Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Phương pháp giáo dục của khổng tử và ý nghĩa của nó với sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.5 KB, 44 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bước vào
công cuộc đổi mới đất nước, bước vào hội nhập với vô vàn thách thức, khó khăn
đòi hỏi chúng ta phải có những bước đi vững chắc nếu không chỉ một bước sai lầm
cũng có thể đẩy đất nước vào tụt hậu, khủng hoảng. Để có thể đi trên con đường
hội nhập cùng với các dân tộc trên thế giới, đưa đất nước phát triển và vượt lên một
cách toàn diện trước hết phải có nền tảng vững chắc đó là con người.
Bác Hồ đã dạy “vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm
trồng người”, từ đó Bác khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục, đặc
biệt trong giai đoạn ngày nay. Chỉ có một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa mới tạo ra con người chủ nghĩa xã hội. Nền giáo dục đó phải
không ngừng được đổi mới, không ngừng tiếp thu những cái mới, cái hợp lý nhưng
không được phủ nhận sạch trơn cái cũ, mà phải kế thừa chọn lọc những tinh hoa,
tinh túy trong lịch sử dân tộc và thời đại, áp dụng chúng một cách linh hoạt, khoa
học vào điều kiện cụ thể của đất nước.
Trong bề dày lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, nền giáo dục qua mỗi giai
đoạn thăng trầm của đất nước lại có những chuyển biến nhất định. Ngay từ sớm
nền giáo dục nói riêng, tư tưởng văn hóa của dân tộc nói chung đã chịu ảnh hưởng
của nhiều luồng tư tưởng từ các nước bên ngoài như Trung Quốc, Ấn Độ…
Ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu đậm và lâu dài nhất là tư tưởng giáo dục của Nho
giáo do Khổng Tử sáng lập. Tuy đã qua hơn 2500 năm, trải nhiều biến cố lịch sử
nhưng có những tư tưởng đến nay vẫn còn ăn sâu, ảnh hưởng đến nhiều quan niệm
của nhân dân ta. Trong đó, có nhiều tư tưởng tiến bộ đến nay vẫn còn nguyên giá trị,
rất cần được kế thừa và phát huy trong thời đại mới. Đặc biệt là những phương pháp
giáo dục của Khổng Tử có nhiều yếu tố tích cực.
Các phương pháp giáo dục của Khổng Tử chứa đựng những hạt nhân hợp
lý, khoa học, phù hợp với môi trường giáo dục ở nước ta. Tuy nhiên, do điều kiện
mỗi giai đoạn lịch sử là khác nhau nên không thể vận dụng một cách máy móc,
không thể vận dụng hoàn toàn các phương pháp đó vào điều kiện giáo dục nước
ta hiện nay. Nên chúng tôi muốn tiến hành nghiên cứu đề tài này, thông qua đó


1
chúng ta có nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn những đóng góp của Khổng Tử
về phương pháp giáo dục. Chỉ ra những mặt tích cực, hợp lý cần kế thừa, đồng
thời chỉ ra cái chưa được trong phương pháp giáo dục của ông, để từ đó áp dụng
vào thực tiễn giáo dục nước ta, góp phần giúp những người làm trong công tác
giáo dục có thêm tư liệu tham khảo để nâng cao phương pháp giáo dục của bản
thân đồng thời giúp cho người học vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp
giáo dục đó vào quá trình học tập một cách thiết thực và hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khổng Tử và tư tưởng Nho giáo đã từ lâu ảnh hưởng mạnh mẽ vào nước
ta, đã sớm được các nhà nghiên cứu để tâm. Đã có không ít đề tài nghiên cứu
xoay quanh vấn đề về Khổng Tử và các tư tưởng của ông. Một số đề tài như:
“Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử” năm 1999 của Võ Văn Nam, Đại
học sư phạm Hà Nội, “Phương pháp giáo dục của Khổng Tử và ảnh hưởng của
nó đối với việc dạy và học Nho giáo ở Việt Nam thời Lý Trần”của Đăng Xuân
Dương in trên tạp chí Dạy và học ngày nay, số 4, năm 2011, hay trong “Tư
tưởng tự học của Khổng Tử và biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tự học
cho sinh viên trường Đại học sư phạm Huế” năm 2009 của Nguyễn Thanh
Hùng, Đại học sư phạm Hà Nội…
Trong bài “Phương pháp dạy học của Khổng Tử”, do PTS Trịnh Xuân Vũ,
Đại học sư phạm - Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh viết, đăng trong số 2,
tạp chí Nghiên cứu giáo dục, tháng 2 năm 1998, đã rất đề cao phương pháp giáo
dục của Khổng Tử. Trong bài viết này, ông đã nêu ra 5 phương pháp và nội dung
của những phương pháp đó trong dạy học của Khổng Tử, đó là: phương pháp bàn
luận riêng theo nhu cầu và tư chất cá thể; phương pháp tạo điều kiện để trò tự điều
chỉnh hành vi và nhận thức của mình; phương pháp phát hiện vấn đề theo hướng
mô tả cấu trúc; phương pháp sử dụng tình huống nêu vấn đề và cá thể hóa tiếp nhận
và phương pháp tâm truyền. Tuy rất coi trọng phương pháp dạy học của Khổng Tử,
ông cũng khẳng định “những phương pháp đó đến nay vẫn còn nhiều giá trị tích
cực đối với nhà trường hiện đại” song ông chưa đưa ra ý nghĩa của phương pháp đó

đối với hiện nay như thế nào và phải vận dụng ra sao.
2
Còn theo Doãn Chính - tiến sĩ triết học, trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn thành phố Hồ Chi Minh trong bài “Quan điểm của Khổng Tử về
giáo dục và đào tạo con người” đăng trong số 3, tạp chí triết học năm 2000 thì
nêu ra ba phương pháp: một là, phương pháp gợi mở, đối thoại giữa thầy và trò,
giữa người dạy và người học nhằm phát huy tính năng động chủ quan và sự độc
lập sáng tạo của người học; hai là, phương pháp gắn học với hành, lời nói kết
hợp với việc làm, phản đối nói suông và học suông; ba là, phương pháp ôn cũ
biết mới thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng và học tập. Tuy nhiên, ông cũng
chưa nêu lên ý nghĩa của những phương pháp đó với giáo dục hiện tại ra sao và
tất nhiên cũng không đưa ra cách vận dụng chúng như thế nào.
Đề tài: “Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử”, 1999 - Luận văn
thạc sĩ Giáo dục học của tác giả Võ văn Nam đã khái quát được một cách có hệ
thống các tư tưởng giáo dục của Khổng Tử như tư tưởng “Hữu giáo vô luận”, tư
tưởng tu - tề - trị - bình, Khổng Tử dạy cách học, Khổng Tử với phương pháp
dạy học, Khổng Tử với mục tiêu xây dựng mẫu người quân tử, từ đó tác giả
muốn khẳng định được công lao của Khổng Tử.
Trong bài viết : “Phương pháp giáo dục của Khổng Tử và ảnh hưởng của
nó tới việc dạy Nho giáo ở Việt Nam thời Lý - Trần” của tác giả Đặng Xuân
Dương trên tạp chí số 4/ 2011, tác giả đã chỉ ra được 5 phương pháp giáo dục cơ
bản của Khổng Tử là: phương pháp nêu gương, phương pháp “gợi mở vấn đề”,
phương pháp ôn cũ biết mới, phương pháp học đi đôi với hành, phương pháp tùy
thuộc vào tư chất của học trò mà có phương pháp giáo dục khác nhau và tác giả
nêu lên sự ảnh hưởng của các phương pháp giáo dục của Khổng Tử tới việc dạy
Nho giáo ở Việt Nam thời Lý - Trần đặc biệt là phương pháp nêu gương mà tiêu
biểu là nhà giáo Chu Văn An.
Trên đây là một số những đề tài nghiên cứu về Khổng Tử và phương pháp
giáo dục của ông nhưng nhìn chung thường tập trung vào nghiên cứu những vấn
đề về đạo đức, con người, giáo dục…trong tư tưởng của Khổng Tử. Mà ít có đề

tài nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về phương pháp giáo dục của
Khổng Tử cũng như vận dụng chúng vào thực trạng giáo dục hiện nay thế nào,
3
nếu có thì cũng chỉ ở dạng bài viết ngắn trên tập chí khoa học, các báo…và
thường thì không đầy đủ hoặc chưa đem những phương pháp đó vận dụng vào
thực tế.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Phương pháp giáo dục của Khổng Tử và ý nghĩa của nó với sự nghiệp
giáo dục ở nước ta hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
a. Mục đích của đề tài
- Thông qua việc tìm hiểu những nội dung cơ bản trong phương pháp giáo
dục của Khổng Tử, chỉ ra được những yếu tố tích cực và hạn chế của nó, từ đó
vận dụng vào vào sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo của Việt Nam trong xu thế hội nhập.
- Giúp cho bản thân người nghiên cứu vận dụng được một cách linh hoạt,
sáng tạo các phương pháp giáo dục của Khổng Tử vào trong quá trình học tập
hiện nay cũng như công việc giảng dạy sau này.
- Góp phần kế thừa, bảo tồn những giá trị tư tưởng quý báu trong kho tàng
tri thức của nhân loại.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài đặt ra một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ các phương pháp giáo dục của Khổng Tử.
- Vận dụng các phương pháp giáo dục của Khổng Tử vào sự nghiệp giáo
dục ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, lôgic - lịch sử và các phương pháp khác đó là: phương
pháp thống kê, phân loại, phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích…
6. Cái mới của đề tài

