PHẦN
MỞ
ĐẦU
1.
Tính
cấp
thiết
của
đề
tài.
Xu hướng tự do hóa, toàn cầu hóa kinh tế và quốc tế hóa các luồng tài chính
đã làm thay đổi căn bản hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam. Với sự phát triển
đa dạng của các công cụ tài chính đã giúp các ngân hàng dễ dàng tiếp cận hơn đối
với các nguồn tài chính đã giúp các ngân hàng có nhiều cơ hội hơn trong việc đưa
ra các sản phẩm dịch vụ mới. Hoạt động kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp,
áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng lớn hơn và cùng với nó mức độ rủi ro cũng
tăng lên. Hoạt động kinh doanh ngân hàng có thể coi là hoạt động chịu tác động
kép từ nhiều phía, vì vậy kinh doanh ngân hàng cũng là hoạt động kinh doanh gánh
chịu
nhiều
rủi
ro
nhất.
Tùy
theo
từng
cách
tiếp
cận
mà
rủi
ro
trong
kinh
doanh
ngân hàng được phân thành nhiều loại khác nhau, song theo cách phân loại chung
nhất – theo Ủy ban Basel thì rủi ro ngân hàng được phân chia thành 3 loại cơ bản
gồm: Rủi ro tín dụng; rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp ( rủi ro hoạt động). Các
ngân hàng thương mại Việt Nam đang dần tiếp cận với các khái niệm này và từng
bước quản lý các loại hình rủi ro theo thông lệ.
Ngày nay, cùng với nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động tin dụng, các ngân
hàng ngày cảng mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ, một trong những mục tiêu
quan trọng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang hướng tới là tăng tỷ
trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ lên 40 – 50%, điều này đồng nghĩa với việc
các
ngân
hàng
sẽ
phải
đối
mặt
với
các
loại
rủi
ro
trước
đây
vốn
chưa
được
coi
trọng như rủi ro thị
trường và
rủi ro tác
nghiệp. Rủi ro tác
nghiệp
không phải là
loại rủi ro mới, nó tồn tại song hành với sự ra đời của các ngân hàng. Theo nghiên
cứu ảnh hưởng định tính của Ủy ban Basel thì thông thường các ngân hàng sẽ phải
mất
đi
10%
lợi
nhuận
từ
hoạt
động
kinh
doanh
vì
rủi
ro
tác
nghiệp.
Rủi
ro
tác
nghiệp ngày càng gia tăng do tác động của quá trình hội nhập, do tốc độ gia tăng
khối lượng các giao dịch trong ngân hàng, môi trường kinh doanh ngày càng phức
1
tạp và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn. Vì vậy, để có thể quản lý rủi ro tác nghiệp
một cách có hiệu quả đang là một trong những vấn đề mà các ngân hàng thương
mại
Việt
Nam
nói
chung
và
Ngân
hàng
TMCP
Công
thương
Việt
Nam
(Vietinbank) nói riêng phải đối mặt.
Xuất phát từ những vấn đề trên em đã chọn đề tài nghiên cứu
“
Nâng
cao
hiệu
quả
công
tác
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
tại
Ngân
hàng
TMCP
Công
thương
Việt
Nam”
2.
Mục
đích
nghiên
cứu
Khóa luận nghiên cứu:
Những nội dung cơ bản về rủi ro tác nghiệp và quản trị rủi ro tác nghiệp trong
các Ngân hàng thương mại
Những
kinh
nghiệm
về
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
của
các
ngân
hàng
và
Tập
đoàn
tài
chính
trên
thế
giới
để
rút
ra
những
bài
học
cần
thiết
cho
các
ngân
hàng
thương mại Việt Nam
Thực trạng công tác quản trị rủi ro tác nghiệp tại VietinBank
Đề
xuất
giải
pháp
nhằm
hoàn
thiện
công
tác
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
tại
VietinBank
3.
Đối
tượng
và
phạm
vi
nghiên
cứu
Đối
tượng
nghiên
cứu:
Tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về rủi ro tác nghiệp
và quản trị rủi ro tác nghiệp, thực trạng công tác quản trị rủi ro tác nghiệp.
Phạm
vi
nghiên
cứu:
Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý rủi ro tác nghiệp
tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam trong thời gian qua, qua đó đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản trị rủi ro tác nghiệp của ngân hàng
4.
Phương
pháp
nghiên
cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở tổng hợp, phân tích và kết hợp lý luận với
thực tiễn trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sủ của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
2
5.
Kết
cấu
của
khóa
luận
Ngoài
phần
mở
đầu,
kết
luận,
tài
liệu
tham
khảo,…
nội
dung
của
khóa
luận
gồm 3 chương:
Chương
1:
Rủi
ro
tác
nghiệp
và
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
trong
các
ngân
hàng
thương
mại
Chương
2:
Thực
trạng
công
tác
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
tại
VietinBank
Chương
3:
Giải
pháp
nâng
cao
hiệu
quả
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
tại
VietinBank
CHƯƠNG
1
RỦI
RO
TÁC
NGHIỆP
VÀ
QUẢN
TRỊ
RỦI
RO
TÁC
NGHIỆP
TRONG
CÁC
NGÂN
HÀNG
THƯƠNG
MẠI
1.1
Những
vấn
đề
cơ
bản
về
rủi
ro
tác
nghiệp
trong
các
Ngân
hàng
thương
mại.
1.1.1
Ngân
hàng
thương
mại
Theo điều 20 luật các Tổ chức tín dụng (được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 12 năm 197) có quy định: “Tổ chức tín
dụng
là doanh
nghiệp được
thành lập
theo quy
định
của Luật này
và
các
quy định
khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội
dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh
toán”
“Ngân
hàng là loại hình tổ chức
tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân
hàng và
các
hoạt động
kinh doanh
khác
có liên
quan. Theo
tính chất
và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
3
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác”
Trong đó đối với Ngân hàng thương mại, theo nghị định 49/2000/NĐ-CP ban
hành ngày 12/9/2000 được định nghĩa như sau: “ Ngân hàng thương mại là ngân hàng
được thực
hiện
toàn
bộ
hoạt
động ngân
hàng
và
các
hoạt
động kinh
doanh khác
có
liên
quan
vì
mục
tiêu
lợi
nhuận
góp
phần
thực
hiện
các
mục
tiêu
kinh
tế
của
nhà
nước”.
