Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Luận văn thạc sỹ: Nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý nợ có vấn đề tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 98 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã chính thức đánh dấu sự ra đời và
phát triển khoảng trên 15 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng đường trên, các
Ngân hàng thương mại Việt Nam đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn điều lệ
không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và hiệu quả
trong kinh doanh. Bên cạnh những mặt tích cực Ngân hàng thương mại Việt Nam
vẫn còn quá nhiều điểm yếu kém và tồn tại, trong đó nợ xấu cao, thanh khoản yếu
và quản trị kém chính là những vấn đề cần chú ý trong Đề án Tái cấu trúc ngân
hàng được Chính phủ phê duyệt tháng 03/2012, trong đó xử lý nợ xấu, nợ có vấn
đề là một trong những ưu tiên hàng đấu phải thực hiện.
Với bất cứ quốc gia nào, vấn đề xử lý nợ xấu, nợ có vấn đề của ngân hàng luôn
khó khăn và phức tạp. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Theo Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu toàn ngân hàng vào cuối quý I/2012 khoảng 8,6%,
trong khi Fitch Ratings ước lượng nợ xấu của Việt Nam khoảng 12 -13% và theo
một số nghiên cứu trong nước là khoảng 10%.
Nếu chỉ dựa vào tỷ lệ nợ xấu 10% và tỷ trọng tài sản cho vay trên tổng tài sản
của toàn ngành ngân hàng là 60%, thì 10% nợ xấu đang tác động nghiêm trọng đến
khoảng một nửa tổng vốn chủ sở hữu của toàn ngân hàng Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế đó, đặc biệt là tầm quan trọng của hoạt động xử lý nợ xấu
trong quá trình tái cơ cấu tài chính của Ngân hàng, đề tài nghiên cứu “Nâng cao
hiệu quả hoạt động xử lý nợ có vấn đề tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam” thực sự mang tính cấp thiết và có tính thực tiễn cao nhằm giải quyết được
thách thức mà các Ngân hàng thương mại đang phải đối mặt.
2. Mục đích nghiên cứu luận văn
Luận văn nghiên cứu về nợ có vấn đề và các mô hình xử lý nợ xấu, nợ có vấn
đề trong công tác kinh doanh ngân hàng thương mại và kinh nghiệm xử lý nợ của
các quốc gia trên thế giới đã và đang áp dụng.
Sau khi tìm hiểu tổng quan về công tác xử lý nợ có vấn đề luận văn tập trung đi
sâu tìm hiểu, phân tích, đánh giá hiệu quả công tác xử lý nợ có vấn đề trong Ngân


hàng Ngoại thương trong thời gian qua, những mặt đạt được, những khó khăn,
vướng mắc gặp phải trong công tác xử lý nợ có vấn đề tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam (Ngân hàng Ngoại thương).
2
Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra những giải pháp mang tính thực tiễn để góp phần
nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác xử lý nợ có vấn đề trong bối cảnh nền kinh
tế đang thực hiện tái cấu trúc ngân hàng, mà xử lý nợ Có vấn đề là một yêu cầu cấp
bách và được ưu tiên chú trọng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác xử lý nợ Có vấn đề tại Ngân
hàng Ngoại thương. Luận văn tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp, các
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý nợ Có vấn đề tại Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam.
Các số liệu mà luận văn sử dụng để phân tích, đánh giá là các số liệu thực tế của
Ngân hàng Ngoại thương, được thống kê và cập nhật đến 30/06/2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm tận
dụng ưu điểm của từng phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm phương pháp
thu thập số liệu, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích và so sánh số liệu;
bên cạnh đó, các phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu và kinh nghiệm của bản
thân cũng như các nhà nghiên cứu tài chính tiền tệ cũng được sử dụng trong đề tài
này.
Ngoài ra, cơ sở dữ liệu thứ cấp cũng được sử dụng có chọn lọc nhằm giúp luận
văn có thể phân tích và đánh giá vấn đề một cách khách quan nhất. Nguồn dữ liệu
thứ cấp này chủ yếu được thu thập từ báo cáo phân loại nợ, báo cáo nợ có vấn đề,
báo cáo thu hồi nợ đã sử dụng dự phòng rủi ro của toàn bộ 80 chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương trên toàn quốc cũng như báo cáo kết quả công tác kinh doanh của
Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian từ năm 2007 đến tháng 06/2012.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm ba chương chính:

