1. Phát hành cổ phiếu
Để huy động vốn các NHTM cổ phần có thể phát hành cổ phiếu nhằm mở rộng
quy mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiệt bị hay để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn
của chủ do NHNN quy định. Tuy nhiên việc huy động vốn bằng cách này không phải là
việc làm thường xuyên và dễ dàng đối với các ngân hàng. Việc phát hành cổ phiếu với
số lượng và mệnh giá như thế nào cần phải được xem xét kỹ lưỡng bởi hội đồng quản
trị và phải được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông qua. Thông thường thì những cổ
phiếu của những ngân hàng cổ phần lớn có uy tín được ưa chuộng hơn là cổ phiếu của
những ngân hàng cổ phần vốn nhỏ và không nổi tiếng.
2.2. Huy động tiền gửi
Là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn và có vai trò chủ yếu
trong hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm:
 Tiền gửi không kỳ hạn
Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Khách hàng có thể
yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản để chuyển trả cho người thụ hưởng, hoặc

chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản này. Đối với khoản tiền gửi này, mục đích
chính của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản
thanh toán qua ngân hàng, do vậy nó còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tiền gửi
không kỳ hạn có chi phí thấp, tuy nhiên ngoài chi phí trả lãi, còn có chi phí phát sinh
trong hoạt động phục vụ thanh toán.
Để tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng phải đa dạng hóa và thực hiện tốt
các dịch vụ trung gian, huy động nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm cho
mức dư tiền gửi bình quân tại ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân
hàng có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán của ngân hàng.
 Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi cho nên
ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn vì chủ động được
thời gian. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời gian gửi tiền và sự thỏa thuận giữa hai
bên về những điều kiện đảm bảo an toàn trong quan hệ tín dụng. Để mở rộng khoản
vốn này, ngoài biện pháp lãi suất ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp nhằm
tạo nên tính lỏng cho loại tiền gửi có kỳ hạn như cho phép khách hàng rút trước hạn
hoặc xổ số trúng thưởng...
Song đối với các khoản tiền gửi khách hàng rút ra trước hạn, ngân hàng thường
áp dụng lãi suất của kỳ hạn ngắn hơn hoặc lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn. Khách
hàng gửi tiền có kỳ hạn nhìn chung không được phát hành séc hoặc sử dụng dịch vụ
ngân hàng từ tài khoản này. Ngân hàng được toàn quyền sử dụng lượng vốn này trong
thời hạn khách hàng gửi tiền nên hiệu quả sử dụng nguồn vốn này là rất cao.Tuy nhiên
chi phí huy động của loại vốn này lại khá đắt vì lãi suất huy động cao hơn lãi suất tiền
gửi không kỳ hạn.
 Tiền gửi tiết kiệm

Là loại tiền gửi để dành của các tầng lớp dân cư, được gửi vào ngân hàng để
được hưởng lãi, hình thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có sổ. Là loại tiết
kiệm người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền ra,
đồng thời nó còn xác nhận số tiền đã gửi.
Ở Việt Nam hình thức gửi tiền tiết kiệm phổ biến là:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại mà khách hàng có thể gửi nhiều lần và
rút ra bất cứ lúc nào, ngân hàng trả lãi theo số dư bình quân hàng tháng nhân với lãi
suất, lãi được nhập gốc hàng tháng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được rút gốc và lãi sau một thời gian
nhất định. Tuy nhiên nếu khách hàng có nhu cầu rút trước thời hạn có thể được đáp ứng
nhưng phải chịu lãi suất thấp. Nếu đến hạn người gửi không có nhu cầu sử dụng thì
ngân hàng tự động nhập lãi vào gốc và tiếp tục được hưởng lãi kỳ tiếp theo.
Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn,
người tham gia ngoài việc được ngân hàng trả lãi còn được ngân hàng cấp tín dụng
nhằm mục đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dùng.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Chúng có
cùng tính chất là được hưởng lãi cao và chủ tài khoản không được phát hành séc. Nhằm
thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích người
dân thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy
động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Với hình
thức tiền gửi này, người gửi tiền nhận được sổ tiết kiệm. Tuy sổ tiết kiệm này không
được dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn ngân
hàng.
 Tiền gửi của các ngân hàng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể
gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn tiền này không lớn.

Đặc điểm chung của nguồn tiền gửi là phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu
ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn nhưng chưa đến hạn. Quy mô của tiền gửi rất lớn so
với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm 65 -70% tổng nguồn vốn và được
huy động thường xuyên. Là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường
cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. Tiền
gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu
nhập, chu kỳ chi tiêu,…Việc huy động tiền gửi chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố như địa
điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, phương thức huy động, các dịch
vụ tiện ích của ngân hàng,…
2.3. Vốn vay
Các NHTM có thể vay vốn từ Ngân hàng Trung ương, các NHTM hoặc các trung
gian tài chính khác và vay từ công chúng dưới các hình thức:
 Vay Ngân hàng Trung ương
Bất kỳ NHTM nào khi được Ngân hàng Trung ương cấp giấy phép hoạt động đều
được vay vốn tại Ngân hàng Trung ương trong trường hợp cần bổ sung vốn khả dụng.
Nghiệp vụ vay vốn này được Ngân hàng Trung ương thực hiện dưới hình thức phổ biến
là tái cấp vốn, bao gồm tái chiết khấu các loại giấy tờ có giá và cho vay cầm cố, thế
chấp. Khoản vay này liên quan đến lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Trung ương,
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Do đó, các Ngân hàng Trung ương điều
hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, các NHTM phải thực hiện các điều kiện
đảm bảo và kiểm soát nhất định.
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Qua thị trường liên ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng
trong thời gian ngắn, các ngân hàng có thể khai thác các khoản vốn nhàn rỗi từ các
ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Hoạt động vay mượn này nhằm mục đích điều hòa
nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt liên tục trong hệ
thống ngân hàng.