Qua các định nghĩa trên thì có thể hiểu ngân hàng thương mại là trung gian tài
chính có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tiền tệ một cách tốt nhất cả về khối lượng,
thời gia, địa điểm qua đó đem lại lợi ích cho bản thân ngân hàng, cho người gửi tiền,
cho người cần vốn và cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng
trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế, làm cầu nối của doang nghiệp với thị trường,
giúp
nhà
nước
điều
tiết
vĩ
mô
nền
kinh
tế,
hay
góp
phần
thúc
đẩy
tài
chính
tiền
tệ
quốc tế
1.1.2
Rủi
ro
trong
hoạt
động
kinh
doanh
của
Ngân
hàng
thương
mại
1.1.2.1 Khái niệm về rủi ro
Theo định nghĩa truyền thống rủi ro là những sự kiện có thể làm mất mát tài sản
hay làm phát sinh một khoản nợ. Định nghĩa hiện đại về rủi ro bao hàm nghĩa rộng
hơn và không chỉ tính đến rủi ro tài chính mà còn bao gồm cả những rủi ro liên quan
đến những mục tiêu hoạt động và mục tiêu chiến lược: “rủi ro là khả năng những sự
kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể không đạt được những mục
tiêu
chiến
lược
và
mục
tiêu
hoạt
động,
cũng
như
chi
phí
cơ
hội
của
việc
làm
mất
những cơ hội thị trường.
Theo tài liệu SSC ( State Security Commission of Viet Nam) cung cấp sử dụng
trong hội thảo
“Quản trị rủi ro đối với Ngân hàng thương mại” tại thành phố Hồ Chí
Minh
ngày 4 -5/8/2006
thì
định nghĩa:
“
Rủi ro
trong kinh
doanh ngân hàng là
khả
năng một hành động hoặc một sự kiện nào đó có thể đem lại những kết quả bất lợi ảnh
4
tín dụng
hưởng trực tiếp đến nguồn thu nhập hay nguồn vốn của tổ chức hoặc tạo ra các trở
ngại ngăn cản tổ chức tiếp tục kinh doanh và tận dụng cơ hội tạo ra lợi nhuận”.
1.1.2.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Nền kinh tế phát triển ngân hàng càng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn để tạo
được lợi nhuận mong muốn, theo phạm trù rủi ro người ta phân loại thành 4 nhóm rủi
ro mà ngân hàng phải đối mặt.
Mô hình 1.1 Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Các loại rủi ro đối với ngân hàng
Rủi ro tài chính Rủi ro tác nghiệp Rủi ro kinh doanh Rủi ro sự cố
Cơ
cấu
lợi
nhuận
Mức
độ
vốn
Rủi
ro
T.khoản
Rủi
ro
thị
trường
Rủi
ro
lãi
suất
Rủi
ro
hối
đoái
Lừa
dối
nội
bộ
Lổi
trong
quá
trình
quản
lý
Hư
hỏng
tài
sản
Lừa
đảo
Rủi
ro
công
nghệ
Hành
vi
của
nhân
C/S
kinh
tế
vĩ
mô
Rủi
ro
quốc
gia
Tính
chấp
hành
pháp
luật
Hệ
thống
T/C
Hệ
thống
PLuật
Sự
kiện
chính
trị
Khủng
hoảng
ngân
hàng
Cú
sốc
bên
ngoài
khác
Bệnh
dịch
viên
Qua mô hình trên ta thấy ngân hàng có thể phân loại rủi ro trong hoạt động
kinh doanh theo 4 nhóm chinh, gồm : rủi ro tài chính, rủi ro hoạt động, rủi ro kinh
doanh/kinh tế, rủi ro sự cố. Trên thực tế khi nói đến các loại
rủi ro ngân hàng gặp
phải người ta
thường đề cập
đến các loại rủi
ro
như :
rủi
ro
thanh
khoản, rủi ro thị
trường, rủi ro tín dụng, rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất, rủi ro tác nghiệp, rủi ro tài sản.
Mỗi loại rủi ro có những đặc thù riêng song chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau
và đều ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
5
1.1.2.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Các loại rủi ro có mối quan hệ biện chứng với nhau, Một rủi ro này xảy ra sẽ
kéo theo một loạt các rủi ro khác, ví dụ một cán bộ tính dụng không chấp hành đúng
các quy chế nghiệp vụ ( rủi ro tác nghiệp) gây ra thất thoát tài sản ( tức là gây ra rủi ro
tín dụng và rủi ro thanh khoản…). Trong các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
thì rủi ro tác nghiệp là loại rủi ro ảnh hưởng nhiều nhất và bao trùm lên tất cả các loại
rủi ro. Đây là rủi ro từ con người, từ hệ thống nội bộ nên nó gắn liền với từng phòng
ban hiện có của ngân hàng. Chính vì vậy trong quản lý rủi ro nếu quản lý tốt rủi ro tác
nghiệp sẽ làm giảm thiểu nguy cơ xảy ra các rủi ro khác. Dưới đây là mô hình biểu thị
mối quan hệ giữa rủi ro tác nghiệp với các loại rủi ro khác:
Mô hình 1-2 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro cơ bản
RỦI RO TÍN
DỤNG
RỦI RO
THỊ
TRƯỜNG
RỦI RO TÁC NGHIỆP
RỦI RO
THANH
KHOẢN
RỦI RO TÀI SẢN
1.1.3
Rủi
ro
tác
nghiệp
trong
hoạt
động
kinh
doanh
ngân
hàng
1.1.3.1 Khái niệm về rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp phát sinh do hệ thống thông tin không hiệu quả, do sai sót kỹ
thuật,những
sai
phạm
trong
kiểm
soát
nội
bộ,
những
biến
cố
không
định
trước
hay
những vấn đề hoạt động khác có thể dẫn đến
mất mát không định trước hay những
vấn đề về danh tiếng. Phạm vi và
thời gian xảy ra những rủi ro tác nghiệp
rất rộng
lớn, nó có thể xảy ra bất kì lúc nào trong thời gian hoạt động của ngân hàng.