Vận dụng phương pháp giáo dục của Khổng Tử vào sự nghiệp giáo dục ở
nước ta hiện nay.
4
7. Ý nghĩa của đề tài
- Khái quát các phương pháp giáo dục của Khổng Tử, chỉ ra các điểm tích
cực của các phương pháp đó từ đó giúp người dạy và người học vận dụng một
cách linh hoạt, sáng tạo vào quá trình dạy học.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài gồm 2 chương, 7 tiết. Chương 1. Phương pháp giáo dục của Khổng
Tử; Chương 2. Vận dụng phương pháp giáo dục của Khổng Tử vào sự nghiệp
giáo dục ở nước ta hiện nay.
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
1.1 Khổng Tử - cuộc đời và sự nghiệp
1.1.1 Bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời Khổng Tử
Miền Bắc Trung Quốc cổ đại có hai dòng sông nhỏ: sông Thù và sông Tứ
chảy qua khúc dụ. Đó là nơi chôn rau cắt rốn của Y Doãn; nơi có lăng của Thiếu
Hạo, có miếu của Chu Công; nơi Khổng Tử mở mắt chào đời, sinh sống thời thơ
ấu, giảng dạy lúc trưởng thành cho đến lúc tuổi già, sức yếu, yên nghỉ khi đã lìa
đời. Bởi vậy nên nói đến dòng sông Thù, sông Tứ tức là ám chỉ Khổng học,
Khổng môn.
Nhìn bản đồ địa lý Trung Hoa, ta thấy có hai phần rõ rệt:
Một là phần cao nguyên rừng núi, nơi xưng hùng, xưng bá của các nước
Tấn, Tần, Tề, Sở.
Hai là phần đồng bằng, chỉ có những nước nhỏ: Vệ, Trần, Tống, Trịnh, Lỗ
- quê hương của Khổng Tử…Nhưng nơi đây lại quy tụ nền văn minh tinh thần
Trung Hoa.
Nhìn toàn bản đồ địa lý Trung Hoa cổ đại, ta thấy thực là “giang sơn riêng

chiếm một cảnh trời”. Phía Đông là biển cả. Phía Bắc là Hoàng Hà chín khúc
cuồn cuộn chảy, dãy Thái Hằng tuyết phủ mây che. Xa hơn là sa mạc Gobi với
cát phủ quanh năm. Phía Tây là Tần Lĩnh và Côn Lôn, hai dãy núi điệp trùng
hiểm trở. Phía Nam là dãy Hi - mã - lạp sơn hùng vĩ như bức trường thành ngăn
cách Trung Hoa với các nước miền Nam như Ấn Độ, Tây Tạng…Vì địa hình, vị
trí cách trở Trung Quốc cổ đại rất khó có thể liên lạc, giao lưu với các nước khác
trong và ngoài khu vực.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự phát sinh và phát triển
của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với hoàn cảnh đất nước, gắn
với quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế, xã hội cùng sự phát triển của khoa
học Trung Quốc đương thời.
Về chính trị, cùng với Ấn Độ, Trung Quốc là trung tâm văn hóa và triết
học cổ xưa, rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh phương Đông - chiếc nôi
6
lớn của nền văn minh nhân loại. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự
phát sinh và phát triển của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với quá
trình biến đổi của điều kiện kinh tế, xã hội cùng sự phát triển của khoa học
Trung Quốc đương thời.
Nho giáo ra đời vào thời Xuân thu - Chiến quốc, là thời kỳ chính trị có
nhiều biến động. Suốt thời Xuân thu, mệnh lệnh của “thiên tử” nhà Chu không
còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi. Nạn
chư hầu chiếm ngôi “thiên tử’’ đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, cha giết
con, anh hại em, vợ hại chồng thường xuyên xảy ra. Các nước chư hầu đua nhau
động binh gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau hết sức khốc liệt. Trong khoảng
295 năm thời Xuân thu thì đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh. Những nước chư hầu
đang dần lớn mạnh và tranh nhau làm bá thiên hạ. Trong số những nước hùng
mạnh nhất thời bấy giờ chỉ có năm nước gọi là cục diện “Ngũ bá”, gồm Tề, Tấn,
Tần, Sở, Tống. Cuối Xuân thu, có thêm Ngô và nước Việt. Do chiến tranh xảy
ra liên miên, dân đã nghèo khổ lại càng thêm nghèo khổ, nhiều nơi “thây người
chết đầy đường”.

Về kinh tế, trong thời kỳ Xuân thu, việc sử dụng công cụ sản xuất bằng sắt
và dùng bò kéo cày đã khá phổ biến, tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất hoang,
hoàn thiện kỹ thuật canh tác ruộng đất và kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền”, góp phần
nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Thủ công nghiệp đã có bước phát
triển mới, đặc biệt ở sự phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra
một loạt ngành nghề mới bên cạnh ngành nghề cổ truyền, như nghề luyện kim,
nghề đúc và rèn sắt, nghề mộc, nghề xây, nghề thuộc da, nghề nhuộm, nghề làm đồ
gốm. Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp
cũng ngày càng phát triển hơn.
Đến thời Chiến quốc kinh tế đã phá triển mạnh. Nghề luyện sắt hưng
thịnh, đồ dùng bằng sắt phổ biến rộng rãi, đặc biệt là các công cụ như lưỡi cày,
quốc, rìu, dao… Đô thành các nước và một số thành ấp lập bên những đường
giao thông trọng yếu trở thành những trấn đô lớn. Thủy lợi và kỹ thuật canh tác
trong nông nghiệp vì thế càng phát triển. Các công trình thủy lợi được xây dựng
7
khắp nơi từ lưu vực Hoàng Hà đến Trường Giang, từ bờ biển phía Đông đến
vùng Tứ Xuyên. Kéo theo đó là sự phát triển của các nghề thủ công như luyện
kim, đồ gốm, nghề chạm bạc, nghề dệt lụa. Tiền tệ bằng kim loại thịnh hành.
Về văn hóa, ngoài những thể chế, lễ nghi, tế tự, thời Chu đã cải chữ viết,
dùng thẻ tre tiện hơn mai rùa và xương thú để nghi những điều muốn nhớ vừa dễ
khắc, vừa dễ sắp đặt (khoét lỗ trên thẻ, dùng dây da xỏ thành từng bó - từng
quyển); sau họ biết dùng cây nhọn nhúng vào sơn viết lên thẻ tre hoặc lụa, dễ và
mau hơn khắc nhiều. Nhờ vậy mà Nhà chu và chư hầu nào cũng có quan chép sử
của triều đình.
Về xã hội, ngay thời Xuân thu, trên cơ sở phát triển của sức sản xuất xã
hội, đất do nông dân vỡ hoang trở thành ruộng tư ngày càng tăng thêm. Bọn quý
tộc có quyền thế chiếm đoạt ruộng đất công ngày càng nhiều. Chế độ sở hữu tư
nhân về ruộng đất hình thành. Đến thời Chiến quốc, do chiến tranh giữa các
nước liên tục xảy ra trên quy mô lớn đã làm cho đời sống nhân dân ngày càng
khổ hơn, trật tự xã hội đảo lộn, long dân ly tán. Mạnh tử đã viết: “Đánh nhau