- Chương 1: Tổng quan về nợ có vấn đề và xử lý nợ có vấn đề trong hoạt động
kinh doanh Ngân hàng.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động xử lý Nợ có vấn đề tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý nợ có vấn đề tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NỢ CÓ VẤN ĐỀ VÀ XỬ LÝ NỢ CÓ VẤN ĐỀ
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về nợ có vấn đề
1.1.1. Khái niệm về nợ có vấn đề
Trong các sách giáo khoa về tài chính, các nhà kinh tế đã đưa ra một số dịnh
nghĩa về nợ xấu (bad debt), nợ quá hạn (non-performing loan), nợ có vấn đề
(doubtful debd). Đó là những khoản nợ mà khách hàng ít có khả năng trả lại cho
chủ nợ, và do đó giá trị kỳ vọng thu hồi thấp hơn so với khoản nợ gốc ban đầu.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, Nợ có vấn đề là các khoản tín dụng cấp cho khách
hàng không thu hồi được hoặc có dấu hiệu có thể không thu hồi được theo đúng
cam kết trong hợp đồng tín dụng. Nợ có vấn đề được hiểu theo nghĩa rộng không
chỉ những khoản vay đã quá hạn thanh toán, thanh toán không đúng kỳ hạn (nợ quá
hạn thông thường, nợ khó đòi, nợ chờ xử lý, nợ khoanh, nợ tồn đọng) mà bao gồm
cả những khoản vay trong hạn nhưng có những dấu hiệu không an toàn có thể dẫn
tới rủi ro.
Tại Ngân hàng Ngoại thương, theo Quyết định số 106/QĐ-NHNT.CSTD ngày
07/04/2009 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam quy định
của ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam về quản lý và xử lý các khoản nợ có
vấn đề, nợ có vấn đề được định nghĩa như sau:
- Khách hàng có nợ xấu theo quy định về phân loại nợ, trích lập và xử lý dự phòng
rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và NHNT trong từng thời kỳ.
- Khách hàng có nợ đã được xử lý DPRR chưa thu đang hạch toán ngoại bảng.

- Khách hàng chưa bị phân loại thành nợ xấu, nhưng có một hoặc các dấu hiệu
rủi ro sau đây:
• Hoạt động sản xuất, kinh doanh bị gián đoạn, ngừng trệ (do mất khách hàng, sản
phẩm mất khả năng cạnh tranh, đình công, liên tục thua lỗ, ngành/lĩnh vực kinh
doanh gặp rủi ro…)
• Gặp khó khăn trong đầu tư (dự án đầu tư bị ngừng trệ, dừng triển khai…)
4
• Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến mất cân đối tài chính (sử dụng vốn
ngắn hạn để đầu tư trung dài hạn, sử dụng vốn vay sai mục đích…)
• Khách hàng không có thiện chí hợp tác (không cung cấp kịp thời báo cáo theo yêu
cầu, trốn tránh hoặc có hành vi che dấu thông tin, không có thiện chí tận thu mọi
nguồn để trả nợ…)
• Khách hàng hoặc người đại diện theo pháp luật, người điều hành của khách hàng bị
khởi tố, khởi kiện có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
• Khách hàng có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng khác.
Các Ngân hàng lớn trên thế giới hiện nay phân loại nợ xấu gắn với nguyên nhân
xảy ra để xác định mức độ rủi ro tương ứng. Theo một số tiêu chí của NHTƯ Liên
minh Châu Âu, có thể xác định nợ có vấn đề của các NHTM như sau:
+ Những khoản nợ không thể thu hồi được:
(i) Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc không có căn cứ đòi bồi thường;
(ii) Người mắc nợ bỏ trốn hoặc mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ;
(iii) Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ
nhưng vẫn còn lại không thể đền bù, hoặc những khoản nợ được thanh toán bằng
cách bán tài sản thế chấp nhưng vẫn chưa trang trải toàn bộ nợ;
(iv) Những khoản nợ mà người mắc nợ chấm dứt HĐKD hoặc thanh lý tài sản
hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
+ Những khoản nợ có thể không thanh toán toàn bộ cho NH:
(i) Những khoản nợ mà NH không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể
tìm được người mắc nợ;
(ii) Những khoản nợ mà người trả nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu sắp xếp lại