Theo Basel II: Rủi ro tác nghiệp là nguy cơ xảy ra tổn thất trực tiếp hay gián
tiếp
do các quy trình, con người và hệ thống nội bộ không đạt yêu cầu hoặc thất bại
6
hay do các sự kiện bên ngoài. Rủi ro tác nghiệp bao gồm cả rủi ro pháp lý nhưng loại
trừ rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín.
Như vậy, rủi ro tác nghiệp là do các nhóm yếu tố sau tạo ra, đó là: quy trình,
con người, hệ thống, các sự kiện bên ngoài và các vấn đề khác. Các nhóm yếu tố đó
được thể hiện như sau:
+ Quy trình: rủi ro tác nghiệp tăng theo mức độ phức tạp của giao dịch - Giao
dịch
có nhiều bước, nhiều
quy trình, hoặc nhiều mốc tham chiếu;
các giao
dịch
đòi
hỏi phải có kiểm soát nội bộ và phê duyệt; và các giao dịch không được xác định rõ
ràng hoặc không được thực hiện theo đúng chính sách quy định. Mọi bộ phận hay quy
trình
của
một
tổ
chức
tín
dụng
như
từ
việc
lập
kế
hoạch,
nhận
tiền
gửi,
huy
động
nguồn nhân lực thông qua tín dụng và các hợp động, ra quyết định đầu tư, xử lý giao
dịch… đều chịu rủi ro tác nghiệp.
+ Con người: Rủi ro tác nghiệp tăng lên cùng với sự tham gia của con người
vào hoạt động khởi tạo, phê duyệt, báo cáo hoặc điều chỉnh một giao dịch. Các khía
cạnh của rủi ro tác nghiệp bao gồm hành vi gian lận, lỗi, sự bỏ sót và lạm dụng của
nhân viên.
Ngân
hàng
càng
có
nhiều
nhân
viên,
nhiều
địa
điểm
giao
dịch
và
khách
hàng thì rủi ro tác nghiệp càng cao. Số lượng nhân viên tăng nhanh là dấu hiệu tăng
rủi ro tác nghiệp.
+
Hệ
thống:
đây
chỉ
là
một
phẩn
của
rủi
ro
tác
nghiệp
nhưng
lại
có
thể
ảnh
hưởng đến tất cả các loại rủi ro khác trong tổ chức tín dụng
+
Các
sự
kiện
bên
ngoài:
Các
yếu
tố
nằm
ngoài sự
kiểm
soát
của
ngân
hàng
cũng góp phần gây ra rủi ro tác nghiệp. Các vấn đề về cơ sở hạ tầng như: hệ thống
truyền dữ liệu, giao thông, điện, nước, điện thoại, các thay đổi về pháp lý, chính trị
ngay cả thời tiết khắc nghiệt cũng có thể tạo ra hoặc làm tăng thêm các rủi ro trong
ngân hàng.
+ Các vấn đề khác: Các vấn đề khác có ảnh hưởng đến rủi ro tác nghiệp
bao
gồm: số tiền của các giao dịch, số lượng các giao dịch, và số lượng các thay đổi và
7
một ngân hàng đang gặp phải (lãnh đạo mới, nhân viên
mới, sản phẩm mới,
nhưng
thay đổi về chương trình hệ thống….)
Các nhóm nhân tố trên tác động đến tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng do vậy mà rủi ro tác nghiệp tồn tai trong tất cả các dịch vụ và hoạt động kinh
doanh của ngân hàng cho nên có rất nhiều vấn đề liên quan đến rủi ro hoạt động như:
♣
Chiến lược kinh doanh
♣
Chính sách, các quy trình tác nghiệp
♣
Công tác tổ chức
♣
Các hoạt động nghiệp vụ, hoạt động hỗ trợ
♣
Nguồn nhân lực
♣
Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin
♣
Các biện pháp kiểm soát
♣
Công tác kiểm toán
Các biện pháp quản trị rủi ro tác nghiệp
sẽ được trình bày trên cơ sở quản lý
các vấn đề trên.
1.1.3.2 Phân loại rủi ro tác nghiệp
Dựa trên các yếu tố tác đông đến rủi ro tác nghiệp hay nói cách khác là dựa vào
nguyên nhân gây nên rủi ro tác nghiệp ta có thể chia rủi ro tác nghiệp thành các dạng
sau:
ϖ
Rủi
ro
từ
bên
trong
nội
bộ
ngân
hàng
¬
Rủi ro do cán bộ nhân viên ngân hàng gây nên
♣
Thực hiện các nghiệp vụ, nhiệm vụ không được ủy quyền hoặc phê duyệt vượt
quá thẩm quyền cho phép
♣
Không tuân thủ các quy định, quy trình nghiệp vụ của ngân hàng
♣
Không chấp hành nội quy cơ quan, hợp đồng lao động và các văn bản pháp luật
đối với người lao động nơi công sở như: an toàn lao động, thực hiện tiết kiệm chống
lãng phí, phòng chống tham nhũng
8
♣
Có hành vi lừa đảo hoặc hành vi phạm tội, cấu kết với đối tượng bên ngoài gây
thiệt hại cho ngân hàng.
¬
Rủi ro do các quy định, quy trình nghiệp vụ:
♣
Quy trình nghiệp vụ có nhiều điểm bất cập, chưa hoàn chỉnh tạo kẽ hở cho kẻ
xấu lợi dụng gây thiệt hại cho ngân hàng.
♣
Quy trình nghiệp vụ chưa phù hợp gây khó khăn cho cán bộ tác nghiệp trong
ngân hàng
¬
Rủi ro từ hệ thống hỗ trợ
Rủi ro từ hệ thông công nghệ thông tin : vấn đề bảo mật, chương trình hệ thống
lỗi thời không hợp lý, gián đoạn hệ thống truyền dữ liệu, hệ thống hỏng hóc…
¬
Rủi ro từ các hệ thống hỗ trợ khác
♣
Do việc chỉ đạo hướng dẫn và hỗ trợ chưa kịp thời, chưa hiệu quả, chồng chéo
gây khó khăn ách tắc cho bộ phận nghiệp vụ.