tranh giành, thì giết người thây chết đầy thành; đánh nhau giành đất, thì giết
người thây chết đầy đồng”. (“Mạnh Tử”, Ly Lâu thượng, 14). Do có chế độ mua
bán ruộng đất tự do nên bọn quý tộc, thương nhân giàu có đã chiếm được nhiều
ruộng đất của nông dân, trở thành những địa chủ lớn, chúng chuyển sang hình
thức thuê mướn công nhân và cho phát canh thu tô. Quan hệ sản xuất phong
kiến nông nô dần dần chiếm ưu trong đời sống xã hội.
Chính trong thời đại lịch sử biến chuyển sôi động đó đặt ra một loạt những
vấn đề xã hội và triết học mới, buộc các nhà tư tưởng phải quan tâm lý giải, làm
nảy sinh một loạt các trường phái triết học đa dạng trong đó có Nho giáo.
1.1.2 Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử
1.1.2.1 Cuộc đời của Khổng Tử
Cuộc đời của Khổng Tử được chép một cách kỹ lưỡng trong bộ Sử ký của
Tư Mã Thiên, từ đó giúp chúng ta có thể có một cái nhìn đầy đủ, chi tiết, rõ ràng
về nhà giáo dục lỗi lạc của nhân loại.
8
Khổng Tử (551 - 479 TCN) họ Khổng, tên Khâu, tự Trọng Ni, sinh ngày 27
tháng 8 âm lịch năm Canh Tuất, đời vua Châu Linh Vương năm thứ 21 nhà Chu,
tương ứng với đời vua Lỗ Tương Công năm thứ 22, tại làng Xương Bình, huyện
Khúc Phụ, nước Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông nước Trung Quốc).
Theo truyền thuyết, thủy tổ của ông là Vi Tử thấy anh là vua Trụ tàn bạo,
hoang dâm nên can ngăn nhưng không được, vì vậy ông đã bỏ nước mà đi để
bảo tồn dòng họ, nên Võ Vương sau khi diệt Trụ rồi phong Vi Tử làm Tống
Hầu. Không rõ tới đời thứ mấy (10 hay 12), họ Khổng phải trốn sang nước Lỗ,
từ đó suy ra, Khổng Tử là đời thứ 15.
Cha Khổng Tử là Thúc Lương Ngột làm một chức quan nhỏ ở nước Lỗ,
ông có phẩm nhất của võ quan và là người dũng cảm. Tinh thần thượng võ và
chiến công của Lương Thúc Ngột đã được ghi trong Tả truyện, Tuyên công năm
thứ 10 (563 TCN). Võ quan Thúc Lương Ngột, có sách chép là người được
mang chức quan đại phu nhưng có sách lại nghi ngờ.
Khúc Lương Ngột giã từ binh khí khoảng tuổi 63. Cuộc sống gia đình

theo tiêu chuẩn bình giá lúc bấy giờ cần phải làm nhiều việc. Ông mơ ước có
người kế thừa, tiếp tục giương cao vinh quang của họ Khổng nhưng bà vợ trước
của ông sinh toàn con gái, tất cả là chín người. Vì vậy, ông phải đi lấy thiếp.
Người thiếp này sinh cho ông một người con trai tên là Mạnh Bì nhưng lại bị tàn
tật. Cách đặt tên Mạnh (con đầu) như thế đã thể hiện được quyết tâm sinh con
nữa để nối dõi tông đường. Ông mơ ước có một người con trai nối dõi khỏe
mạnh. Tất nhiên với địa vị võ quan như ông, ông có thể lấy bất kì ai. Song ông
không vội. Ông để mắt vào một gia đình quyền quý họ Nhan có ba cô con gái
đến tuổi lấy chồng ở đất Khúc Phụ. Người ta đồn rằng hai cô đầu đã từ chối,
song hỏi đến cô thứ ba thì lập tức cô đồng ý ngay. Cuộc hôn nhân này được Sử
ký gọi là “dã hợp”, chữ này nên được hiểu là cuộc hôn nhân của một người quá
già với một người quá trẻ, không hợp với chuẩn mực thông thường. Trên thực
tế, cuộc hôn nhân của Thúc Lương Ngột và Nhan thị là cuộc hôn nhân chính
thức, có cưới xin.
Thúc Lương Ngột muốn con khỏe mạnh, hai người đã đi cầu tự ở núi Ni
Khâu. Gò cầu tự nằm ở phía đông nam, cách Khúc Phụ 30 km. Lòng thành của họ
9
đã cảm động trời đất. Ngày 27 tháng 8 năm Tương Công thứ 22 (tức năm 551
TCN), Khổng Tử đã cất tiếng khóc chào đời.
Khổng Tử sinh trưởng theo lẽ tự nhiên như mọi người, nhưng vì Khổng
Tử là một bậc giáo tổ, hậu thế mới đặt ra những câu chuyện huyền bí nói rằng,
trước khi sinh ra Khổng Tử, bà Nhan thị thấy con kỳ lân nhả tờ ngọc thư có chữ
đề rằng: “Thủy tinh chi tử, kế suy Chu vi tố vương: con của thủy tinh, nối nhà
Chu đã suy mà làm vua không ngôi”. Bà Nhan thị thấy vậy, lấy dây lụa buộc
vào sừng con kỳ lân. Được mấy ngày thì con kỳ lân đi mất. Đến khi sinh Khổng
Tử có hai con rồng xuống quấn chung quanh nhà và có năm ông lão là năm vị
sao trên trời xuống đứng dưới sân. Ở trong phòng bà Nhan thị nghe trên trời có
âm nhạc và có tiếng nói rằng: “Thiên cảm sinh thánh: Trời cảm lòng cầu nguyện
cho sinh ra con thánh”. Những chuyện ấy tuy là chuyện người đời sau bịa đặt ra,
nhưng cũng là cái bằng chứng rõ là người đời ưa sự quái lạ, nhất là những người

đã làm nên công nghiệp lớn, hoặc đã sáng lập ra tông giáo nào, đều có chuyện lạ
để làm cho cái phẩm giá khác người thường. Tuy nhiên, khi Khổng Tử mới
được 2 năm 3 tháng thì cha đã qua đời.
Cha mất, bao nhiêu khó khăn dồn lên vai người mẹ trẻ. Bà quả phụ họ
Nhan thậm chí không được ôm vào quan tài của chồng và bà cho đến lúc chết
cũng không biết mộ chồng ở chỗ nào. Không khí gia đình không cho phép có
những điều kiện tối thiểu để chăm sóc đứa bé mới hơn hai năm tuổi. Trong hoàn
cảnh khó khăn như vậy, Nhan thị đã bồng bế con trở về Khúc Phụ. Nhờ vào sự
tần tảo, chăm làm, nhẫn lại của người mẹ mà hai mẹ con đã vượt qua những khó
khăn tưởng chừng không vượt qua nổi. Chính trong cuộc sống khó khăn nhưng
đầy tinh thần vươn lên ấy, Khổng Tử đã tiếp thu được lối giáo dục tiến bộ của
mẹ mình.
Những trò mà ngày nhỏ Khổng Tử hay chơi là “bày các khay để cúng và
chơi trò tế lễ” như Tư Mã Thiên đã ghi trong Sử ký. Những trò chơi này vừa
thích ứng với tính hiếu động của trẻ vừa có tác dụng giáo dục, hướng dẫn các
hành vi cho trẻ.
Năm 15 tuổi, Khổng Tử dốc chí vào học. Học để có kiến thức, có tư cách,
làm vốn liếng cho cuộc đời khát khao vi chính của mình. Năm 17 tuổi, mẹ
10
Khổng Tử qua đời (năm 30 tuổi). Khổng Tử cần mai tang mẹ bên cha. Nhưng
nơi chôn cha ở đâu, thì không ai chỉ cho. Khổng Tử phải chôn tạm mẹ ở con
đường Ngũ Phụ. Sau đó, mẹ của Vãn Phụ người đất Trâu nói cho Khổng Tử nơi
mộ cha, cho nên về sau Khổng Tử mới hợp táng cả cha mẹ ở núi Phòng Sơn
cách Khúc Phụ 9 km. Năm 19 tuổi, Khổng Tử thành gia lập thất, rồi ra nhận
chức Uỷ lại coi sự gạt thóc ở kho, sau lại làm Tư chức lại coi việc nuôi bò dê để
dùng về việc cúng tế. Tuy Khổng Tử còn trẻ tuổi, nhưng đã nổi tiếng là người
giỏi, cho nên quan nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai con là Hà Kị và Nam Cung
Quát theo Khổng Tử học lễ. Năm sau vợ ông sinh con trai đặt tên là Lý, tự là Bá
Ngư. Sau này vợ ông còn sinh một người con gái nữa và gả cho Công Dã Tràng
là một môn sinh.