lịch trả nợ nhưng không đền bù được nợ trong thời gian thỏa thuận;
(iii) Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ và hoàn trả khi
đến hạn, hoặc tài sản thế chấp ở Ngân hàng không hợp pháp và HĐKD của người
mắc nợ bị thua lỗ trong một vài năm, hoặc việc kinh doanh bị chấm dứt, hoặc đang
trong quá trình thanh lý tài sản và điều đó cho thấy khách hàng không thể trả nợ cho
Ngân hàng đầy đủ;
5
(iv) Những khoản nợ đến hạn thanh toán và hoàn cảnh cho thấy sự can thiệp
của Tòa án phải được thực hiện đến cùng hoặc Tòa án can thiệp buộc việc trả nợ
phải được thực hiện;
(v) Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ bị phá sản và NH đã
yêu cầu trả nợ và cho rằng phần bồi hoàn sẽ ít hơn dư nợ.
 Theo quan điểm của Việt Nam
Các khoản nợ phát sinh trong HĐKD của Ngân hàng bao gồm: (i) các khoản
cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính; (ii) các khoản chiết khấu, tái
chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác; (iii) các khoản bao thanh toán và
(iv) các hình thức tín dụng khác. Trong đó, nợ xấu là các khoản nợ mang đặc trưng:
(i) Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với Ngân hàng khi các cam
kết này đến hạn;
(ii) Tình hình tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến việc
Ngân hàng có thể không thu hồi được cả vốn lẫn lãi;
(iii) TSBĐ (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…) được đánh giá là giá trị phát mãi
không đủ trang trải nợ gốc và lãi;
(iv) Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
1.1.2. Phân loại nợ có vấn đề
Người ta phân loại nợ có vấn đề chủ yếu dựa trên các đánh giá về khả năng
thu hồi của các khoản vay. Đối với các khoản nợ mà có các dấu hiệu như đến kỳ trả
nợ, trả lãi mà khách hàng trả chậm hay có những dấu hiệu chần chừ trong việc trả
nợ cho ngân hàng thì có thể xếp các khoản vay đó vào các khoản nợ có vấn đề. Hiện
nay, đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam phân loại nợ đang thực hiện theo

Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và Quyết định 18/2007/QĐ-
NHNN ngày 25/4/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, phạm vi
phân loại nợ là các loại nợ tín dụng bao gồm: Cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính,
chiết khấu. Các phương pháp phân loại nợ:
a) Phân loại nợ theo phương pháp định lượng Theo điều 6 Quy định 18/2007/QĐ-
NHNN Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
6
dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD thì Nợ được phân chia thành 5 nhóm
như sau :
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu
hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ gốc, lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn
còn lại.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là
doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về
khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2.
- Các khoản nợ khác được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn dưới 30 ngày.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo

thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2.
- Các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn từ 30 đến 90
ngày.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
7
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần thứ 2.
b) Phân loại nợ theo phương pháp định tính Theo điều 7 Quy định số
493/2005/Q§-NHNN về ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng , để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm
khả năng trả nợ.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được
tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
khả năng tổn thất cao.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tuy nhiên, do nợ có vấn đề được xử lý và thu hồi được chủ yếu khi các khoản
nợ nhóm 1, 2 đã chuyển nhóm nợ xấu, vì vậy khái niệm Nợ Có vấn đề được phân
tích trong luận văn chỉ bao gồm các khoản nợ Xấu thuộc các nhóm 3,4,5 trong báo
cáo phân loại nợ theo quyết định 493 của NHNN và các khoản nợ đã được sử dụng