♣
Do cơ chế quản lý về công tác hỗ trợ chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu hỗ
trợ cho bộ phận nghiệp vụ
ϖ
Rủi
ro
do
tác
động
bên
ngoài:
¬
Rủi ro do hành vi lừa đảo, trộm cắp hoặc phạm tội của các đối tượng bên ngoài
ngân hàng như: trộm cắp, cướp. giả mạo giấy tờ, giả mạo séc….
¬
Rủi ro do các sự kiện bên ngoài hoặc do tự nhiên ( động đát, lũ lụt, bão….) gây
thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
¬
Rủi ro do các văn bàn, quy định của chính phủ, các ban ngành có liên quan có
sự thay đổi hoặc có những quy định mới làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của ngân hàng
1.1.3.3 Hậu quả của rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp không chỉ gây thiệt hại cho ngân hàng về mặt tài chính mà
còn gây ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, thương hiệu của ngân hàng. Một số hậu quả mà
ngân hàng gặp phải do rủi ro tác nghiệp gây ra:
9
Đối với hoạt động Marketting và bán hàng: Rủi ro tác nghiệp có thể đưa ngân
hàng rơi vào tình trạng khi đưa các sản phẩm mới mà không đảm bảo cơ sở hạ tầng
phù hợp do không áp dụng đúng các thủ tục phê duyệt sản phẩm mới.
Đối với hoạt động thanh toán: Hậu quả mà ngân hàng phải gánh chịu có thể là
không thanh toán được theo yêu cầu của khách hàng hoặc thanh toán nhầm đối tượng
thụ hưởng.
Đối với lĩnh vực công nghệ thông tin: Hậu quả mà ngân hàng phải gánh chịu có
thể là tình trạng mất kiểm soát hệ thống hoặc hệ thống cơ sở dữ liệu ngừng hoạt động.
Đối với hoạt động tài chính: Hậu quả của rủi ro tác nghiệp có thể là việc định
giá
tài
sản
sai,
các
báo
cáo
lãi
lỗ
không
hoàn
chỉnh,
các
khoản
mục
kế
toán
không
được đối chiếu.
Đối
với
hoạt
động
quản
lý
nhân
sự:
Hậu
quả
của
rủi
ro
tác
nghiệp
có
thể
là
hành vi vi phạm pháp luật trong vấn đề kết thúc hợp đồng lao động….
Đối
với
uy
tín
của
ngân
hàng:
Đối
xử
với
khách
hàng
không
tốt
dẫn
tới
mất
khách hàng hoặc tòa uy tín không tốt về ngân hàng, từ đó dẫn đến hậu quả làm mất
vốn hoặc làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
1.2 Quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
trong
các
ngân
hàng
thương
mại
1.2.1
Khái
niệm
về
quản
trị
rủi
ro
và
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
1.2.1.1 Khái niệm về quản trị rủi ro.
Theo ủy ban
Basel về
giám sát ngân hàng: “Quản trị
rủi ro
là một quá trình
liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính và yêu cầu bắt
buộc để các tổ chức tài chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra và duy trì khả năng
tồn tại và sự minh bạch về tài chính”.
Chúng
ta
có
thể
hiểu
quản
trị
rủi
ro
là
hệ
thống
cơ
bản
của
một
tổ
chức
tài
chính, bao gồm tất cả các hoạt động, tác động đén các loại rủi ro của tổ chức đó. Quản
trị rủi ro liên
quan đến việc
xác định,
đo lường, giám sát, kiểm
soát, quản lý rủi ro
nhằm đảm bảo:
10
¬
Các cá nhân liên quan đến rủi ro và có trách nhiệm quản lý rủi ro phải hiểu rõ
về rủi ro
¬
Rủi ro của một ngân hàng nằm trong giới hạn xác định bởi Hội đồng quản trị
¬
Rủi ro trong việc quyết định phải tương xứng với mục tiêu và chiến lược kinh
doanh do hội đồng quản trị đề ra
¬
Quỹ dự phòng bù đắp được các loại rủi ro dự kiến sẽ xảy ra
¬
Rủi ro trong việc quyết định phải rõ ràng minh bạch
¬
Có đủ vốn để bù đắp rủi ro
Hoạt động quản lý rủi ro nhằm mục đích xác định, đo lường và kiểm soát rủi ro
ở
mức
có
thể
chấp
nhận
được.
Hoạt
động
quản
lý
rủi
ro
hiệu
quả
có
thể
cho
phép
Ngân hàng đạt được tương quan hợp lý giữa rủi ro mà Ngân hàng mong muốn (ở mức
chấp
nhận
được)
với
rủi
ro
mà
Ngân
hàng
muốn
giảm
thiểu.
Khi
rủi
ro
được
kiểm
soát hợp lý thì ngân hàng sẽ có điều kiện tốt đa hóa lợi ích thu được từ những rủi ro
đó thông qua nhiều cách như chấp nhận, giảm nhẹ, loại bỏ, hay chuyển đổi rủi ro.
Việc quản trị rủi ro của ngân hàng phải tuân theo nguyên tắc sau:
¬
Nguyên tắc chấp nhận rủi ro
¬
Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép
¬
Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập
¬
Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính
¬
Nguyên tắc hiệu quả kinh tế
¬
Nguyên tắc hợp lý về thời gian
¬
Nguyên tắc
phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng
¬
Nguyên
tắc chuyển đẩy các rủi ro không cho phép
1.2.1.2 Khái niệm về quản trị rủi ro tác nghiệp
Quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
là
quá
trình
Tỏ
chức
tín
dụng
tiến
hành
các
hoạt
động tác động đến rủi ro tác nghiệp, bao gồm việc thiết lập cơ cấu tổ chức, xây dựng
hệ
thống
các
chính
sách,
phương
pháp
quản
lý
rủi
ro
tác
nghiệp
để
thực
hiện
quá
11
trình quản lý rủi ro đó là xác định, đo lường, đánh giá, quản lý, giám sát và kiểm tra
kiểm soát rủi ro tác nghiệp nhằm bảo đảm hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro xảy ra.
Quản trị rủi ro tác nghiệp hiệu quả không có nghĩa là rủi ro không sảy ra mà là
rủi ro có thể xảy ra nhưng xảy ra trong mức độ dự đoán trước và ngân hàng có thể
kiểm soát được.
