Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Cộng đồng trong bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa tại khu di tích cổ loa, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.7 KB, 12 trang )

Cộng đồng trong bảo tồn và phát huy các giá
trị lịch sử, văn hóa tại khu di tích Cổ Loa, Hà
Nội

Nguyễn Thùy Linh

Viện Việt Nam học & Khoa học phát triển
Luận văn ThS Chuyên ngành: Việt Nam học; Mã số 60 31 60
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Sơn
Năm bảo vệ: 2011

Keywords. Việt Nam học; Văn hóa, Lịch sử; Cổ Loa, Hà Nội.

Content
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản, cộng đồng luôn luôn có một vai
trò quan trọng và mang tính quyết định. Mặc dù di sản không chỉ là của cộng đồng mà còn để
phục vụ khách du lịch và cũng là đối tượng chịu sự chi phối bởi các nhà quản lý, nhưng cộng
đồng chính là những người nắm giữ và thực hành di sản, giữ vai trò vừa là chủ thể sáng tạo
vừa là người hưởng thụ các sinh hoạt văn hóa đó. Hitchcock (1997) cho rằng: “cộng đồng địa
phương là người giữ gìn di sản và sở hữu tri thức bản địa về di sản ấy. Những thứ đó có ích
đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của địa phương” [26]. UNESCO cũng cho rằng, các
cộng đồng là mạng lưới những người mà nhận thức về bản sắc hoặc sự gắn bó với nhau phát
sinh từ các mối quan hệ mang tính lịch sử bắt nguồn từ việc thực hành và chuyển giao hoặc
ràng buộc với di sản văn hóa của họ.
Với vị trí và tầm quan trọng mang tính quyết định, trong nhiều năm trở lại đây, các
hoạt động nghiên cứu về cộng đồng đã được đẩy mạnh. Khi nghiên cứu về mối quan hệ của
bất cứ một cộng đồng nào đối với di sản, nhà nghiên cứu luôn đặt ra hàng loạt vấn đề để xem
xét, đó là: với khu vực đó, cộng đồng đã thực sự tham gia với vai trò tích cực, chủ động và
sáng tạo hay chưa? Cộng đồng đã làm được gì trong quá khứ và đang làm gì trong hiện tại?
Nhà quản lý đã thực sự biết tận dụng nguồn lực cộng đồng hay chưa? Những nhân tố nào hạn