 Phát hành các chứng từ có giá (Chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu)
Ngân hàng chủ động phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu
ngân hàng để huy động vốn nhằm thực hiện các dự án đầu tư đã định. Việc huy động
vốn dưới hình thức phát hành chứng từ có giá được thực hiện theo hai phương thức:
phát hành theo mệnh giá (trả lãi sau, người mua trả tiền theo mệnh giá được ghi trên bề
mặt chứng từ); phát hành bằng hình thức chiết khấu (trả lãi trước, người mua sẽ trả một
số tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng). Thông thường đây là khoản
vay không có đảm bảo, những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn sẽ vay
mượn được nhiều hơn. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của
thị trường tài chính tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
2.4. Các nguồn vốn khác
Khi ngân hàng có những mối quan hệ quốc tế rộng lớn còn có thể tranh thủ các
khoản vốn tín dụng hoặc tiếp nhận từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Bao gồm các
nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn vốn khác…
III. Vai trò vốn của ngân hàng thương mại
1. Đối với nền kinh tế
Ngân hàng là một trung gian tài chính và thông qua hoạt động của mình, ngân
hàng đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn. Bằng phương thức huy
động các nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư để
đáp ứng các yêu cầu về sử dụng vốn của các chủ thể có dự án hoặc kế hoạch sử dụng
vốn hiệu quả. Sự kết hợp các nghiệp vụ huy động vốn, sử dụng vốn với các dịch vụ
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trung gian, ngân hàng đã tập hợp và phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế một cách
hiệu quả, đồng thời giảm thiểu chi phí vốn cho nền kinh tế. Bởi sự ra đời của ngân hàng
đã giảm thiểu chi phí một cách đáng kể, khi ta tưởng tượng không có NHTM nói riêng
và các trung gian tài chính nói chung: người cho vay sẽ phải tìm gặp người đi vay có
nhu cầu vay vốn phù hợp với vốn liếng của mình, sau đó phải thẩm định dự án của
người đi vay. Không những thế thông qua kỹ năng hoạt động của ngân hàng cũng đã

hạn chế được các vấn đề của thị trường như thông tin không cân xứng: sự lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức…
Hoạt động huy động vốn của NHTM đã đem lại thu nhập cho những người gửi
tiền và làm đa dạng hóa thêm danh mục đầu tư của những người có tiền. Gửi tiền vào
ngân hàng được đánh giá là một trong những sự lựa chọn an toàn và có tính sinh lời
thông qua việc nắm giữ các trái phiếu, kỳ phiếu hay sổ tiết kiệm tiền gửi của ngân
hàng. Ngày nay khi thị trường tài chính phát triển đã làm tăng tính lỏng của các công cụ
huy động vốn của ngân hàng. Ngoài việc hưởng lãi từ các chứng chỉ tiền gửi. kỳ phiếu,
trái phiếu, sổ tiết kiệm, khách hàng có thể hưởng chênh lệch giá từ việc mua bán chúng,
mang đi chiết khấu... khi cần tiền, chúng có thể là tài sản thế chấp khi đi vay nếu ngân
hàng chấp nhận.
Mặt khác, thông qua hoạt động huy động vốn của NHTM cũng góp phần hình
thành nên tỷ suất lợi nhuận tối thiểu của các doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp
phải hoạt động với tỷ suất lợi nhuận lớn hơn so với lãi suất huy động của các ngân
hàng; là cơ sở tham chiếu để cá nhân, tổ chức lựa chọn nên tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh hay gửi tiền vào ngân hàng.
Sự phát triển của ngân hàng về quy mô, uy tín, công nghệ, mạng lưới chi nhánh…
được coi là tấm gương phản ánh sự phát triển kinh tế của một nước. Một nền kinh tế
phát triển là ở đó ngành dịch vụ phát triển và một trong những lĩnh vực dịch vụ đi đầu
đó là dịch vụ ngân hàng. Huy động vốn là một trong các hoạt động thu hút khách hàng
đến với ngân hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc, sử dụng các dịch vụ tiện ích
của ngân hàng. Điều này không những làm tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng mà
còn góp phần hình thành nên thói quen, phong cách giao dịch, sử dụng các phương tiện
giao dịch, thanh toán hiện đại, nhanh chóng, tiện lợi thông qua các dịch vụ, nghiệp vụ
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng hiện đại.
2. Đối với ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn là cơ sở để ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh

doanh của mình. Nguồn vốn của NHTM bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động.
Ngân hàng là một trung gian tài chính đi vay để thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận.
Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng giúp ngân hàng thực hiện các
hoạt động kinh doanh của mình. Quy mô, cơ cấu vốn huy động sẽ trực tiếp quyết định
đến quy mô và cơ cấu tín dụng của NHTM. Các ngân hàng không thể cho vay dài hạn
với quy mô lớn trong khi vốn huy động nhỏ và thời hạn ngắn.
Thông qua hoạt động huy động vốn cũng thể hiện uy tín, quy mô, sức cạnh tranh
của NHTM trên thị trường. Bởi vốn huy động trên tổng nguồn vốn là một trong những
chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn
ngày càng gia tăng (đặc biệt là vốn dài hạn) khẳng định uy tín và sức cạnh tranh của
mình. Khách hàng có tin tưởng mới gửi tiền vào ngân hàng và nguồn vốn gia tăng thể
hiện ngân hàng đó có vị thế trên thị trường. Và điều này cũng sẽ tạo điều kiện tốt cho
ngân hàng trong các lĩnh vực khác như nghiệp vụ cho vay, phát triển các sản phẩm mới,

Huy động vốn giúp tăng cường mở rộng mối quan hệ giữa ngân hàng với ngân
hàng và với các tổ chức tài chính khác trong nền kinh tế. Sự liên kết, điều hòa vay
mượn các nguồn vốn lẫn nhau sẽ làm gia tăng vòng quay của đồng tiền, tăng hiệu quả
sử dụng vốn trong nền kinh tế. Các ngân hàng dư thừa vốn tạm thời sẽ có cơ hội cho
các ngân hàng thiếu vốn tạm thời vay để lấy lãi. Không những thế nhận thức được tầm
quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của mình các ngân
hàng có thể liên kết, thỏa thuận với nhau mức lãi suất trần, sàn các phương thức huy
động để tránh xảy ra các cuộc chạy đua về lãi suất, các cuộc cạnh tranh gây thiệt hại về
kinh tế lẫn nhau.
Tóm lại, hoạt động huy động vốn là cơ sở, tiền đề nó tạo ra nguồn vốn cho hoạt
động kinh doanh của NHTM. Nó tác động không chỉ cho vay, đầu tư và các nghiệp vụ
kinh doanh khác của NHTM mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế quốc dân.
Nguồn vốn huy động của NHTM gia tăng thể hiện sự tích lũy tập trung vốn đạt hiệu
Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368

quả cao tạo điều kiện để phát triển kinh tế đất nước. Nhưng điều này sẽ hạn chế việc
phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh của tư nhân. Lãi suất gia tăng sẽ thúc đẩy
nguồn vốn huy động gia tăng nhưng sẽ hạn chế đầu tư dân cư. Như vậy có thể nói huy
động vốn phù hợp với mục tiêu kinh doanh của ngân hàng và đáp ứng được nhu cầu
phát triển của nền kinh tế thực sự là một vấn đề quan trọng không chỉ đối với các nhà
ngân hàng mà còn đối với các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế của quốc
gia.
2.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng
a. Uy tín, quy mô ngân hàng
Tạo được sự tin tưởng của khách hàng là một yếu tố quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Một ngân hàng phải trải qua quá trình hoạt động lâu dài để
xây dựng được hình ảnh quen thuộc và uy tín trong mắt khách hàng. Uy tín và các
chính sách huy động thích hợp sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch.
Khách hàng thường lựa chọn gửi tiền vào những ngân hàng có truyền thống lâu đời với
chất lượng dịch vụ đã được khẳng định qua nhiều năm. Mức độ thâm niên và uy tín của
ngân hàng còn tạo điều kiện cho các khách hàng của mình có thể giao dịch rộng rãi với
các đối tác, vì đối tác hoàn toàn tin tưởng uy tín của ngân hàng đặc biệt trong nghiệp vụ
bảo lãnh hay thanh toán quốc tế…Uy tín ngân hàng được thể hiện bởi tổng hợp rất
nhiều yếu tố: hiệu quả hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính, lượng vốn chủ sở hữu
lớn, tỷ lệ an toàn vốn đạt tiêu chuẩn, đảm bảo khả năng thanh khoản, đáp ứng nhu cầu
thanh toán chi trả bất cứ khi nào khách hàng gửi tiền yêu cầu. Nâng cao uy tín đồng
thời với việc tăng cường quan hệ khách hàng thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, không chỉ tiếp cận thị trường trong nước mà các ngân hàng phải nâng cao uy tín
trên cả thị trường quốc tế và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
b. Các dịch vụ ngân hàng
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt
khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ, đáp ứng nhu cầu
đa dạng của người gửi tiền. Các hình thức huy động mới kèm theo các dịch vụ ưu đãi,
khuyến mại tăng hàm lượng công nghệ hiện đại trong sản phẩm dịch vụ đang là hướng
phát triển của các NHTM nhằm tích cực thu hút đông đảo khách hàng. Sản phẩn dịch

Lê Tiến Thành Kinh Tế Đầu Tư_47B
17

×