Khổng Tử là người học theo Nho thuật cho nên Khổng Tử rất chú ý về
mặt lễ nghi và những phép tắc của những đế vương đời trước. Năm 28, 29 tuổi
Khổng Tử đi học ở Lạc Ấp là chỗ kinh sư nhà Chu nhưng vì đường xa, tiền lộ
phí mất nhiều nên không đi được. Sau học trò Ngài là Nam Cung Quát đem việc
ấy bẩm với Lỗ hầu, là vua nước Lỗ. Lỗ hầu cho một cỗ xe hai con ngựa và
những người hầu hạ đưa người đi.
Ở Lạc Ấp có nhà Minh Đường của Chu Công lập ra để chứa những luật lệ
và những bảo vật cùng các hình tượng của các thánh hiền đời trước. Khổng Tử
đến đó khảo cứu mọi việc và đi xem những chế độ ở nơi miếu đường cùng
những nơi tế Giao, tế Xã. Và ở đâu có việc gì quan hệ đến sự tế lễ là Ngài cũng
đi xem xét rất tường tận. Khổng Tử đi hỏi lễ Lão Tử, hỏi nhạc Trành Hoằng.
Sách sử ký của Tư Mã Thiên chép rằng: “Khổng Tử đến hỏi Lão Tử về lễ, Lão
Tử đáp rằng: người quân tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời thì đội nón lá mà
đi chân. Ta nghe: người buôn bán giỏi, khéo chứa của, coi như người không có
gì; người quân tử có đức tốt, coi diện mạo như sắc dục và dâm chí đi; những cái
ấy đều vô ích cho ông”. Khổng Tử về bảo các đệ tử rằng: “Chim thì ta biết nó
bay được, cá thì ta biết nó lội được, giống thú thì ta biết nó chạy được. Chạy,
bay, lội, ta có thể chăng lưới mà bắt được, đến như con rồng hì ta không biết nó
11
cưỡi gió, cưỡi mây bay lên trời lúc nào. Hôm nay ta thấy Lão Tử như rồng vậy:
Ngô kim nhật kiến Lão Tử, kỳ do long tà.
Khổng Tử ở Lạc Ấp được ít lâu rồi trở về nước Lỗ. Từ đó sự học của
Khổng Tử rộng hơn trước và số lượng học trò theo học Khổng Tử ngày càng
nhiều. Nhưng vua nước Lỗ vẫn không dùng Khổng Tử. Được mấy năm trong
nước có loạn, Khổng Tử bỏ sang nước Tề. Vua nước Tề là Tề hầu đón Khổng
Tử đến hỏi việc chính trị. Khổng Tử nói chuyện vừa ý Tề hầu. Tề hầu định lấy
đất Ni Khê mà phong cho Khổng Tử, nhưng quan đại phu nước Tề là Yến Anh
không thuận, can ngăn Tề hầu không cho. Khổng Tử thấy vậy lại bỏ nước Tề trở
về nước Lỗ. Lúc này Khổng Tử đã 35, 36 tuổi, Khổng Tử về nước nhà dạy học
trò và suy xét cho tường tận “chữ” của thánh hiền đời trước.

1.1.2.2. Sự nghiệp của Khổng Tử
Theo sách Khuyết lý, Khổng Tử là người cao lớn, có tướng ngũ lộ là: mắt
lồi, lỗ mũi rộng, lộ hầu, tai bạt, hở răng. Mặt to và có những vạch như quả dưa
chín. Bàn tay hổ, ngực rùa, râu rậm, mồm rộng, miệng nói tươi, đi nhanh.
Khổng Tử là người ôn hòa, nghiêm trang và kính cẩn. Sách Luận ngữ
chép rằng: “Tử ôn nhi lệ, uy nhi bất mãnh, cung nhi an: Phu tử hòa mà nghiêm,
uy mà không dữ, kính cẩn mà an vui tự nhiên” (Thuật nhi, VII). Khổng Tử là
người rất thông minh, luôn luôn ham học. Bất cứ việc gì, Ngài cũng để ý xem
xét rất kỹ lưỡng để biết cho cùng tận mới thôi. Tính Khổng Tử ôn hòa, nghiêm
trang, khiêm tốn, làm việc gì cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin
vào Thiên mệnh.
Năm 15 tuổi, Khổng Tử bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình. Năm 20
tuổi, Khổng Tử làm chức quan lại cho nhà họ Quý, một quý tộc có quyền hành
nhất ở nước Lỗ thời đó. Mới đầu ông coi việt gạt thóc, sau coi giữ cừu và giữ bò
để dùng trong những tang lễ, nổi tiếng là siêng năng, liêm khiết. Năm 30 tuổi tức
là năm 20 đời Lỗ Chiêu Công (522 TCN). Năm ấy, vua Cảnh Công nước Tề
cùng tướng quốc Án Anh sang nước Lỗ. Khổng Tử đã có cơ hội gặp vua Cảnh
Công nước Tề để nói chuyện về chính sự. Qua cuộc nói chuyện này, Khổng Tử
12
có cơ hội thử nghiệm những điều mình đang nung nấu về con đường trị nước an
dân và khả năng hiện thực hóa nó. Những nung nấu đó thể được tin dùng, thực
hiện khi được một vị vua sáng chú ý tới. Tuy nhiên, vua Tề cũng không thu
nhận Khổng Tử vào bộ máy của người Tề. Năm 35 tuổi tức năm 25 đời vua Lỗ
Chiêu Công (517 TCN) thì trong nước Lỗ có loạn lớn. Sự việc bắt đầu bằng việc
Quý Bình Tử vì việc chọi gà mà mắc lỗi với Lỗ Chiêu Công. Lỗ Chiêu Công
đem binh đánh Quý Bình Tử. Quý Bình Tử cùng họ Mạnh và Thúc Tôn hợp lực
đánh Lỗ Chiêu Công. Lỗ Chiêu Công thua chạy sang Tề. Vua Tề cho Lỗ Chiêu
Công ở ấp Can Hầu.
Sau khi sự kiện này xảy ra, Khổng Tử cũng sang Tề và làm gia hầu cho
quan đại phu nước Tề là Cao Chiêu Tử. Ông hy vọng sẽ có cơ hội để yết kiến

vua Tề Cảnh Công và cuối cùng Khổng Tử đã gặp được vua Tề để nói chuyện
liên quan đến vấn đề Vi chính.
Khổng Tử sống hơn hai năm ở nước Tề, từ mùa đông năm thứ 25 đến
mùa đông năm thứ 27 đời Lỗ Chiêu Công (517 đến 515 TCN), rồi lại trở về
nước Lỗ.
Năm 37 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ. Từ đây bắt đầu một giai đoạn
trong cuộc đời của Khổng Tử mà giai đoạn này đến tận năm 501 TCN, năm
Khổng Tử 51 tuổi vua nước Lỗ cho ông làm quan Trung đô tể tức như quan kinh
thành phủ doãn ngày nay. Cách một năm thì cải chức làm quan Đại tư khấu, tự
hồ bây giờ là quan Hình bộ Thượng thư. Khổng Tử đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ
nghèo khổ, lập ra phép tắc, định rõ việc tống tang người chết. Lớn nhỏ phân biệt
trai gái, không lẫn lộn, người đi ngoài đường thấy của rơi không nhặt, kẻ gian
phi không có, hình pháp đặt ra không hề dùng đến.
Khổng Tử làm Đại Tư Khấu được bốn năm thì vua nước Lỗ cất nhắc lên
Nhiếp Tướng Sự, nghĩa là cho ông quyền nhiếp việc chính sự trong nước.
Khổng Tử cầm quyền được bảy ngày thì tâu với vua Lỗ xin giết gian thần là
Thiếu Chính Mão để chỉnh đốn quốc sách.
Khổng Tử cùng các học trò đi qua các nước: Vệ, Khuông, Trần, Tống,
Thái, Sở, để mong thuyết phục các vua chư Hầu chịu đem cái Đạo của Khổng
13
Tử ra ứng dụng để đem lại thái bình thịnh trị cho dân chúng. Nhưng cái Đạo của
ông là Vương Đạo nên đi ngược ý đồ Bá Đạo của các vua chư Hầu và quyền lợi
của các quan Đại phu nên các vua chư Hầu đều không dám dùng ông.
Rốt cuộc, sau 14 năm đi chu du các nước không thành công, Khổng Tử
phải trở về nước Lỗ, có quan Đại Phu Quý Khang Tử sai Công Hoa ra đón
Khổng Tử. Phu nhân của Khổng Tử là bà Thượng Quan đã mất trước đó một
năm, nhằm năm Lỗ Ai Công thứ 10.
Khi trở về nước Lỗ, Khổng Tử đã 68 tuổi. Ông trở lại quê nhà để mở
mang việc dạy học và soạn sách.Tổng số môn đệ của Khổng Tử có lúc lên tới
3000 người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi,