chế và những nhân tố nào thúc đẩy vai trò của cộng đồng? Nắm được vấn đề này, cùng với
cách thức quản lý hiệu quả từ chính quyền sẽ góp phần đẩy mạnh vai trò của cộng đồng trong
việc gìn giữ và phát huy giá trị di sản một cách tốt nhất. Đây chính là một cơ sở quan trọng để
chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về vấn đề cộng đồng.
1.2. Cổ loa là một khu di tích lịch sử, văn hóa đặc biệt nằm ở ngoại thành Hà Nội.
Ngày 28 tháng 4 năm 1962, Bộ văn hóa đã có quyết định số 313/VH-VP xếp di tích Cổ Loa là
di tích Quốc gia. Bên cạnh tòa thành đồ sộ về quy mô, độc đáo với kiến trúc nhiều lớp thành
uốn lượn, to lớn nhất của Việt Nam và toàn Đông Nam Á thời cổ đại, Cổ Loa còn có một
quần thể các công trình kiến trúc vô cùng phong phú bao gồm nhiều loại hình với nhiều chức
năng khác nhau. Đó là những công trình tưởng niệm, những công trình mang chức năng tôn
giáo, tín ngưỡng và những ngôi nhà cổ độc đáo, điển hình của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
1.3. Đối với di tích, cộng đồng Cổ Loa có nhiều đóng góp, song cũng có những hạn
chế nhất định. Trong quá khứ, cộng đồng Cổ Loa chính là những người đã tạo nên cảnh quan,
môi trường, hình thành các làng nông - chài ven sông mà dấu vết còn để lại ở khắp vùng Cổ
Loa nói riêng và châu thổ Bắc Bộ nói chung. Hiện tại, cộng đồng vẫn có vai trò quan trọng
trong bảo vệ, khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa tại khu di tích. Chính người dân đã
tiến hành trồng cây tại các vòng thành chống sạt lở, khôi phục di tích và những sinh hoạt văn
hóa tại di tích, tham gia trực tiếp và gián tiếp vào việc trông coi và gìn giữ di tích cũng như
tham gia đóng góp xây dựng, trùng tu và tôn tạo di tích. Tuy nhiên, trải qua hàng nghìn năm
lịch sử, bên cạnh yếu tố thời gian và biến động của điều kiện tự nhiên, sự gia tăng dân số,
hình thành xã hội và sự phát triển hoạt động kinh doanh, buôn bán của cộng đồng Cổ Loa đã
xâm hại và phá hủy di tích nghiêm trọng. Hiện nay, cộng đồng Cổ Loa sống trong các vòng
thành, kể cả ở trên các mặt thành và tập trung nhất ở trung tâm khu di tích. Đất đai giữa các
vòng thành từ lâu đã trở thành đất canh tác. Các hào nước, nhất là hào Thành Nội nhiều chỗ bị
san lấp để trồng trọt, thậm chí làm nhà ở và sản xuất chăn nuôi. Các công trình kiến trúc hiện
đại, phục vụ nhu cầu sinh hoạt và kinh doanh buôn bán nằm xen kẽ với di tích Đó là những
vi phạm nghiêm trọng của cộng đồng đối với không gian và cảnh quan di tích.
1.4. Ở nước ta, phát triển cộng đồng là một lĩnh vực hoạt động khoa học và thực tiễn
còn khá mới mẻ, song cũng đã đem lại một số thành công nhất định trên mọi lĩnh vực kinh tế -
xã hội và văn hóa. Vận dụng cơ sở lý luận và những dự án cộng đồng cụ thể đã được thực

hiện ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam, lựa chọn cộng đồng tại khu di tích Cổ Loa,
với mục đích nhận diện đóng góp và hạn chế của cộng đồng, lý giải nguyên nhân và bước đầu
đưa ra một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò chủ động và tích cực của cộng đồng, chúng tôi
quyết định triển khai đề tài: cộng đồng trong bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa
tại khu di tích Cổ Loa, Hà Nội và một số đề xuất.
2. Lịch sử nghiên
Ngay từ rất sớm, vùng đất Cổ Loa đã được nhiều tài liệu không chỉ của người Việt
Nam mà còn của người nước ngoài đề cập đến. Những ghi chép đó đã phản ánh về thời kỳ
quốc gia Âu Lạc của An Dương Vương, về những nhân vật, sự kiện lịch sử, văn hóa… của
vùng đất Cổ Loa. Sau này, Cổ Loa tiếp tục thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên
cứu thuộc nhiều lĩnh vực: sử học, khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa dân gian và nhiều ngành
khoa học khác. Đặc biệt, ở lĩnh vực khảo cổ học, các di chỉ khảo cổ ở Cổ Loa được nghiên
cứu với quy mô lớn và mang tính chuyên sâu.
Vấn đề cộng đồng và vai trò của cộng đồng ở Cổ Loa đã ít nhiều được các công trình
đề cập đến ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Công trình Cổ Loa - trung tâm hội tụ văn minh sông Hồng của tác giả Hoàng Văn
Khoán [10] đã dành hẳn một chương để nghiên cứu đời sống của cư dân Cổ Loa, gồm cả đời
sống kinh tế, các phương thức sản xuất và đời sống tinh thần. Nét độc đáo ở công trình này là
tác giả đã sử dụng những tư liệu khảo cổ học để dựng lại bức tranh về đời sống của cư dân từ
Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tác giả đã đưa ra một số nhận xét về cư dân Cổ Loa từ thời
đồng thau - sắt sớm là cư dân lấy nông nghiệp lúa nước làm phương thức sống chủ yếu. Bên
cạnh nông nghiệp, nghề khai thác các nguồn lợi tự nhiên ngày càng phát triển, như: khai thác
đất, đá, kim loại, các loại tre, nứa, gỗ… phục vụ các nghề thủ công làm gốm, chế tạo đồ đá,
đồ đồng, đồ sắt, đan lát, dệt vải, làm nhà… và phục vụ cuộc sống hàng ngày như săn bắn thú
rừng, nguồn thủy sản dưới nước bổ sung cho nguồn lương thực và thực phẩm. Đây chính là
nguồn tư liệu quan trọng mà chúng tôi sử dụng trong đề tài khi nghiên cứu về đặc điểm nghề
nghiệp của cộng đồng Cổ Loa.
Khá tương đồng về phương pháp nghiên cứu, công trình Lịch sử khu di tích Cổ Loa
của tác giả Nguyễn Doãn Tuân [35] đã nghiên cứu về cư dân và văn hóa vùng Cổ Loa trước
An Dương Vương cũng đã chỉ ra: “Những người đầu tiên được môi trường - cảnh quan tiền -