DPRR.
1.1.3. Nguyên nhân phát sinh các khoản nợ CVĐ trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng
Về cơ bản, các khoản nợ được xem là nợ CVĐ là những khoản cho vay đã quá
hạn, không thu hồi được hay các khoản nợ được xử lý DPRR để theo dõi ngoại
bảng. Mặc dù các khoản cho vay xấu và các tổn thất là kết quả của nhiều yếu tố
nhưng nhìn chung, chúng là kết quả của sự không sẵn lòng hoàn trả nợ vay của
8
người vay, hay không có khả năng kiếm được lợi nhuận để giảm bớt dư nợ hoặc
hoàn trả toàn bộ nợ, như đã thỏa thuận. Có thể kể đến một vài nguyên nhân dẫn đến
việc phát sinh các khoản nợ CVĐ trong HĐKD Ngân hàng như sau:
 Nguyên nhân khách quan:
Trong hoạt động kinh doanh những tai hoạ và rủi ro do thiên tai, ví dụn như:
đầu tư trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi những khi gặp bão lụt hay dịch bệnh
nhiều khi mất trắng. Nhưng những biến động của thiên nhiên có tính chất chu kỳ
hoặc theo mùa thì đối với nhà kinh doanh có sự quan tâm nghiên cứu dự báo đều
có thể tránh hoặc hạn chế thiệt hại.
Bên cạnh đó, quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế cũng
đem đến nhiều rủi ro tất yếu. Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, khiến nhiều
khách hàng của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc
khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải
nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn
sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
- Nguyên nhân từ các chính sách vĩ mô của nhà nước
Kinh doanh tiền tệ là ngành kinh doanh có ảnh hưởng rất nhiều đến sự ổn định
và phát triển của nền kinh tế, do đó hoạt động ngân hàng cũng chịu sự điều tiết về
pháp lý của nhà nước trong đó hoạt động tín dụng ngân hàng là đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp. Khi hành lang pháp lý chưa an toàn, môi trường kinh doanh kém
lành mạnh và những chính sách thường thay đổi, thiếu đồng bộ sẽ gây những ánh

tắc, hệ luỵ nặng nề cho hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng
nói riêng. Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều Luật liên quan đến hoạt
động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, Luật và các Văn bản đã có song việc triển khai
vào hoạt động ngân hàng vẫn còn chậm và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập
- Do thông tin bất đối xứng: Thông tin không cân xứng trên thị trường tài
chính dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đã đặt các NH trước nguy
9
cơ rủi ro cao. Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của
người đi vay và gây ra thiệt hại hoặc mang đến thành công đối với người cho vay.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng: Nguyên nhân từ phía người đi vay là
một trong những nguyên nhân chính gây ra nợ có vấn đề. Thông thường do khách
hàng gặp rủi ro trong kinh doanh của người đi vay: Rủi ro kinh doanh của doanh
nghiệp được thể hiện ở mức độ biến động ít hay nhiều theo chiều hướng xấu của kết
quả kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc xây
dựng và triển khai các phương án, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp không khoa học, việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng không phù
hợp. Các thiệt hại doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung
cấp, thị trường tiêu thụ
Nhìn chung đối với các nguyên nhân này ngân hàng có thể xác định được
thông qua quá trình tìm hiểu, nắm vững “tình hình sức khỏe của khách hàng” trýớc,
trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả của
phương án sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác thuộc về khách hàng vay như khách
hàng sử dụng vốn sai mục đích, hoặc khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng như lập
hồ sơ giả, làm giả giấy tờ tài sản thế chấp để vay tiền ngân hàng Nội bộ khách
hàng không đoàn kết nhất trí, tồn tại mâu thuẫn trong công tác quản lý cũng khiến
cho hoạt động bị ngừng trệ, sản xuất bị đình đốn, không có tiền trả nợ ngân hàng.
 Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng
- Do sự yếu kém trong công tác điều hành quản trị

Yếu tố con người đóng vai trò quyết định trong kinh doanh khi môi trường
kinh doanh ngày càng được quốc tế hoá và cạnh tranh quyết liệt như ở nước ta hiện
nay. Nhiều nhà quản trị chưa đủ các điều kiện để điều hành ngân hàng, chưa được
đào tạo một cách cơ bản, không nắm bắt nhanh kịp thời thông tin thay đổi, thiếu bản
lĩnh trong điều hành, chưa am hiểu pháp luật, bố trí nhân sự không phù hợp với
trách nhiệm, Một số ngân hàng áp dụng việc giải quyết cho vay theo kiểu “trực
tuyến cá nhân” từ cán bộ tín dụng đến trưởng phòng tín dụng đến giám đốc. Thực
tế, việc áp dụng tổ chức cho vay này thì quyền lực tập trung vào giám đốc còn trách
10
nhiệm của cá nhân bên dưới thường không rõ ràng, từ đó dẫn đến thiếu tinh thần
trách nhiệm, dễ xảy ra rủi ro tín dụng
- Do cán bộ không thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ
Quy trình cho vay ở hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay là tương đối
đầy đủ và phù hợp với cơ chế thị trường và quy định pháp luật nhằm đảm bảo an
toàn vốn vay cho tổ chức tín dụng
Quy trình nghiệp vụ cho vay phải tuân thủ các nguyên tắc:
- Vốn vay phải bảo đảm bằng giá trị vật tư, hàng hóa tương đương. Cho vay phải
hoàn trả vốn, trả lãi đúng hạn và sử dụng vốn vay đúng mục đích.
- Cho vay phải tuân thủ các điều kiện: lập hồ sơ vay, có tài sản đảm bảo
- Phải tuân thủ chặt chẽ các bước kiểm tra, kiểm soát ở các công đoạn trước, trong và
sau khi cho vay.
Tuy nhiên, khi thực hiện cho vay vì nhiều lý do khác nhau mà cán bộ tín dụng
đã bỏ qua các quy trình nghiệp vụ, việc kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ ngân hàng
còn bộc lộ nhiều hạn chế từ việc thẩm định cho vay đến việc bảo lãnh vay vốn, bảo
lãnh mở L/C
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi
cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách
chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm
quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy

nhiên, trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này do
một phần yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng,
một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh của các khách hàng quá
lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
- Do nhân viên ngân hàng thái hoá về đạo đức, biến chất, tư lợi:
Một số trường hợp cán bộ tín dụng hoặc lãnh đạo ngân hàng cấu kết với khách
hàng, xảy ra những tiêu cực trong cho vay thì thì nguy cơ xảy ra rủi ro đối với món
vay đó là rất cao. Không phải do trình độ năng lực yếu kém, không đủ sức thẩm
định độ tin cậy của dự án hay phương án xin vay mà do tư lợi, đạo đức phẩm chất
11
của một số cán bộ ngân hàng có chiều hướng thái hoá biến chất. Mặc dù luật pháp,
quy chế nghiệp vụ và những ràng buộc khác có chặt chẽ đến đâu họ vẫn tìm cách vi
phạm và rủi ro xảy ra.
Tóm lại, các nguyên nhân gây ra nợ CVĐ rất đa dạng, có những nguyên nhân
khách quan và những nguyên nhân do chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Những
nguyên nhân chủ quan, do các chủ thể có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng
và ngân hàng có thể kiểm soát được nếu có những biện pháp thích hợp.
1.1.4. Vai trò của công tác xử lý Nợ có vấn đề trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng
Công tác xử lý nợ CVĐ là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu trong
chương trình cải cách các công tác của ngân hàng. Nó giữ vai trò rất quan trọng đối
với sự tồn tại phát triển và uy tín của Ngân hàng bởi các lý do sau:
(i) Xử lý nợ CVĐ của NHTM là một trong những vấn đề quan trọng mà bất
kỳ quốc gia nào cũng quan tâm tới, kể cả các nước có nền kinh tế mới nổi hay các
nước có nền kinh tế đã phát triển. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, quá trình hội
nhập vào thị trường tài chính quốc tế và tự do hóa tài chính làm cho môi trường
cạnh tranh khốc liệt và rủi ro hơn. Các NHTM phải tự nâng cao năng lực tài chính
của mình để có thể cạnh tranh được với các Ngân hàng bạn. Do đó, hầu hết các
Ngân hàng đều chú trọng đến công tác quản lý và xử lý các khoản nợ CVĐ phát
sinh bởi chúng ảnh hưởng bất lợi đến thanh khoản của Ngân hàng và gia tăng thiệt
hại trong hoạt động kinh doanh.