nên gọi là Thất thập nhị Hiền. Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh
Hiền đời trước như: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch.
Khổng Tử ghi chú các lời nói của Thánh Hiền đời trước, xếp đặt lại cho
có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với Kinh Dịch, ông chú giải rất
kỹ. Sau đó, Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu, chép những việc của nước Lỗ và
của nhà Chu liên hệ với các nước chư Hầu từ đời Lỗ Ẩn Công nguyên niên (721
trước Tây lịch) đến đời Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước Tây lịch), tổng cộng là
242 năm. Khổng Tử là bậc Chí Nhân Chí Thánh, nhưng ông vẫn khiêm tốn
không dám nhận mình là Thánh nhân. Đối với các môn đệ, Khổng Tử rất dễ dãi.
Hễ ai theo đúng lễ đến xin học thì ông không bao giờ từ chối. Khổng Tử thu
nhận học trò, không kể giàu nghèo, con quan hay con dân. Khổng Tử mở ra một
nền giáo dục bình dân đại chúng, đào tạo được một lớp người trí thức mới, tài
giỏi và có đức hạnh trong giới bình dân. Sự giáo hóa của Khổng Tử chủ yếu là
làm sao cho sáng tỏ cái đức sáng của người, chớ không gom vào trong sự truyền
thụ kiến thức. Đây là một phương pháp giáo dục rất hay để khai mở cái Tâm của
con người vậy.
Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, Đức Khổng Tử
tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi. Mộ của ông ở bên bờ sông Tứ Thủy, phía Bắc thành
nước Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Ba ngàn
đồ đệ của Khổng Tử đều thương tiếc và than khóc, nguyện để tang Thầy 3 năm.
14
Có hơn 100 môn đệ làm nhà chung quanh phần mộ để lo phụng tự trong 3 năm,
riêng Tử Cống ở đó hết 6 năm mới thôi. Chu vi đất quanh mộ của Khổng Tử rộng
chừng 100 mẫu mà không hề có cây gai và cỏ may mọc. Học trò bảo nhau đi tìm
các thứ hoa thơm cỏ lạ ở các nơi đem về trồng khắp chung quanh.
1.2 Nội dung cơ bản trong phương pháp giáo dục của Khổng Tử
1.2.1 Phương pháp và phương pháp giáo dục
Trước hết ta cần nắm được phương pháp là gì trước khi đi vào phương
giáo dục của Khổng Tử.
Thuật ngữ phương pháp có nguồn gốc từ tiếng Hi lạp là “Methodos”, có

nghĩa là con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích. Trong Từ điển
triết học, NXB Tiến bộ, Mát-xco-va năm 1975 có trình bày quan điểm của
Hêghen, nhìn dưới góc độ triết học “phương pháp là ý thức về hình thức của sự tự
vận động bên trong của nội dung”. Định nghĩa này có chứa nội hàm sâu sắc.
Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất là cách thức đạt tới mục tiêu, là hoạt
động xếp theo thứ tự nhất định. Phương pháp gắn bó chặt chẽ với lý luận, có
những phương pháp riêng cho từng lĩnh vực khoa học và có phương pháp chung.
Phương pháp giáo dục là thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá trình
giáo dục, có quan hệ mật thiết với các thành tố khác của quá trình này; đặc biệt
là với mục đích, nội dung, nhà giáo dục, người được giáo dục, phương tiện giáo
dục và với các điều kiện thực hiện quá trình này. Trong mối quan hệ với mục
đích, phương pháp trả lời câu hỏi làm thế nào, bằng cách nào để đạt được mục
đề ra. Nghiên cứu phương pháp giáo dục nhằm tìm ra quy luật vận động của đối
tượng để tác động và điều khiển chúng đạt được mục đích. Phương pháp chịu sự
tác động của nội dung và là hình thức của sự vận động bên trong nội dung, mỗi
nội dung giáo dục có những phương pháp tương ứng phù hợp với nó.
Phương pháp giáo dục phản ánh cách thức tổ chức quá trình giáo dục, các
loại hình hoạt động bên phong phú đa dạng của giáo viên và học sinh nhằm
chuyển hóa những yêu cầu, chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hóa, thẩm mĩ do
xã hội quy định thành phẩm chất, nhân cách, hành vi, thói quen và nếp sống văn
minh của người được giáo dục. Tóm lại, phương pháp giáo dục được xem là cách
15
thức tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó nhà
giáo dục giữ vai trò chủ đạo nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra.
Phương pháp giáo dục được tiến hành trên cơ sở hoạt động phối hợp giữa
nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó những tác động của nhà giáo dục
giữ vai trò chủ đạo, còn người được giáo dục hoạt động tích cực, tự giác, tự giáo
dục, tự vận động và phát triển nhằm hướng tới mục tiêu nhân cách đã định;
phương pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với các biện pháp giáo dục, cả
biện pháp và phương pháp đều được quy định bởi các hoạt động phối hợp giữa

nhà giáo dục và người được giáo dục. Các hoạt động đó thống nhất với nhau
nhằm thực hiện mục đích chung là hình thành những phẩm chất nhân cách của
người được giáo dục; phương pháp giáo dục có quan hệ mật thiết với phương
tiện giáo dục. Nhờ có phương tiện giáo dục mà đảm bảo được sự tác động qua
lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, đảm bảo cho hoạt động giáo dục
đạt được hiệu quả cao.
1.2.2 Những phương pháp giáo dục của Khổng Tử
1.2.2.1 Phương pháp đối thoại gợi mở
Đây là phương pháp nhằm phát huy tính thông minh sáng tạo, tìm tòi và
ham muốn với tri thức của người học. Người thầy sẽ đóng vai trò là “người hộ
sinh” để giúp học trò “sản ý”.
Khổng Tử dạy rằng cái gì cũng để cho học trò phải cố sức suy nghĩ tìm tòi
lấy, khi nào xem chừng đã gần hiểu được, nhưng còn chưa suốt được mọi lẽ,
hoặc chưa giải diễn ra được cho rõ ràng, thì thầy mới chỉ bảo cho. Khổng Tử
nói: “Bất viết: như chi hà, như chi hà giả, ngô mạt như chi hà dã dĩ hỹ” nghĩa là
“người nào không nói rằng: làm thế nào, làm thế nào, thì ta cũng chẳng làm thế
nào được” (Luận ngữ: Vệ Linh công, XV). Ai mà không tự mình cố sức suy xét
cho kỹ các lẽ thì dẫu có dạy cũng không có ích gì. Khổng Tử cho sự học là sự
mình phải gắng sức luôn luôn. Không gắng sức là không có sự học. Vậy nên,
Khổng Tử dạy người ta thường chỉ gợi lên một mối rồi để người ta tự mình phải
suy nghĩ ra mà hiểu lấy. Ông nói: “Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất phát. Cử nhất
ngung bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã - không tức giận vì muốn biết, thì
16
không truyền mở cho, không tức giận vì nói không rõ ra được, thì không bày vẽ
cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia, thì
không dạy nữa” (Luận ngữ; Thuật nhi,VII).
Trong quá trình dạy học Khổng Tử đòi hỏi học trò phải cố gắng suy nghĩ.
Theo ông việc dụng công suy nghĩ sẽ làm nổi bật ra những thắc mắc, những câu
hỏi để giải quyết vấn đề. Theo ông cần học cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cẩn
thận, phân biệt cho sáng rõ, trắng đen. Để tạo điều kiện cho người học tự suy