Cổ Loa hấp dẫn đến khai phá và làm chủ nơi này, là nhóm cư dân đã để lại dấu tích ở di chỉ
Đồng Vông. Họ tụ cư ở ngay một doi đất cao ven sông Hoàng, trên một địa bàn có qui mô
bằng một xóm nhỏ ngày nay (khoảng 10.000m2)” [35; 21].
Công trình Địa chí Cổ Loa do Nguyễn Quang Ngọc và Vũ Văn Quân chủ biên [20]
được xem là một công trình nghiên cứu toàn diện và đầy đủ nhất về tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội của Cổ Loa. Tuy nhiên, do tính chất công trình mang tính toàn
diện, nên vấn đề cộng đồng không được nghiên cứu một cách chi tiết và cụ thể. Trong công
trình, cộng đồng Cổ Loa được nhìn theo chiều dài lịch sử, từ thời kỳ đấu tranh dựng và giữ
nước đến giai đoạn độc lập và phát triển kinh tế hiện nay. Đặc biệt, ở chương 2, công trình có
tập trung đề cập đến Các đơn vị hành chính - cộng đồng [20; 143-166] và Các hình thức liên
kết cộng đồng ở Cổ Loa [20; 167-184]. Đây chính là những nguồn tư liệu quan trọng để nhìn
nhận về diện mạo cộng đồng Cổ Loa hiện nay.
Năm 2005, Nguyễn Thu Nga đã có một công trình nghiên cứu về Thiết chế quản lý và
các hình thức liên kết cộng đồng ở Cổ Loa từ truyền thống đến hiện đại [17]. Đây có thể coi
là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ và tập trung về cộng đồng Cổ Loa từ truyền thống
đến hiện đại. Ở công trình này, tác giả đã khái quát chung về Cổ Loa, từ điều kiện tự nhiên,
các chặng đường lịch sử đến tình hình kinh tế, văn hóa và xã hội của Cổ Loa qua các giai
đoạn lịch sử. Từ đó, tác giả đi sâu vào nghiên cứu thiết chế quản lý và các hình thức liên kết
cộng đồng ở Cổ Loa. Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến nghiên cứu về Các thiết chế quản lý
từ sau Đổi mới đến nay [17; 52-55] của tác giả. “Từ sau năm 1945, do những biến động của
lịch sử nên thiết chế quản lý ở Cổ Loa có nhiều thay đổi để phù hợp với tình hình mới. Trong
đó, các tổ chức chính trị - xã hội (tổ chức Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân) là
những cơ quan quyền lực ở địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Trong bộ máy quản lý thôn hiện
nay, cần nhấn mạnh vai trò của trưởng thôn” [17; 57]. Với nội dung này, vai trò của cộng
đồng đã được đề cập đến qua sự nhấn mạnh tầm quan trọng của trưởng thôn đối với việc quản
lý dân cư. Trong quá trình nghiên cứu về cộng đồng, các thiết chế và hình thức liên kết cộng
đồng là một vấn đề quan trọng.
Lịch sử vấn đề nghiên cứu cho thấy, trong các nghiên cứu về Cổ Loa, diện mạo đời
sống vật chất và tinh thần cũng như các thiết chế và hình thức quản lý cộng đồng đã được các