(ii) Nợ CVĐ lớn sẽ dẫn đến vốn của Ngân hàng bị “đóng băng” không thu hồi
được để tiếp tục quay vòng kinh doanh, gây ảnh hưởng xấu đến HĐKD của Ngân
hàng.
(iii) Thêm vào đó, một khi nợ xấu lớn sẽ gây nguy cơ đổ vỡ NH, từ đó có thể
kéo theo khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra. Khi đó, chúng làm giảm số dự trữ và
vốn, làm tổn thất sức mạnh tài chính của NH. Hơn nữa, các khoản nợ có vấn đề tạo
ra gánh nặng chi phí cho các NH và làm NH suy giảm khả năng huy động vốn, khả
năng cho vay đối với nền kinh tế. Vì thế, lòng tin của dân chúng cũng như uy tín
quốc tế đối với toàn Ngân hàng cũng suy giảm theo.
12
Việc thu hồi nợ CVĐ không chỉ là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận cho Ngân
hàng mà còn có những đóng góp đáng kể đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân
hàng, cụ thể:
(i) Với chức năng là tiếp nhận, quản lý các khoản nợ CVĐ trong HĐKD của
NHTM để xử lý, bán, khai thác bằng nhiều biện pháp như: (i) bán TSBĐ nợ vay, (ii)
cơ cấu lại nợ (giãn nợ, miễn giảm lãi suất, đầu tư thêm, chuyển nợ thành vốn góp),
(iii) khai thác các TSBĐ nợ vay để tận thu nợ trong quá trình chờ phát mãi tài sản,
tối đa hóa tỷ lệ thu hồi vốn cho NHTM.
(ii) Thực hiện xử lý các khoản nợ CVĐ phải thu và các tài sản thế chấp của
NH, công tác xử lý nợ đã góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính, làm tăng
cường khả năng cạnh tranh của Ngân hàng.
(iii) Ngoài ra, với chức năng được mua, bán nợ của các TCTD, NHTM khác,
xử lý nợ sẽ tác động làm cho dòng vốn của DN nói riêng và của nền kinh tế nói
chung không những được khơi thông mà còn được bơm thêm một lượng vốn mới;
góp phần thực hiện sắp xếp đổi mới DN thành công.
1.2. Một số nguyên tắc trong xử lý Nợ có vấn đề
1.2.1. Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ
Theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm và
Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 quy định về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 163

Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì
việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên; nếu không có thoả
thuận thì tài sản được bán đấu gia theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì
việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của bên bảo đảm và các bên
cùng nhận bảo đảm; nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì tài
sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
Việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện một cách khách quan, công
khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch
13
bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định tại Nghị định
này.
Người xử lý tài sản bảo đảm (sau đây gọi chung là người xử lý tài sản) là bên
nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy quyền, trừ trường hợp các bên
tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác.
Người xử lý tài sản căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo
đảm để tiến hành xử lý tài sản bảo đảm mà không cần phải có văn bản ủy quyền xử
lý tài sản của bên bảo đảm.
Việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ không phải là hoạt động kinh doanh
tài sản của bên nhận bảo đảm.
Trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, nhà ở thì tổ chức, cá
nhân mua tài sản bảo đảm hoặc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc
thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm phải thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường
hợp tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì chỉ được hưởng
giá trị quyền sử dụng đất, giá trị nhà ở
1.2.2. Nguyên tắc xử lý các tổn thất bằng dự phòng rủi ro tại TCTD
TCTD được sử dụng DPRR để xử lý nợ xấu đối với các khoản nợ trong các
trường hợp sau:

(i) Khách hàng là tổ chức, DN bị giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật;
cá nhân bị chết hoặc mất tích;
(ii) Các khoản nợ xấu thuộc nhóm nợ có khả năng mất vốn (theo cách phân
loại như QĐ 493). Riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, TCTD được sử
dụng dự phòng (nếu có) để xử lý RRTD.
Việc TCTD sử dụng dự phòng để xử lý nợ xấu không phải là xóa nợ cho
khách hàng. TCTD và cá nhân có liên quan không được phép thông báo cho khách
hàng biết về việc xử lý RRTD. Và sau khi đã sử dụng DPRR để xử lý thì TCTD
phải tiếp tục theo dõi và có các biện pháp để thu hồi nợ triệt để (như phát mại
14
TSBĐ theo thỏa thuận với khách hàng và theo quy định của pháp luật để thu hồi
nợ).
1.3 Phương thức Ngân hàng xử lý các khoản Nợ có vấn đề phát sinh
Nợ có vấn đề được phân chia thành 3 loại là Nợ có TSBĐ, Nợ không có
TSBĐ và không còn đói tượng thu nợ và Nợ không có TSBĐ nhưng khách hàng
còn tồn tại. Khi xử lý một khoản nợ CVĐ, một trong những yếu tố được quan tâm
nhất là TSBĐ của khoản vay, vì đây chính là nguồn các NHTM có thể tận dụng để
thu hồi vốn. Cơ chế xử lý nợ CVĐ được nêu cụ thể dưới đây:
 Xử lý Nợ có vấn đề có tài sản bảo đảm
NHTM được chủ động bán các TSBĐ nợ vay (tài sản thế chấp, cầm cố; tài sản
gán nợ; tài sản tòa án giao cho NH) kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất, tài
sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của NH bằng cách: (i) tự bán công khai
trên thị trường; hoặc (ii) bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; hoặc (iii)
bán cho Công ty mua bán nợ của Nhà nước.
Đối với những TSBĐ nợ vay thuộc những vụ án đã được Tòa án phán quyết
nhưng chưa giao tài sản cho NHTM thì NHTM có thể đề nghị các cơ quan Thi hành
án nhanh chóng giao cho NHTM để xử lý.
Đối với những TSBĐ của các khoản nợ chưa đầy đủ thủ tục pháp lý và hiện
không có tranh chấp, NHTM được đề nghị xem xét yêu cầu các cơ quan chức năng
Nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện thủ tục pháp lý để NHTM xử lý bán thu hồi nợ.