Mục
đích
của
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
là
nhằm
tìm
hiểu
mức
độ
rủi
ro
tác
nghiệp của hệ thống, của tổ chức, tìm nguyên nhân dẫn đến rủi ro, phân phối nguồn
lực hỗ trợ và xác định các khuynh hướng bên ngoài cũng như bên trong giúp dự báo
được rủi ro để từ đó có giải pháp phòng ngừa, hạn chế. Việc quản lý rủi ro tác nghiệp
giúp
cho
ngân
hàng
ngăn
ngừa
sự
gian
lận,
giảm
thiểu
sai
sót
trong
quá
trình
giao
dịch, duy trì tính chính trực của quyền kiểm soát nội bộ…
1.2.2
Sự
cần
thiết
phải
thực
hiện
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
trong
xu
thế
thời
đại
ngày
nay
Trong xu thế ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập khu vực với các nước trên thế
giới đang phát triển mạnh mẽ, do đó hoạt động ngân hàng cũng có nhiều biến động và
tiềm
ẩn
nhiều
rủi
ro
trong
đó
có
rủi
ro
tác
nghiệp.
Tham
gia
hôi
nhập
quốc
tế
cón
nghĩa là chấp nhận sự đối đầu với rủi ro, do đó để tồn tại và phát triển được các ngân
hàng phải quản lý được rủi ro, ngoài những rủi ro mà người ta quen tới như : rủi ro tín
dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản… thì các ngân hàng cần đặc biệt quan tâm
đến một loại rủi ro khác tiềm ẩn và khó lường nhất đó là “rủi ro tác nghiệp”. Rủi ro
tác nghiệp có thể chuyển thẳng sang tổn thất nghiêm trọng, trực tiếp tới ngân hàng,
thậm chí làm rung chuyển hệ thống tài chính tiền tệ của đất nước, có những trường
hợp nghiêm trọng nó có thể làm đổ vỡ cả một hệ thống ngân hàng và tác động đến thị
trường tiền tệ thế giới.
Môi trường cạnh tranh càng gay gắt thì mức độ rủi ro tác nghiệp đang có xu thế
ngày càng gia tăng, điều này được giải thích bởi những lý do sau:
¬
Môi trường cạnh tranh gay gắt đồi hỏi chất lượng phải cao hơn, do đó áp lực về
công việc, về hiệu quả công việc cao lên
12
¬
Tốc độ và khối lượng giao dịch lớn lên trong quá trình xử lý, thao tác nghiệp vụ
có thể mắc lỗi, sai sót
¬
Sự
gia
tăng
của
các
dịch
vụ
ngân
hàng
điện
tử
(internet
banking,
phone
banking, auto bank, phone banking…) và kéo theo đó là một loạt các tội phạm mới
xuất hiện trong lĩnh vực ngân hàng
¬
Ngân
hàng
hiện
nay
đang
tích
cực
áp
dụng
các
công
nghệ
tiên
tiến
vào
hoạt
động kinh doanh để thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng. Song
hiện đại hóa càng cao thì hoạt động ngân hàng ngày càng phụ thuộc nhiều vào công
nghệ thông tin, và như vậy rủi ro đối với công nghệ sẽ ảnh hưởng ngay trực tiếp đến
hoạt động ngân hàng.
Từ sự phân tích trên cho thấy việc quản trị rủi ro tác nghiệp đối với ngân hàng
là cần thiết để ngân hàng tồn tại và phát triển bền vững.
1.2.3
Nội
dung
công
tác
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
của
ngân
hàng
thương
mại
1.2.3.1 Nhận diện rủi ro tác nghiệp
Trong ngân hàng thương mại tất cả các bộ phận đều có trách nhiệm phải thực
hiện đánh giá và xác định rủi ro nhằm phát hiện sớm, kịp thời những dấu hiệu rủi ro
trong quá trình tác nghiệp của mình, phân tích xác định mức độ ảnh hưởng và hậu
quả có thể xảy ra. Các ngân hàng thương mại nhận diện rủi ro tác nghiệp theo các
nội dung: nhận diện nguy cơ rủi ro, nguyên nhân gây ra rủi ro, đối tượng gây rủi
ro, mức độ rủi ro. Tủy theo các thức quản lý rủi ro của mình mà mỗi ngân hàng có
quy định phương thức nhận diện rủi ro tác nghiệp khác nhau, nhưng thông thường
nhận diện rủi ro tác nghiệp trong ngân hàng thương mại được thực hiện thông qua
7 nhóm dấu hiệu sau:
Nhóm dấu hiệu rủi ro liên quan đến mô hình tổ chức, cán bộ và an toàn nơi
làm việc.
Nhận diện nhóm dấu hiệu rủi ro có liên quan đến mô hình tổ chức, cán bộ và
an toàn nơi làm việc được thực hiện thông qua:
13
+ Rà soát, đánh giá thường xuyên về mô hình tổ chức bộ máy, cơ cấu các bộ
phận nghiệp vụ của chính ngân hàng.
+ Rà soát, đánh giá công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, đánh giá, phân
tích nguyên nhân cán bộ bỏ việc, chấm dứt hợp đồng lao động, đánh giá việc thực
hiện các quy định hay thỏa ước lao động, sức khỏe và an toàn lao động
+ Thu thập, đánh giá cán bộ về trìn độ học vấn; các chuyên ngành đã được
đào tạo; kinh nghiệm làm việc; kết quả thực hiện công việc; tuân thủ chấp hành các
quy định.
Thông qua phân tích, đánh giá các ngân hàng tìm ra các loại dấu hiệu rủi ro
như: rủi ro từ nhân viên, rủi ro từ chính sách tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ,
rủi ro từ
việc thực
hiện
chưa đúng các quy định của pháp luật đối
với
người
lao
động.
Nhóm dấu hiệu liên quan đến chính sách, quy định nội bộ:
Bất kỳ ngân hàng nào trong quá trình hoạt động cũng phái thường xuyên rà soát
cơ chế , chính sách, quy định nội bộ nhằm phát hiện, nhận diện các dấu hiệu rủi ro
như:
+ Thiếu hoặc quy định chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, chưa cụ thể, có kẽ hở tạo
điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng, gây tổn thất cho ngân hàng.