tác giả đề cập đến. Tuy nhiên, coi cộng đồng Cổ Loa là một đối tượng độc lập thì chưa có
công trình nào tập trung nghiên cứu. Có thể nói, nghiên cứu về cộng đồng ở Cổ Loa là một
khía cạnh khá mới mẻ. Đặc biệt, về vai trò và hạn chế của cộng đồng Cổ Loa đối với khu di
tích Cổ Loa, có thể thấy, mặc dù vấn đề cộng đồng đối với di sản mang tính thực tiễn và cấp
thiết trong quá trình bảo tồn và phát huy di sản, nhưng lại chưa có công trình nào đào sâu
nghiên cứu về Cổ Loa. Trong bối cảnh đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, những yếu tố của
nền kinh tế thị trường đang có nguy cơ hủy hoại nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp của cộng
đồng làng xã, cũng như những xâm hại và hủy hoại di tích Cổ Loa vẫn đang ngày càng
nghiêm trọng hơn, nghiên cứu về vấn đề cộng đồng để từ đó tìm ra hướng phát triển cộng
đồng càng trở nên cấp thiết hơn.
Do đó, chúng tôi nhận thấy việc triển khai đề tài trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài trên, tác giả đặt ra các mục đích nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, nhận diện một cách đầy đủ và toàn diện về cộng đồng Cổ Loa, bao gồm: đặc
điểm dân cư, ý thức cộng đồng, các hình thức liên kết cộng đồng và cách thức quản lý cộng
đồng. Bên cạnh đó, luận văn cũng hướng đến nhìn nhận về mối quan hệ của cộng đồng đối
với khu di tích Cổ Loa. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để đánh giá vai trò và hạn chế của
cộng đồng đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử và văn hóa ở Cổ Loa.
Thứ hai, phân tích vai trò và hạn chế của cộng đồng Cổ Loa. Từ đó, bước đầu tác giả
đánh giá nguyên nhân hiện trạng trên. Đây là phần được dành nhiều thời lượng nghiên cứu và
được coi là trọng tâm của luận văn.
Thứ ba, đưa ra một số đề xuất nhằm phát huy vai trò tích cực và hạn chế những tiêu
cực của cộng đồng. Từ đó, bước đầu xây dựng dự án phát triển cộng đồng qua hình thức du
lịch cộng đồng. Mục đích của dự án này là nhằm vừa gìn giữ di tích vừa phát huy vai trò chủ
động và tích cực của cộng đồng Cổ Loa đối với di tích.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là cộng đồng Cổ Loa ở cả 15 thôn
trong khu di tích Cổ Loa, bao gồm: Mạch Tràng, Cầu Cả, Sằn Giã, Vang, Mít, Hương,
Thượng, Nhồi Trên, Nhồi Dưới, Chùa, Chợ, Khu Chợ Sa, Gà, Lan Trì, Dõng.

5. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ năm 2000 trở lại đây. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn mốc thời gian
này, bởi từ năm 2000 đến nay, Cổ Loa cũng như nhiều địa bàn nông thôn ngoại thành Hà Nội
nói chung đang trong quá trình đô thị hóa mạnh với những biến đổi to lớn về kinh tế, văn hóa,
xã hội. Đặc biệt, cơ cấu dân số và cơ cấu kinh tế ở Cổ Loa đang chịu tác động mạnh mẽ nhất
từ quá trình đô thị hóa. Khi khu công nghiệp lớn được xây dựng ở phía Bắc huyện, nhiều
người dân Cổ Loa trở thành công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện.
Mặc dù nông nghiệp chiếm 70% cơ cấu kinh tế toàn xã nhưng thu nhập từ buôn bán và đi làm
ở các khu công nghiệp lớn phía Bắc lại là nguồn thu chính cho người dân Cổ Loa. Cơ cấu dân
cư Cổ Loa hôm nay mang đậm đặc điểm của vùng nông nghiệp ngoại thành với những yếu tố
sinh thái nhân văn, hòa hợp giữa công nghiệp và nông nghiệp, đô thị và nông thôn, truyền
thống và cách mạng.
Quá trình đô thị hóa ở Cổ Loa có nhiều ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến mọi mặt
của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Đối với khu di tích, đô thị hóa khiến gia tăng dân số,
kéo theo đó là gia tăng nhu cầu và lợi ích. Sự gia tăng này có nhiều biểu hiện tích cực và tiêu
cực.
Về mặt nhu cầu, đô thị hóa giúp cho đời sống kinh tế người dân nâng cao. Từ đó, nhu
cầu khách quan về nhà ở và sinh hoạt cũng theo tỉ lệ thuận mà tăng lên. Bên cạnh nhà ở và
sinh hoạt, nhu cầu buôn bán, kinh doanh dẫn đến việc người dân mở rộng không gian để kinh
doanh. Những nhu cầu này dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động lấn chiếm, xâm hại
di tích để xây dựng.
Về mặt lợi ích, đô thị hóa khiến tâm lý người dân cũng thay đổi. Tâm lý thuần nông
của người dân ở một xã ngoại thành Hà Nội đã manh nha những yếu tố của nền kinh tế thị
trường. Lợi ích kinh tế chủ quan trước mắt để phục vụ kinh doanh, buôn bán khiến một số
người quên mất việc gìn giữ và bảo vệ di tích đặc biệt quan trọng này. Hệ quả này khiến cho
người dân có nhiều hành vi sai phạm, xâm hại và làm hỏng không gian và cảnh quan di tích.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp ba phương pháp sau:
Phương pháp phỏng vấn sâu: đây là phương pháp chính được chúng tôi sử dụng
trong đề tài. Đối tượng được chúng tôi tiến hành phỏng vấn bao gồm 4 đối tượng chính:

(1) Cán bộ quản lý văn hóa và cán bộ trực tiếp làm việc tại di tích, thuộc Tổ quản lý di
tích, Tổ quản lý di tích - danh thắng, UBND Thành phố Hà Nội.
(2) Cán bộ văn hóa tại UBND xã Cổ Loa
(3) Trưởng thôn và phó thôn
(4) Người dân sống và kinh doanh tại trung tâm di tích và xa di tích
Phương pháp này nhằm khám phá những đặc tính của đối tượng nghiên cứu, nhận diện
một cách khách quan nhất về những đóng góp và hạn chế của đối tượng và có những biện
pháp giải quyết vấn đề khoa học và hiệu quả nhất. (Mẫu phiếu được trình bày tại phụ lục).
Phương pháp điều tra, khảo sát: phương pháp này được chúng tôi sử dụng nhằm thu
thập những số liệu cập nhật nhất về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội và đặc biệt là những vấn
đề liên quan đến cộng đồng, như số dân, nghề nghiệp, thu nhập, trình độ học vấn… Chúng tôi
phát mẫu phiếu “Bảng thống kê di tích văn hóa, lịch sử và cách mạng” cho cán bộ văn hóa xã
và cán bộ quản lý văn hóa tại Tổ quản lý di tích và “Biểu thống kê đời sống văn hóa cấp làng”
cho 15 trưởng thôn trên khu di tích Cổ Loa.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu và phương pháp thống kê, phân loại: chúng tôi
tiến hành nghiên cứu, thống kê tổng quan các tài liệu đã viết về vấn đề trên. Đặc biệt, nguồn
tài liệu chính được chúng tôi sử dụng là “Hồ sơ di tích” được lưu tại Phòng nghiên cứu và sưu
tầm, thuộc Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội.
7. Kết quả và đóng góp của luận văn
Từ những kết quả nghiên cứu về cộng đồng Cổ Loa, theo các phương pháp kể trên,
luận văn đã hệ thống lại những vấn đề liên quan đến cộng đồng, như sau:
Cổ Loa được coi là một cộng đồng bởi có chung những yếu tố về mặt địa vực, truyền
thống lịch sử và văn hóa. Giữa cộng đồng và di tích có mối quan hệ mật thiết và gắn bó. Cộng
đồng chính là những người sinh sống tập trung, sinh hoạt và phát triển các hoạt động kinh
doanh, buôn bán trên chính trung tâm di tích.
Hiện tại, cộng đồng vừa có vai trò quan trọng và có hạn chế trong bảo vệ, khôi phục
và phát huy các giá trị văn hóa tại khu di tích. Chính ý thức và sự hiểu biết về di tích đã thúc
đẩy những hoạt động có ích của người dân đối với di tích. Sự quản lý lỏng lẻo, thiếu tập trung
của chính quyền, thiếu quy hoạch và cắm mốc di tích và sự sai phạm từ trong quá khứ chính
là những lí do khiến cho tình trạng vi phạm ngày càng nghiêm trọng hơn.

Vận dụng cơ sở lý luận và những dự án cộng đồng cụ thể đã được thực hiện ở một số
nước trên thế giới, lựa chọn cộng đồng tại khu di tích Cổ Loa, căn cứ vào định hướng phát triển
của Cổ Loa trong thời gian tới là: Bảo tồn di sản để phát triển du lịch - lịch sử - văn hóa và sinh
thái, chúng tôi đưa ra đề xuất phát triển du lịch cộng đồng. Dự án bao gồm ba bước: bước 1:
nhận diện di tích và cộng đồng; bước 2: Đánh giá hiện trạng di tích và cộng đồng; bước 3: Các
biện pháp phát triển du lịch dựa vào cộng đồng ở Cổ Loa.
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận
Phần Nội dung được triển khai trong ba chương
Chương 1: Khái quát chung về cộng đồng và di tích
Chương 2: Vai trò và hạn chế của cộng đồng
Chương 3: Một số đề xuất và định hướng phát huy vai trò chủ động và tích cực của
cộng đồng
Trong luận văn, phần lý thuyết được chúng tôi trình bày ở chương 1. Một số lý thuyết
nhỏ, theo từng chương có sử dụng những nội dung cụ thể làm cơ sở giải quyết đề tài.
Reference
THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Lê Huy Bá (chủ biên) (2009), Du lịch sinh thái, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật
2. Bộ Xây dựng, Viện Kiến trúc, qui hoạch đô thị và nông thôn (05/2011),
Các văn bản pháp lý - trình tự thẩm định và các ý kiến đóng góp (Quy
hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích thành Cổ
Loa, tỉ lệ 1:2000; Đồ án quy hoạch tổng thể, bảo tồn, tôn tạo và phát huy
giá trị khu di tích thành Cổ Loa, tỉ lệ 1:2000), Hà Nội
3. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý (đồng chủ biên)
(2001), Tìm hiểu giá trị văn hoá truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. Phan Hồng Giang (chủ biên) (2005), Đời sống văn hóa ở nông thôn đồng
bằng sông Hồng và sông Cửu Long, Nxb Văn hóa - Thông tin