nghĩ trong dạy học ông chỉ gợi mở cho học trò tự giải đáp những vấn đề còn lại.
Phương pháp đối thoại gợi mở là một trong những phương pháp chủ yếu
và vô cùng quan trọng của Khổng Tử trong việc giảng dạy đạo lý cho học trò.
Đây là phương pháp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và ý thức, ý chí,
quyết tâm học tập của con người. Trong đó theo Khổng Tử người thầy chỉ là
người đóng vai trò người hộ sinh, nêu ra vấn đề và nhân tố quan trọng chính là
người học, từ vấn đề mà thầy nêu ra thì cần phải tự sản ý đưa ra những ý kiến
của mình. Khổng Tử nói: “Kẻ nào không biết tức vì không hiểu được thì ta chỉ
cho mà biết được. Kẻ nào hậm hực vì không tỏ được ý kiến của mình thì ta khai
phá cho mà nói ra được. Ta vén cho một góc mà không tự suy nghĩ tìm ra ba góc
kia, thì ta không dạy cho nữa” (Luận ngữ - Vi chính). Đó là lời đối thoại trực
tiếp của Khổng Tử đối với học trò của ông. Bởi theo ông người thầy chỉ đóng
vai trò là người định hướng, hướng dẫn, khơi niềm ham học, kích thích tinh thần
cũng như sự cố gắng, nghị lực quyết tâm của người học. Khi thầy đưa ra một
vấn đề thì chỉ có ý nghĩa định hướng, chỉ đường còn người học phải là người
trực tiếp giải quyết những vấn đề đó, nhận định về vấn đề đó. Cũng như khi đối
thoại với học trò của mình Khổng Tử nêu ra một mệnh đề đó là khi ta vén cho
một góc hay một vấn đề nào đó thì người học phải bằng năng lực cá nhân của
mình để chỉ ra ba góc còn lại như vậy mới là người biết và mới xứng đáng là
học trò của ông. Còn nếu như không chỉ ra được ba góc còn lại thì Khổng Tử sẽ
không dạy cho nữa. Phương pháp đó yêu cầu ở người học rất cao đó là phải
không ngừng tìm hiểu, phấn đấu, cóp nhặt kiến thức làm hành trang trong cuộc
sống. Bởi trong quá trình đối thoại với nhau cần phải có tri thức, có vốn hiểu
biết sâu rộng để có thể vấn đáp và trả lời những câu hỏi của thầy đưa ra.
17
Phương pháp đối thoại được Khổng Tử sử dụng rất nhiều trong giao tiếp
ứng xử cũng như trong việc dạy dỗ khuyên bảo học trò. Trong cuộc đối thoại
với Tử Lộ, Khổng Tử xoay quanh một vấn đề đó là việc học có đoạn viết: “Cây
tre mọc ở Nam Sơn không nhờ vào sức người mà tự nó vẫn thẳng chặt xuống,
vót thành tên khi bắn vẫn có thể xuyên qua áo giáp làm bằng da tê giác từ đó suy

ra hà tất phải học?. Khổng Tử trả lời: “Nếu như vót thêm cái đuôi tên, cắm thêm
lông vũ vào, rồi lắp thêm mũi tên bằng kim loại rồi mài cho thật sắc thì có phải
là tên cắm càng sâu không”. Đó là câu chuyện nói về cuộc đối thoại giữa Khổng
Tử và Tử Lộ, câu chuyện nói lên ý nghĩa to lớn của việc học. Bởi học và không
học có ý nghĩa khác nhau hoàn toàn. Tử Lộ vốn là người hữu dũng, ngông
cuồng và không chịu khó học tập. Nhưng qua cuộc đối thoại này và qua cách trả
lời khôn khéo, tài tình của Khổng Tử thì Tử Lộ đã thấy tầm quan trọng và ý
nghĩa của việc học. Tử Lộ đã thật sự khâm phục và nhận sự giáo huấn của thầy
Khổng Tử, cuộc đối thoại trên là sự tranh luận, có phản bác với những lý lẽ, dẫn
chứng cụ thể, sinh động. Khổng Tử với học vấn uyên thâm, bác học của mình đã
làm cho Tử Lộ phải khâm phục và cúi mình nghe theo. Vốn Tử Lộ là người
ngang tàn, hống hách, không có chí hướng chỉ cốt dựa vào sức mạnh bản thân
nhưng sức mạnh đó không thể đấu lại được cái chí của thầy Khổng Tử. Đối với
người có học chỉ thông qua vài câu nói của cuộc đối thoại Khổng Tử đã mở ra
cho Tử Lộ cả một chân trời mới, thế giới mới khác hẳn với suy nghĩ tầm thường
của Tử Lộ. Nó như một niềm động viên, khích lệ, cổ vũ Tử Lộ cố gắng, phấn
đấu và qua đó cũng thể hiện phương pháp của Khổng Tử bằng tính chất đối
thoại, khuyên giải, dẫn dắt khéo léo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Từ đó,
không phụ lại công lao to lớn của thầy Trọng Ni, Tử Lộ đã dũng cảm sửa chữa
sai lầm, khổ công rèn luyện và trở thành một môn đệ nổi tiếng của Khổng Tử.
Hay trong quá trình giảng dạy cho học trò đã có rất nhiều cuộc tranh luận,
đối đáp đã được diễn ra giữa Khổng Tử và học trò của mình. Trong đó có lần Tử
Cống hỏi Khổng Tử: “Có câu nói nào suốt đời làm theo được hay không?”. Khổng
Tử bảo: “Đấy có phải là khoan thú chăng. Điều mà mình không muốn làm thì đừng
gán ép cho người khác” (Luận ngữ - Vệ Linh Công). Câu trả lời của Khổng Tử như
18
là sự gợi mở về điều mà Tử Cống đang băn khoăn về chí hướng đối nhân xử thế.
Khổng Tử không diễn giải dài dòng việc mà con người cần phải làm, phải phấn
đấu. Từ câu trả lời của Khổng Tử đã mở ra cả một chân lý của cuộc đời đó là hãy
sống tốt với lòng khoan dung, độ lượng, tha thứ thì đó đã là lẽ sống suốt đời để ta

phấn đấu rồi. Điều gì mà mình không muốn làm, không muốn thực hiện thì đừng
mong áp đặt, gán ghép cho người khác. Bởi đó là sự áp đặt, miễn cưỡng mà hãy
giúp đỡ mọi người với nguyên tắc: Mình muốn thành đạt thì cũng phải giúp người
khác thành đạt. Đó là chân lý sống của cuộc đời, hãy làm theo như vậy. Cuộc đối
thoại tuy chỉ ngắn ngủi như vậy nhưng cũng đã làm cho Tử Cống phải phân vân,
đắn đo suy nghĩ rất nhiều và sau này Tử Cống cũng cố gắng làm theo, học theo
chân lý mà thầy Trọng Ni đã từng chỉ dạy.
Trong quá trình học tập, Khổng Tử đòi hỏi học trò phải cố gắng suy nghĩ.
Theo ông việc vận dụng càng suy nghĩ sẽ làm bật ra những thắc mắc, những câu
hỏi để giải quyết vấn đề. Bởi nếu học mà không suy nghĩ thì mờ trí chẳng hiểu
gì và nghĩ mà không học thì khó nhọc và sẽ mất công không. Bởi thế cần học
cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cẩn thận, phân biệt rõ trắng đen để tạo điều kiện
cho người học. Trong dạy học chỉ là người gợi mở, khơi nguồn cho học trò tự
giải đáp những vấn đề còn lại.
Hay trong Luận ngữ - Bát dật, Lâm Phong là học trò của Khổng Tử có hỏi
Khổng Tử rằng lễ thực chất là cái gì?. Khổng Tử nói rằng: “Ngươi quả đã hỏi
một vấn đề quá to tát đấy! Nói về lễ bình thường nếu phô trương lãng phí thì
giản dị, tiết kiệm còn hơn; còn nếu nói về lễ trong việc tang nếu cầu kỳ thái quá
thì lòng đau xót hơn”. Đó là cuộc đối thoại giữa hai thầy trò, Khổng Tử đã khôn
khéo khi trả lời câu hỏi của Lâm Phong thế nào là “lễ” Khổng Tử đã chỉ gợi mở
câu trả lời đó bằng việc đưa ra lý lẽ thế nào là lễ theo quan niệm thường ngày và
thế nào là lễ hiếu theo sự trang trọng. Câu trả lời của Khổng Tử thật sự như là
một câu hỏi ngược lại để cho học trò của mình là Lâm Phong phải tự suy nghĩ,
tự vấn bản thân để có thể đưa ra câu trả lời đúng đắn nhất. Cách trả lời của
Khổng Tử là sự khơi nguồn, kích thích sự tư duy, tinh thần ham học hỏi của
Lâm Phong trỗi dậy. Phương pháp đối thoại gợi mở của Trọng Ni thật có ý
19
nghĩa và giá trị to lớn, nó là một trong những phương pháp hữu hiệu để Khổng
Tử sử dụng để truyền đạo cho học trò. Và cũng chính nhờ những phương pháp
đó mà Khổng Tử đã đào tạo ra một lớp học trò danh tiếng hội tụ đầy đủ cả trí và