+ Những văn bản, quy định có sự chồng chéo, hoặc không thể thực hiện, những
bất hợp lý gây khó khăn cho người thực hiện.
+ Những văn bản, quy định có nội dung chưa đúng với quy định của pháp luật
hiện hành.
Nhóm dấu hiệu rủi ro liên quan đến gian lận nội bộ:
Liên quan đến nhóm dấu hiệu này, các ngân hàng sẽ phải thực hiện nhận diện
những dấu hiệu rủi ro như cán bộ tự thực hiện hoặc cấu kết với khách hàng để thực
14
hiện những hoạt động phạm pháp nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, hủy hoại uy tín
của ngân hàng.
Nhóm dấu hiệu rủi ro liên quan đến gian lận bên ngoài:
Ở nhóm dấu hiệu này các ngân hàng phải thực hiện việc nhận diện những dấu
hiệu rủi ro do các hành động có ý định gian lận, lừa đảo của khách hàng hoặc các đối
tượng bên ngoài khác, ví dụ như các hành vi cung cấp thông tin sai sự thật, làm giả hồ
sơ giao dịch
Nhóm dấu hiệu rủi ro tác nghiệp liên quan đến quá trình xử lý công việc:
Ngân hàng thương mại thực hiện việc theo dõi, thống kê đầy đủ, thường xuyên
các lỗi, sai sót phát sinh trong quá trình xử lý công việc của tất cả các bộ phận, xác
định các dấu hiệu rủi ro như: Thực hiện nghiệp vụ không được vượt quyền, vượt thẩm
quyền, không tuân thủ quy định, quy trình; kiểm soát không chặt chẽ…
Nhóm dấu hiệu rủi ro liên quan đến hệ thống công nghệ thông tin
Nhóm nhận diện dấu hiệu rủi ro liên quan đén hệ thống công nghệ thông tin là
việc ngân hàng theo dõi sự hoạt động của hệ thống ( bao gồm: phần cứng, hệ thống
bảo mật, thiết bị mạng, đường truyền, phần mềm nghiệp vụ…) thống kê theo dõi đầy
đủ các
lỗi,
sai sót,
các
sư
cố
của
hệ
thống công
nghệ
thông
tin
làm
ảnh hưởng đến
hoạt động của ngân hàng.
Nhóm dấu hiệu rủi ro liên quan đến thiệt hại tài sản
Nhận diện các dâu hiệu rủi ro liên quan đến thiệt hại tài sản là việc ngân hàng
xem xét, đánh giá
khả năng xảy ra các rủi ro như: phá hoại, khủng bố, thiên tai, động
đát, bão lũ, hoản hoạn.
1.2.3.2 Đo lường rủi ro tác nghiệp
Đo lường rủi ro tác nghiệp là việc xác định mức độ rủi ro của các laoij rủi ro tác
nghiệp. Rủi ro tác nghiệp là loại rủi ro rất khó nhận biết vì thế việc đo lường cũng rất
khó
khăn. Có hai phương pháp đo lường thường được sử dụng
đó là phương pháp
định tính và phương pháp định lượng:
15
Phương pháp định tính: Là việc phân tích đánh giá, nhận xét chủ quan của mỗi
ngân hàng thương mại về mực độ tốt – xấu, lớn – nhỏ; tính nghiêm trọng của các dấu
hiệu rủi ro đã được xác định. Phương pháp định tính được sử dụng để đo lường các
rủi ro liên quan đến mô hình tổ chức cán bộ và an toàn nơi làm việc; liên quan đến
chính sách và các quy trình nội bộ.
Phương pháp đo lường định lượng: Là việc đánh giá bằng số liệu cụ thể về mức
độ rủi ro ( xác suất xảy ra), tổn thất cụ thể của từng loại dấu hiệu rủi ro đã được xác
định. Phương pháp này chủ yếu dựa vào số liệu thống kê của Ngân hàng và được sử
dụng để đo lường rủi ro tác nghiệp liên quan đến các lĩnh vực như hệ thống thông tin;
các gian lận nội bộ hoặc bên ngoài.
1.2.3.3 Xây dựng và thực hiện kế hoạch phòng ngừa rủi ro tác nghiệp
Trên
cơ
sở
kết
quả
của
quá
trình
nhận
diện
và
đo
lường
rủi
ro,
ngân
hàng
thương mại cần
tiến
hành các
biện
pháp quản
lý
với cách thức
hiệu
quả. Trước
hết
ngân hàng cần phải làm là xác định rõ trách nhiệm của mình đối với việc quản trị rủi
ro tác nghiệp. Quản trị rủi ro tác nghiệp không nên được hiểu là công việc của một số
người hay của một bộ phận nào đó; mà đó là công việc, trách nhiệm của cả hệ thống
ngân hàng. Đặc biệt, các nhân viên là những người cần hiểu rõ về loại rủi ro này, sự
thiếu trách nhiệm của họ sẽ dẫn tới những hậu quả khó lường.
Khi ngân hàng đã xác định được trách nhiệm đối với việc quản lý rủi ro thì các
nhà quản trị rủi ro trong ngân hàng phải phân chia cấp độ quản lý rủi ro một cách rõ
ràng,
minh
bạch.
Quản
lý
rủi
ro
tác
nghiệp
được
phân
làm
3
cấp
quản
lý:
Cấp
độ
chiến lược, cấp độ vĩ mô và cấp vi mô.