5. Cao Đức Hải (chủ biên), Nguyễn Khánh Ngọc (2010), Giáo trình Quản
lý lễ hội và sự kiện, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
6. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nxb. Chính trị Quốc gia
7. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2007), Phát triển văn hóa con người và
nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb
Chính trị Quốc gia
8. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng- Lý
thuyết và vận dụng, Nxb Văn hóa - Thông tin
9. Tô Duy Hợp (chủ biên (2000), Sự biến đổi của làng xã Việt nam ngày
nay - ở đồng bằng sông Hồng, NXB Khoa học xã hội
10. Hoàng Văn Khoán (chủ biên) (2002), Cổ Loa - trung tâm hội tụ văn
minh sông Hồng, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin
11. Trịnh Thúc Huỳnh, Bùi Xuân Đính, Lê Văn Yên, Lịch sử Đảng bộ xã Cổ
Loa (1945 - 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, 2005
12. Văn Thị Ngọc Lan (2007), Cộng đồng dân cư ngoại thành Tp. Hồ Chí
Minh trong quá trình đô thị hoá, LATS Xã hội học
13. Nguyễn Thị Kiều Linh (2005), Kinh tế - xã hội Cổ Loa trong những năm
1986 - 2004, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Trường Đại học khoa
học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
14. Đặng Văn Lung (2005), Lễ hội và nhân sinh, Nxb Đại học Quốc gia TP
Hồ Chí Minh
15. Lê Hồng Lý (chủ biên), Dương Văn Sáu, Đặng Hoài Thu (2010), Giáo
trình Quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch, Nxb Trường Đại học
văn hóa Hà Nội
16. Đỗ Long (2000), Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý cộng
đồng, Nxb Khoa học xã hội
17. Nguyễn Thu Nga (2005), Thiết chế quản lý và các hình thức liên kết
cộng đồng ở Cổ Loa từ truyền thống đến hiện đại, Khóa luận tốt nghiệp,
Khoa Lịch sử, Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học