Đối với những TSBĐ nợ vay chưa bán được thì NHTM có thể áp dụng các
biện pháp như cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh
doanh, góp vốn, liên doanh bằng tài sản để thu hồi nợ.
Đối với những tài sản NHTM nhận lại sử dụng cấn trừ nợ thì phải có nguồn
vốn tương ứng theo quy định của pháp luật.
 Xử lý Nợ có vấn đề không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng
thu hồi nợ
Đối với những khoản nợ này, NHTM phải tập hợp trình NHNN xử lý xin xuất
toán ngoại bảng khỏi bảng cân đối kế toán.
15
 Xử lý Nợ có vấn đề không có tài sản bảo đảm nhưng khách nợ còn tồn
tại, hoạt động
Đây là những khoản vay tín chấp, hoặc những khoản vay có tài sản thế chấp
để vay vốn tại NH nhưng đã được xử lý hết. Việc xử lý những khoản nợ này không
có TSBĐ bao giờ cũng gặp nhiều khó khăn do khách hàng không còn nguồn để trả
nợ. Đối với trường hợp này, các NHTM có thể áp dụng các biện pháp như:
(i) Bán nợ để thu hồi vốn theo quy chế mua bán nợ thông thường.
(ii) Chuyển nợ thành vốn góp vào DN và được chuyển nhượng phần vốn góp
này. Trường hợp này, NHTM phải dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ tương ứng với
phần nợ đã chuyển thành vốn góp vào DN và phải bảo đảm tỷ lệ vốn góp theo quy
định của pháp luật.
1.4 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xử lý nợ có vấn đề
Để đánh giá hiệu quả hoạt động xử lý nợ có vấn đề tại các TCTD, người ta
thường đánh giá chủ yếu dựa trên một số chỉ tiêu chính về xử lý những khoản nợ
xấu như sau:
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu
Chỉ tiêu này được tính bằng cách chia Dư nợ xấu cho Tổng dư nợ. Chỉ tiêu
này phản ánh chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng, tỷ lệ nợ xấu càng cao thì
chất lượng tín dụng càng thấp. Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng an toàn là tỷ lệ nợ
xấu dưới 3%. Tại Việt Nam, các Ngân hàng, tổ chức tín dụng nếu có tỷ lệ nợ xấu từ