Nội dung của phương án phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro tác nghiệp bao gồm:
Ban hành, sửa đổi, bổ sung chính sách, quy định, quy trình nghiệp vụ cho phù
hợp
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặc chẽ việc tuân thủ
Kế hoạch đào tạo hoặc tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ
Kế hoạch sửa chữa, khắc phục các sai sót
16
Các hành động phòng tránh rủi ro hoặc dừng hoạt động có thể gây ra rủi ro
Xây dựng kịch bản và thực hiện diễn tập Stress Testing, phương án giảm thiểu
rủi ro đối với các sự cố bất ngờ
Rà soát, chỉnh sửa, ban hành bổ sung các chế tài xử lý đối với các hành vi vi
phạm trong quá trình tác nghiệp
Mua bảo hiểm hoặc thực hiện các biện pháp khác để giảm thiểu rủi ro
Kế hoạc phân bổ vốn để phòng ngừa rủi ro tác nghiệp
Toàn
bộ
hoạt
động
quản
trị
rủi
ro
tác
nghiệp
của
ngân
hàng
được
khái
quát
thông qua sơ dồ sau:
Sơ đồ 1-3: Quy trinh quản trị rủi ro tác nghiệp
CÁC RỦI RO CÓ
THỂ CHẤP NHẬN
CÁC RỦI RO
ĐÃ NHẬN
DIỆN
CÁC RỦI RO
CHỦ YẾU
CÁC RỦI RO
ĐƯỢC
CÁC RỦI RO
KHÔNG THỂ
CHẤP NHẬN
ĐƯỢC
1.2.3.4 Báo cáo rủi ro tác nghiệp
KIỂM SOÁT
CHUYỂN
GIAO TRÁNH
CHƯA ĐƯỢC
NHẬN DIỆN
Ban điều hành quản trị rủi ro tác nghiệp phải đảm bảo rằng các thông tin quản
lý rủi ro sẽ được thể hiện bằng hệ thống các báo cáo, được lập bởi những người có
trách nhiệm gửi tới một cách kịp
thời theo
một hình thức hoặc thủ tục hỗ trợ trong
việc giám sát và kiểm soát công việc. Nội dung báo cáo gồm các thông tin sau: Rủi ro
tác nghiệp nghiêm trọng gặp phải; những sự cố và hậu quả rủi ro cùng với những dự
tính để khắc phục; sự hiệu quả của những hành động được đề ra; các chi tiết của kế
17
hoạch hình thành chuẩn bị để ghi nhận bất kỳ rủi ro nào khi phát sinh; các khu vực áp
lực nơi thể hiện rủi ro tác nghiệp sắp xảy ra và từng bước kiểm soát rủi ro tác nghiệp.
1.2.3.5 Kiểm soát rủi ro tác nghiệp
Ngân hàng cần được củng cố thông quan văn hóa kiểm soát rủi ro mạnh để thúc
đẩy việc thi hành quản lý rủi ro có hiệu quả. Mục tiêu của kiểm soát rủi ro tác nghiệp
là nhằm:
Cải
tiến
khả
năng
phát
hiện
sớm
các
rủi
ro
chưa
được
phát
hiện,
chưa
được
kiểm soát hoặc đang bị coi nhẹ
Đánh giá tốt hơn khả năng chấp nhận rủi ro đã được phát hiện
Xây dựng các biện pháp kiểm soát thay thế có hiệu quả hơn đối với các rủi ro
không thể chấp nhận
Triển khai sớm hơn và tốt hơn các hành động nhằm giảm nhẹ rủi ro và các biện
pháp để tránh tổn thất
1.2.3.6
Phân bổ vốn cho quản lý rủi ro tác nghiệp.
Theo Ủy ban Basel, có ba phương pháp để tính toán yêu cầu về vốn cho rủi ro
tác nghiệp, theo thứ tự gia tăng dần về mức độ phức tạp và sự nhảy cảm với rủi ro: (i)
Phương pháp Chỉ số Cơ bản; (ii) Phương pháp Chuẩn hóa; và (iii) Phương pháp Đo
lường Tiên tiến (AMA).
Cùng với quá trình phát triển dần độ phức tạp của các hệ thống và quy tắc đo
lường
rủi
ro
tác
nghiệp
trong
ngân
hàng
mình,
các
ngân
hàng
được
khuyến
khích
chuyển
lên
áp
dụng
các
phương
pháp
phức
đo
lường
phức
tạp
hơn
trong
dẫy
các
phương pháp nêu trên. Các tiêu chuẩn để một ngân hàng được phép áp dụng Phương
pháp Chuẩn hóa và Phương pháp Đo lường Tiên tiến bao gồm:
Các ngân hàng hoạt động trên phạm vi quốc tế và các ngân hàng có mức độ rủi
ro cao (ví dụ như các ngân hàng chuyên thực hiện nghiệp vụ thanh toán) cần áp dụng
phương pháp sao cho phù hợp với mức độ rủi ro và tính phức tạp của ngân hàng. Một
ngân
hàng
sẽ
được
phép
sử
dụng
Phương
pháp
Chỉ
số
cơ
bản
hoặc
Phương
pháp
Chuẩn hóa cho một số bộ phận hoạt động và Phương pháp Đo lường Tiên tiến (AMA)
18
cho những lĩnh vực hoạt động khác, với điều kiện là ngân hàng đó đáp ứng được các
chỉ tiêu tối thiểu nhất định.
Các
ngân
hàng
không
được
lựa
chọn
quay
trở
lại
với
phương
pháp
đo
lường
đơn giản hơn khi đã áp dụng một phương pháp tiên tiến hơn, nếu như không có sự phê
chuẩn của Cơ quan quản lý ngân hàng. Ngoài ra, nếu Cơ quan quản lý ngân hàng xác
định rằng một ngân hàng sử dụng một phương pháp tiên tiến không còn đáp ứng được
các tiêu chuẩn đề ra cho phương pháp ấy, thì Cơ quan quản lý ngân hàng ấy có thể
yêu cầu ngân hàng áp dụng trở lại phương pháp đơn giản hơn trong một vài hoặc toàn
bộ lĩnh vực hoạt động của ngân hàng cho đến khi ngân hàng đáp ứng được điều kiện
do Cơ quan quản lý ngân hàng ra để được phép áp dụng phương pháp tiên tiến hơn.
Phương
pháp
Chỉ
số
cơ
bản.
Các ngân hàng sử dụng Phương pháp Chỉ số Cơ bản phải duy trì vốn tự có cho
rủi ro tác nghiệp tương ứng bằng một tỷ lệ cố định nào đó (ký hiệu: α) của lợi nhuận
gộp hàng năm bình quân, trong thời gian 3 năm. Phần vốn này được tính theo công
thức sau:
KBIA
=
GI
x
α
Trong đó:
K
BIA : Yêu cầu về vốn trong Phương pháp Chỉ số Cơ bản.