Quốc gia Hà Nội
18. Vũ Thị Ngoan (2005), Bước đầu tìm hiểu kinh tế - xã hội Cổ Loa trong
những năm 1976 - 1986, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Trường
Đại học khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
19. Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân (đồng chủ biên) (2007), Địa chí Cổ
Loa, Nxb Hà Nội
20. Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân (đồng chủ biên) (2010), Địa chí Cổ
Loa, Nxb Hà Nội
21. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội
22. Huỳnh Phú, Trần Anh Thư (2009), Du lịch sinh thái và bảo tồn môi
trường đồng bằng sông Cửu Long, Sở Văn hóa thể thao và du lịch An
Giang - Tiền Giang phối hợp thực hiện
23. Nguyễn Tấn Quang (1992), Con người là trung tâm trong mối quan hệ
giữa cá nhân với cộng đồng, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh
24. Võ Quế (2006), Du lịch cộng đồng - Lý thuyết và vận dụng, Nxb Khoa
học và kỹ thuật
25. Nguyễn Ngọc Quỳnh (1996), Quy hoạch phát triển và quản lý nhà ở đô
thị với vai trò cộng đồng trong đô thị Việt Nam (lấy Tp Hải Phòng làm
địa bàn nghiên cứu), LAPTSKH Kinh tế
26. Bùi Hoài Sơn, Di sản cho ai và câu chuyện về tổ chức lễ hội truyền
thống ở Việt Nam Tạp chí di sản số 3/ 2010 (tr10 - 14)
27. Sở Văn hóa thông tin Hà Nội, Ban quản lý di tích - Danh thắng. Hồ sơ di
tích thuộc khu di tích Cổ Loa
28. Sở văn hóa thông tin Hà Nội, Ban Quản lý di tích - danh thắng, Hồ sơ
địa chí xã Cổ Loa
29. Sở văn hóa thông tin Hà Nội, Ban Quản lý di tích- danh thắng, Hồ sơ di
tích liên quan đến khu di tích Cổ Loa
30. Nguyễn Thị Lan Thanh (chủ biên) (2010), Giáo trình Quản lý nguồn
nhân lực trong các tổ chức văn hóa nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội
31. Đỗ Thị Minh Thúy (2010), Tín ngưỡng dân gian Hà Nội trong đời sống
văn hóa đô thị hiện nay, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa
32. Huỳnh Lam Trà (1995), Lễ hội Cổ Loa, Khoa Lịch sử, Đại học Tổng
hợp, Hà Nội
33. Lâm Quốc Tuấn (2006), Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh
đạo quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin và viện Văn hóa
34. Nguyên Doãn Tuấn (2003), Khu di tích Cổ Loa, lịch sử - văn vật, Nxb
Hà Nội
35. Nguyễn Doãn Tuân (1997), Lịch sử khu di tích Cổ Loa, Luận án phó tiến
sĩ khoa học lịch sử, Viện Sử học, Hà Nội
36. Lại Văn Tới (2000), Các di tích đồng thau và sắt sớm khu vực Cổ Loa
trong bối cảnh thời đại kim khí đồng bằng Bắc Bộ, LATS Lịch sử
37. Trần Văn Tùng (chủ biên) (2005), Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường ở
một số khu công nghiệp phía Bắc tới sức khoẻ cộng đồng, Nxb Khoa học
xã hội
38. UBND Thành phố Hà Nội, Quyết định số 173/2002/QĐ-UB của UBND
Thành phố: Về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết khu vực di tích Cổ Loa,
huyện Đông Anh, Hà Nội, tỷ lệ 1.2000
39. UBND Thành phố Hà Nội, Quyết định số 174/2002/QĐ-UB của UBND
Thành phố: Về việc ban hành Điều lệ quản lý xây dựng theo Quy hoạch
chi tiết khu vực di tích Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, tỷ lệ 1.2000
40. Trung tâm bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội, UBND xã Cổ
Loa, số 43/ KHLT/ TTHN - UBND xã Cổ Loa (25/08/2008), Kế hoạch
phối hợp tổ chức công tác quản lý tuyên truyền, kiểm tra chống vi phạm
di tích Cổ Loa năm 2008
41. Trung tâm bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội, Danh sách
các di tích thuộc khu di tích Cổ Loa
42. Trung tâm bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội, Nội dung tờ
gấp tuyên truyền về công tác bảo vệ di tích Cổ Loa

43. Trung tâm bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nộị, Nội quy làm
việc tại khu di tích Cổ Loa (phần trích)
44. Trung tâm bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội, Thống kê hoạt
động tu bổ di tích
45. Trung tâm bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội, Báo cáo thống
kê hoạt động công đức tại di ba di tích lõi: đền Thượng, đình Ngự triều
di quy và am Mỵ Châu từ 20/1/2010 đến 30/12/2010
46. UBND xã Cổ Loa, BTC Lễ hội Cổ Loa, Báo cáo tổng kết lễ hội Cổ Loa
năm 2007, 2008, 2009, 2010
47. UBND xã Cổ Loa (2010), Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế xã hội Cổ
Loa năm 2010
48. Văn phòng chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Trung tâm nghiên
cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa (2003), Nghiên cứu, điều tra, khảo sát,
sưu tầm và xây dựng hệ thống tư liệu lịch sử và văn hóa dân gian khu
vực Cổ Loa, Hà Nội
49. Trần Quốc Vượng (1987), Cổ Loa - truyền thống và cách mạng, Đảng
ủy xã Cổ Loa 1987
50. Trần Quốc Vượng, Trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử , Sở văn hoá thông tin
Hà Nội, 1970
51. Nguyễn Thị Xuân (2005), Xã Cổ Loa thế kỷ XIX qua tư liệu địa bạ,
Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Trường Đại học khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

×