dũng trong bản thân mỗi con người và người đời sau vẫn tôn sùng Khổng Tử.
1.2.2.2 Phương pháp học đi đôi với hành
Theo Khổng Tử thì lời nói phải kết hợp với việc làm, không nên nói
suông và học suông. Ông nói: “Người quân tử trước hết học văn chương để mở
rộng tri thức của mình; kế đó tuân theo lễ giáo mà kiềm giữ lấy mình, nhờ vậy
mà đạt được đạo lý - Quân tử bác ư học văn; ước chi dĩ lễ diệc khả dĩ phất ban
hỹ phù” (Luận ngữ, Ung dã, 25). Ông dạy mọi người: “Nghe nhiều, thấy nhiều
để ghi nhớ và lựa chọn những điều phải, điều hay mà học theo; nhờ vậy mới trở
nên thành bậc trí giả - Đa văn trạch kỹ thiện giả nhi tùng chi; đa kiến nhi chí chi;
tri chi thứ dã” (Luận ngữ, Thuật nhi,27). “Làm trước nói, rồi sau đó cứ theo đó
mà dạy, học - Tiên hàn kỳ ngôn, nhi hậu tùng chi” (Luận ngữ, Vi chính, 13).
Khổng Tử còn đòi hỏi người hỏi người học phải luôn biết kết hợp việc
học với việc tự đào sâu suy nghĩ: “Học mà chẳng chịu suy nghĩ thì chẳng được
thông minh. Suy nghĩ mà chẳng chịu học thì lòng dạ chẳng yên - Học nhi bất tư,
tắc võng; tự nhi bất học, tắc đãi” (Luận ngữ, Vi chính, 15). Khổng Tử còn nói:
“Nói nhiều mà làm ít, người quân tử lấy làm hổ thẹn - Quân tử si kỳ ngôn, nhi
quá kỳ hạnh” (Luận ngữ, Hiến vấn, 29).
Khổng Tử quan niệm nếu học lý thuyết mà luôn luôn thực nghiệm, tập lại,
như con chim non tập bay vì chủ trương lý thuyết phải luôn song song với thực
hành cho nên ông phản đối những người chỉ nói suông hoặc học suông. Như vậy
việc học hỏi đòi phải có suy tư, đào sâu kiến thức và thực hành những gì mình
đã thu thập và khi thực hành cũng chính là lúc ta sẽ có được nhiều kinh nghiệm
hữu ích trong cuộc sống.
Khổng Tử còn khẳng định phải thường xuyên luyện tập trong học tập.
Theo ông, luyện tập giúp con người có tính cách riêng, nhân cách con người
cũng do luyện tập mà thành. Kết quả cuối cùng của việc học theo ông phải thể
hiện ở hành. Vì thế học và hành phải luôn đi sánh đôi nhau, bổ trợ cho nhau.
20
Khổng Tử rất đề cao vai trò của thực tiễn bởi theo ông lý luận bao giờ
cũng phải gắn liền với thực tiễn vì nếu chỉ có lý luận mà không có thực tiễn thì

lý luận đó chỉ là lý luận suông, còn chỉ có thực tiễn mà không có lý luận thì thực
tiễn đó cũng bế tắc, bởi vậy lý luận bao giờ cũng phải đi cùng với thực tiễn.
Khổng Tử cho rằng: “chỉ học mà không suy nghĩ sẽ rơi vào chỗ mê hoặc và
không biết gì thì khổ công suy nghĩ mà không học thì sẽ nhầm vào con đường
sai lệch” (Luận ngữ - Vi chính). Trong quá trình học tập, người học phải suy
nghĩ một cách đúng đắn, chín chắn bởi chỉ học không thôi mà không suy nghĩ
thì những kiến thức, những tri thức mà ta học được chưa chắc đã là đúng đắn, đã
là hoàn chỉnh tuyệt đối. Nếu cứ như vậy sẽ rơi vào sự bế tắc, rơi vào lầm đường
lạc lối đi đến những sai lệch trong con đường nhận thức và ngược lại nếu chỉ suy
nghĩ, chỉ chiêm nghiệm mà không học thì ta sẽ không có một chút kiến thức, tri
thức nào thì sẽ rơi vào bế tắc. Bởi vậy mối qaun hệ giữa học và suy nghĩ là vô
cùng quan trọng bởi theo ông học là tiền đề, là nền tảng, còn suy nghĩ là sự tiêu
hóa và tìm hiểu sâu thêm tri thức và hai cái bổ trợ, thúc đẩy lẫn nhau. Người biết
học phải là người biết kết hợp cả hai yếu tố đó. Tuy nhiên trong quan hệ giữa
học và suy nghĩ thì Khổng Tử vẫn quy về việc học bởi theo ông nếu gặp phải
những vấn đề gì không hiểu, nếu cứ cố sức, ra sức suy nghĩ thì vẫn không thể
tìm ra cách giải quyết được mà chỉ có một cách hữu hiệu nhất là thông qua sách
vở, học tập để tìm ra tri thức kinh nghiệm thì mới có thể được gợi ý mở ra
hướng suy nghĩ mới và tìm ra đáp án.
Trong quá trình giảng dạy cho người học trò, Khổng tử luôn luôn lấy
những vấn đề của thực tiễn, những vấn đề của xã hội để giảng dạy cho học trò
trên cơ sở những vấn đề thực tiễn đó đã có thể giải quyết được thông qua hệ thống
tri thức lý luận. Muốn học tốt được thì phải cố gắng tìm tòi, Khổng Tử cho rằng:
“Không phải ta sinh ra đã am hiểu tri thức, chẳng qua là ta ham mê các tri thức
văn hóa của các bậc thánh hiền cổ xưa, nên cố gắng tầm học”. Khổng Tử cho rằng
con người sinh ra không phải là giỏi, là biết, là am hiểu mọi thứ trên đời mà để có
thể biết, có thể hiểu thì cần phải cố gắng học tập, phải tìm đến những vị thánh
hiền, thánh nhân hay những tri thức của các vị thánh hiền mà đọc mà suy ngẫm,
21
mà chiêm nghiệm, thẩm thấu những tri thức quý giá đó. Đó là thái độ tích cực của

người học, sự kiên quyết theo đuổi trí thức bởi con người sinh ra không phải cái
gì cũng am hiểu, cũng không phải là thiên tài, muốn có được như vậy thì phải
không ngừng cố gắng trong học tập.
Trong Luận ngữ - Công Dã Tràng, Khổng Tử cho rằng: “Phải cố gắng
phấn đấu học tập, không xấu hổ khi học hỏi người có địa vị học thức thấp kém
hơn mình”. Trong quá trình học không được xấu hổ khi phải đi học hỏi, tìm
kiếm tri thức của những người tài giỏi hơn mình, cũng đừng ngại hay buồn chán
khi phải học tập cùng với những người thấp kém hơn mình, phải luôn có thái độ
trung hòa, khiêm tốn trong quá trình học tập thì người đó mới là người có tài,
tránh có thái độ ngang tàn, nghênh ngang đối với bạn học hay đối với việc học
tập cần phải có thái độ thật sự cầu thị để tìm hiểu tri thức và đức tính khiêm tốn
học hỏi bởi chỉ thực sự cầu thị mới có thể đối xử đúng đắn với mình và với mọi
người, chỉ có khiêm tốn học hỏi, không xấu hổ khi học hỏi người thấp kém hơn
mình thì mới mong tiếp thu được cái hay cái tốt của người khác, bổ sung thiếu
hụt của mình để không ngừng tiến bộ.
Trong luận điểm: “Có là thì mới biết”, có đoạn trích: “Những người nhỏ
tuổi mỗi khi gặp việc gì phải làm thì mới biết, không làm thì sao có thể biết mà
biết được ” (Lý Viên Tùng Thoại - Ức Luận). Đoạn trích trên nói đến vai trò
của thực tiên là vô cùng quan trọng trong học tập kiến thức, lý luận nhưng để
vận dụng vào thực tiễn thì đó là là cả một quá trình bởi lý luận chỉ là cách thức,
là phương pháp định hướng chúng ta, còn thực tiễn là môi trường kiểm nghiệm
sự đúng sai của lý thuyết. Luận điểm: “Có là thì mới biết” mà tác giả nêu ra ở
đây là một vấn đề quan trọng về nhận thức luận cũng là một chân lý không thể
nào chối cãi đối với bất kỳ một sự vật nào nếu ta không tiếp xúc với nó, không
trải qua thực tế mình làm thì mãi mãi không hiểu, không biết, mãi mãi đứng
ngoài cuộc bởi vậy cần phải coi trọng thực tiễn, tích cực tham gia hoạt động
thực tiễn. Đó là điều rất có lý.
22
Trong Quy điền lạc quyển một của Âu Dương Tu bàn rất kỹ luận điểm:
“Trăm hay không bằng tay quen”. Đó là một mẩu chuyện nhỏ nói với chúng ta