GI: Lợi nhuận gộp hàng năm bình quân trong ba năm trước đó.
α = 15%
Tỷ lệ này do Ủy ban Basel đặt ra, phản ánh mối liên hệ giữa lượng
vốn yêu cầu chung của toàn ngành với chỉ số chung của toàn ngành.
Lợi nhuận gộp được tính bằng doanh thu lãi ròng cộng với doanh thu phí ròng.
Hiệp ước Basel mới không đặt ra các điều kiện cụ thể để được phép áp dụng
Phương pháp Chỉ số Cơ bản đối với các ngân hàng. Tuy nhiên các ngân hàng sử dụng
phương
pháp
này
được
khuyến
khích
tuân
theo
hướng
dẫn
của
Ủy
ban
Basel
về
Thông lệ tốt cho Quản lý và Giám sát Rủi ro Tác nghiệp, tháng 2/2003.
Phương
pháp
Chuẩn
hóa
19
Trong
Phương
pháp
Chuẩn
hóa,
các
hoạt
động
ngân
hàng
được
chia
thành
8
mảng
dịch
vụ:
tài
chính
doanh
nghiệp,
thương
mại
&
bán
hàng,
ngân
hàng
bán
lẻ,
ngân hàng thương mại, thanh toán, dịch vụ đại lý, quản lý tài sản và môi giới bán lẻ.
Trong mỗi mảng dịch vụ, lợi nhuận gộp là một số chỉ số phản ánh quy mô hoạt
động của mảng dịch vụ đó, do vậy, cũng phản ánh mức độ rủi ro tác nghiệp của mỗi
mảng dịch vụ. Yêu cầu về vốn cho mỗi mảng dịch vụ được tính bằng việc nhân lợi
nhuận gộp với một hệ số (hệ số β) áp dụng cho mảng dịch vụ đó. Hệ số β phản ánh
tương quan trong phạm vi toàn ngành giữa các tổn thất từ rủi ro tác nghiệp ghi nhận
trong thực tế với quy mô lợi nhuận gộp của ngành ấy với mỗi loại hình dịch vụ. Cần
phải lưu ý rằng, trong Phương pháp Chuẩn hóa, lợi nhuận gộp được đo lường cho mỗi
mảng
dịch
vụ,
chứ
không
tính
chung
cho
cả
ngân
hàng,
cụ
thể
là:
trong
mảng
tài
chính
doanh nghiệp,
chỉ
số
này là
toàn bộ
lợi nhuận
gộp
thu
được
từ
hoạt
động tài
chính doanh nghiệp của ngân hàng.
Tổng số yêu cầu về vốn được tính bằng cách cộng các yêu cầu về vốn của mỗi
mảng dịch vụ với nhau. Tổng yêu cầu về vốn có thể được biểu diễn bằng công thức
sau:
KTSA
=
∑(
GI
1-8
x
β
1-8
)
Trong đó:
K
TSA : yêu cầu về vốn theo Phương pháp Chuẩn hóa.
GI
1-8 : Lợi nhuận gộp hàng năm bình quân của ba năm gần nhất, được xác định
như trong Phương pháp Chỉ số Cơ bản nêu trên, cho mỗi một trong 8 mảng nghiệp vụ.
β
1-8 : Là một tỷ lệ phần trăm cố định cố định, do Ủy ban Basel quy định, phản
ánh mối quan hệ giữa lượng vốn yêu cầu với lợi nhuận gộp của mỗi một mảng nghiệp
vụ. Chi tiết các giá trị của β như sau:
Hệ
số
β
cho
mỗi
mảng
nghiệp
vụ.
Tài chính Doanh nghiệp (
β
1
) 18%
Thương mại và Bán hàng (
β
2 ) 18%
20
Ngân hàng bán lẻ (
β
3 ) 12%
Ngân hàng thương mại (
β
4 ) 15%
Thanh toán (
β
5 ) 18%
Dịch vụ đại lý (
β
6 ) 15%
Quản lý tài sản (
β
7 ) 12%
Môi giới bán lẻ (
β
8 ) 12%
Phương
pháp
Đo
lường
Tiên
tiến
(AMA).
Trong phương pháp AMA, yêu cầu về vố pháp định sẽ bằng độ lớn của rủi ro
theo kết quả đo lường của hệ thống đo lường rủi ro tác nghiệp của ngân hàng, với điều
kiện
hệ
thống
đó
đạt
được
các
tiêu
chuẩn
định
tính
và
định
lượng
đối
với
Phương
pháp AMA. Các ngân hàng chỉ được áp dụng Phương pháp AMA sau khi được Cơ
quan quản lý ngân hàng cho phép.
Để
đủ
điều
kiện
áp
dụng
phương
pháp
Chuẩn
hóa
hoặc
Phương
pháp
AMA,
ngân hàng cần chứng minh với Cơ quan quản lý ngân hàng rằng, ít nhất:
♣
Hội
đồng
Quản
trị
và
Ban
điều
hành
cao
cấp
của
ngân
hàng,
tùy
từng
trường hợp, đóng vai trò tích cực trong việc giám sát hoạt động quản lý rủi ro.
♣
Ngân
hàng
phải
có
một
hệ
thống
quản
lý
rủi
ro
tác
nghiệp
trên
một
nguyên lý đúng đắn và được thi hành một cách toàn diện và đồng bộ.
♣
Ngân
hàng
có
đủ
nguồn
lực
cho
việc
sử
dụng
phương
pháp
được
lựa
chọn trong những mảng nghiệp vụ chính, cũng như trong lĩnh vực kiểm soát và kiểm
toán.
Cơ quan quản lý ngân hàng có quyền áp đặt thời gian giám sát ban đầu của việc
áp dụng Phương pháp Chuẩn hóa cho một ngân hàng trước khi nó được sử dụng cho
mục tiêu tính toán mức vốn pháp định cần thiết.
Phương pháp AMA cũng đòi hỏi một thời gian giám sát ban đầu của Cơ quan
quản lý ngân hàng trước khi nó được sử dụng để xác định lượng vốn cần thiết. Thời
hạn này sẽ cho phép Cơ quan quản lý ngân hàng đánh giá
xem phương pháp ấy có
21