một điều bất luận làm một việc gì chỉ cần có sự cần cù khổ luyện, trải qua thực
tiễn nhiều thì nhất định sẽ làm tốt, sẽ đạt tới trình độ và kỹ ngệ cao. Đây chính là
cái gọi là: “Trăm hay không bằng tay quen” mà chúng ta thường nói, cái mấu
chốt của “hay” là ở chỗ “quen”, không quen thì không thể hay được, muốn quen
thì phải học nhiều, xem nhiều, qua thực tế nhiều, luyện tập nhiều. Thực tiễn có ý
nghĩa và vai trò to lớn trong cuộc sống.
Như vậy, việc học đòi hỏi phải có sự suy tư, đào sâu kiến thức và thực
hành những gì mình đã thu thập và khi thực hành cũng chính là lúc ta sẽ có được
nhiều kinh nghiệm hữu ích trong cuộc sống. Khổng Tử khẳng định phải thường
xuyên luyện tập trong học tập. Ông nói: “Tích tương cận dã, tập tương viễn dã”,
nghĩa là con người rèn luyện, luyện tập sẽ giúp ta rất nhiều. Luyện tập giúp con
người có được tính cách riêng, nhân cách của con người cũng do luyện tập mà
thành. Kết quả cuối cùng của việc học thường phải thể hiên ở hành. Vì thế học
phải đi đôi với hành, phải bổ trợ lẫn nhau.
Hay trong Luận ngữ - Vi chính có viết về Khổng Tử: “Lúc mười lăm tuổi
ta để chí vào học vấn, đến ba mươi tuổi lời nói, việc làm đều đúng với nghĩa,
bốn mươi tuổi ta đã nắm vững mọi tri thức mà không còn nghi hoặc, năm mươi
tuổi ta đã hiểu được mệnh trời. Đến sáu mươi tuổi mọi lời nói lọt vào tai ta đều
phân biệt được thật hay giả, phán đoán được đúng hay sai, đến bảy mươi tuổi ta
có thể tùy theo ý mình, mọi suy nghĩ đều không vượt quá khuôn phép”. Đoạn
trích trên đã khái quát và trình bày rất rõ về quá trình thay đổi trong nhận thức
và suy nghĩ của Khổng Tử để có thể đạt được trình độ và năng lực nhận thức
như vậy phải trải qua cả một quá trình rèn luyện, luyện tập bền bỉ trên cơ sở, ý
chí kiên định vững chắc sự trải nghiệm của cuộc đời Khổng Tử qua thực tiễn lúc
bấy đã giúp ông rất lớn trong nhận thức và sự thay đổi nhận thức. Chí của
Khổng Tử đặt trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Đó là ông không
ngừng học tập, rèn luyện, dùi mài kinh sử để có thể hiểu thấu hết sách thánh
hiền biến chúng thành kiến thức của ông và từ những tri thức ông lĩnh hội được
trong sách thánh hiền ông đã dùng thực tiễn, trải nghiệm cuộc đời để minh
23

chứng nó, kiểm nghiệm nó xem đúng hay là sai rồi vận dụng nó vào thực tiễn
cuộc sống. Bởi thế qua mỗi nấc thang cuộc đời của Khổng Tử luôn lấy thực tiễn
làm cơ sở để kiểm tra chân lý, cũng chính bởi như vậy mà đến lúc về già mọi
suy nghĩ của ông đều hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với đạo đức xã hội, không
vượt ra ngoài khuôn phép.
1.2.2.3 Phương pháp ôn cũ biết mới
Theo ông phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng và học tập. Ông thường
nhắc nhở rằng: “người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết thêm
những điều mới, người đó có thể làm thầy thiên hạ đó - ôn cố nhi tri tân, khả di
vi sư hỹ” (Luận ngữ, Vi chính, 11). Theo Khổng Tử muốn tiến bộ người học
phải luôn cố gắng nỗ lực, siêng năng trau dồi tri thức cho mình, phải luôn có thái
độ cầu tiến, vượt lên. Vì vậy người học phải không tự thỏa mãn, không tự phụ
và không tự ti, giấu dốt. Ngay cả chính mình, ông cũng không bao giờ nhận rằng
mình là người sinh ra đã biết: “Ta chẳng phải là người sinh ra tự nhiên đã biết
đạo lý. Ta chỉ là người ham mộ đạo lý của thánh hiền đời xưa mà cần mẫn tìm
học đạo lý đó mà thôi. - Ngã phi sinh nhi tri chi giả; hão cổ, mẫn dĩ cầu chi giả
dã” (Luận ngữ, Thuật nhi, 19).
Muốn đạt được điều được người học không được tự mãn, tự phụ và có thái
độ che giấu sự ngu dốt của mình: “tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” (Luận
ngữ, Vi chính, 17). Việc gì mình biết, nhận là biết, việc gì mình chẳng biết, nhận là
chẳng biết. Như thế mới là biết thật. Có thể nói đối với những đạo lý thầy truyền
đạt hoặc là những kiến thức trong sách vở, chỉ có qua ôn luyện và thực hành
thường xuyên thì chúng ta mới tiếp thu được nó, cuối cùng mới biến nó thành kiến
thức cho cuộc sống của mình, phục vụ hữu ích cho cuộc sống của mình.
Theo Khổng Tử, người học còn phải luôn cố gắng, nỗ lực, cần mẫn, siêng
năng, trau dồi tri thức cho mình: “Người phấn phát mà suy nghĩ ngấm đạo lý
nên đến quên ăn, khi đạt được đạo lý thì vui sướng đến quên các nỗi lo buồn;
chuyên tâm với đạo lý cho đến mức chẳng hay cái tuổi già nó sắp đến với mình -
Kỳ vi nhân dã, phát phần vong thực, lạc dĩ vong ưu, bất tri lão chi tương chi vấn
nhĩ” (Luận ngữ, Thuật nhi, 2).

24
Khổng Tử thường khuyên người học “phải ráng sức mà học, dường như
mình chẳng kịp theo người học, chỉ sợ mình tụt lại sau - Học như bất cập, da
khủng thất chi” (Luận ngữ, Thái bá, 17). Thậm chí, ông nói: “Trong ba người đi
đường, ắt có người là thầy ta. Mình chọn điều phải của người này để làm theo;
mình xét điều quấy, điều bất thiện của người kia mà sửa đổi lấy mình - Tam
nhân hành, tất hữu ngã sư yên. Trạc kỳ thiện giả nhi tùng chi; kỳ bất thiện giả
nhi cải chi” (Luận ngữ, Thuật nhi, 21).
Khổng Tử - một người thầy vĩ đại của nhân loại. Trong quá trình giảng
dạy cho học trò ông đã rất đề cao vai trò của việc học tập đặc biệt là việc ôn tập
lại, xem lại, học lại những gì mà thầy mình giảng, Khổng Tử cho rằng: “Ôn lại
những điều đã học, từ đó mà biết thêm những điều mới, thì có thể làm thầy thiên
hạ được rồi” (Luận ngữ - Vi Chính). Bởi ông co rằng kiến thức của chúng ta
không phải tự nhiên mà có mà nó là do quá trình ta rèn luyện, học tập, ôn luyện
miệt mài. Trong quá trình học muốn có được kiến thức thì phải thường xuyên ôn
tập lại, xem xét lại những điều mình đã được học bởi trong quá trình ôn luyện đã
củng cố được kiến thức cho bản thân và cũng từ việc ôn lại bài cũ đó sẽ giúp ta
khám phá ra được những kiến thức, tri thức mới nhằm bồi đắp thêm cho ta
những kiến thức mới thực sự cần thiết và bổ ích đối với bản thân. Ôn những kiến
thức cũ để biến nó thành kiến thức của bản thân mình và cũng từ việc ôn luyện
đó sẽ giúp ta hiểu ra nhiều tri thức mới và đưa ra những sáng kiến, những ý
tưởng, lý tưởng mới rất tốt cho bản thân.
Hay trong Luận ngữ - Thuật nhi Khổng Tử cho rằng: “Trong mấy người
cùng đi trên đường nhất định có người có thể làm thầy ta. Ta chọn ưu điểm của
người này để học cho mình, lấy khuyết điểm của người kia để làm gương mà
sửa cho mình”. Khổng Tử cho rằng bên cạnh học tập những kiến thức thầy
truyền dạy chúng ta còn cần phải học ở những người bên cạnh ta rất nhiều để tự
hoàn thiện bản thân. Bởi bản thân mỗi người còn rất nhiều khiếm khuyết cần
phải học hỏi những người bên cạnh, bạn bè rất nhiều. Có những cái ta chưa biết,
chưa hiểu nhưng người bên cạnh ta đã biết đã hiểu thì việc học hỏi là rất dễ dàng

và thuận tiện từ đó sẽ cung cấp cho ta một số lượng kiến thức rất hữu ích và
25

×