3% trở lên sẽ thuộc diện theo dõi, kiểm tra và phải báo cáo tình hình nợ xấu và xử
lý nợ thường xuyên theo yêu cầu của cơ quan thanh tra, giám sát Ngân hàng của
Ngân hàng Nhà nước.
- Chỉ tiêu Số tiền thu nợ đã sử dụng DPRR/Tổng dư nợ đã sử dụng DPRR
Chỉ tiêu này được tính bằng cách chia Số tiền thu nợ đã sử dụng DPRR cho
Tổng dư nợ đã sử dụng DPRR, chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả thu nợ đã sử dụng
DPRR của Ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả thu nợ của tổ
chức tín dụng càng cao. Tại Ngân hàng Ngoại thương, số tiền thu nợ đã sử dụng
DPRR được hạch toán vào lợi nhuận bất thường của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu Dư nợ xóa/Tổng dư nợ DPRR (hoặc cho Tổng dư nợ)
16
Chỉ tiêu này được tính bằng cách chia Dư nợ xóa cho Tổng dư nợ DPRR
hoặc cho Tổng dư nợ của NH, chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ các khoản nợ đã sử dụng
DPRR nhưng không thu hồi được do khách hàng đã chết, mất tích hoặc không còn
bất cứ nguồn nào để trả nợ NH. Đây chính là những khoản nợ mà Ngân hàng không
thể thu hồi được và xin xuất toán khỏi bảng cân đối kế toán. Chỉ tiêu này càng cao
thì số tiền mất vốn của khách hàng trong hoạt động cho vay càng lớn.
- Chỉ tiêu Số tiền xử lý nợ xấu/Tổng dư nợ xấu
Chỉ tiêu này được tính bằng cách chia Số tiền thu được từ việc xử lý nợ xấu
cho Tổng dư nợ xấu. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nợ xấu được xử lý và thu hồi vốn về
cho Ngân hàng theo các mốc và khoảng thời gian khác nhau, là một trong những chỉ
tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả xử lý nợ có vấn đề.
- Thời gian xử lý nợ có vấn đề
Chỉ tiêu này được xác định dựa trên thời điểm bắt đầu xử lý nợ cho đến khi
thu được hết hoặc thu được một phần nợ nhưng khách hàng không còn tài sản để có
thể phát mại thu hồi nợ. Tuy nhiên, quá trình xử lý nợ có vấn đề là quá trình lâu dài,
do đặc điểm khác nhau về người vay vốn, tình trạng và tính chất đặc thù của TSBĐ,
phụ thuộc vào tính thanh khoản của thị trường đối với tài sản thế chấp nên Chỉ tiêu
thời gian này thường khó xác định và không có các mốc thời gian chung cho việc
xử lý các khoản nợ. Tại Việt Nam, đối với các khoản nợ không có TSBĐ và đã

được sử dụng DPRR, sau 5 năm các TCTD có thể làm hồ sơ xin xuất toán ngoại
bảng. Đối với các khoản nợ TCTD khởi kiện khách hàng và chuyển sang yêu cầu
cơ quan THA, thường thì phải mất ít nhất 02 năm mới có thể thu được nợ.
Tại Việt Nam hiện nay, ngoài tỷ lệ nợ xấu để đánh giá hoạt động tín dụng, chỉ
tiêu Số tiền thu nợ đã sử dụng DPRR/Tổng dư nợ DPRR là được dùng phổ biến để
đánh giá hiệu quả của hoạt động xử lý nợ có vấn đề.
17
1.5. Mô hình xử lý nợ của các ngân hàng thương mại trên thế giới và bài học
kinh nghiệm
1.5.1. Mô hình xử lý nợ của các ngân hàng thương mại trên thế giới
1.5.1.1. Mô hình xử lý nợ tập trung
Đây là mô hình mà nhà nước sẽ đóng vai trò chính trong quá trình xử lý nợ
bằng việc thành lập ra cơ quan xử lý nợ quốc gia (thường là công ty xử lý nợ quốc
gia). Cơ quan này có trách nhiệm chính trong việc xử lý tất cả các khoản nợ CVĐ
của nền kinh tế được chuyển giao từ các tổ chức tài chính.
Ưu điểm của mô hình xử lý nợ tập trung là tận dụng được lợi thế kinh tế theo
quy mô; với khối lượng tài sản lớn nên có thể chứng khoán hoá một cách dễ dàng;
sở hữu tập trung các loại tài sản thế chấp tạo ra áp lực cho các con nợ và quản lý
hiệu quả hơn; phá vỡ quan hệ ràng buộc giữa ngân hàng và các doanh nghiệp, điều
này sẽ tạo ra những khoản vay mới hiệu quả hơn; cho phép các ngân hàng tập trung
vào hoạt động kinh doanh; cải thiện các triển vọng cho việc cơ cấu lại các ngành
kinh tế; cho phép áp dụng các chuẩn mực; có thể đưa ra những chính sách đặc biệt
để thu hồi nợ và cơ cấu lại ngân hàng.
Tuy nhiên, mô hình tập trung cũng có những bất lợi như: Các ngân hàng sẽ có
lợi thế hơn các AMC trong việc thu thập thông tin của các con nợ; để các khoản nợ
tại các ngân hàng có thể cung cấp các ưu tiên tốt hơn cho việc thu hồi chúng và
tránh thua lỗ trong tương lai bằng việc cải tiến quá trình xét duyệt cho vay và các
thủ tục giám sát nợ vay; các ngân hàng có thể cung cấp các khoản tài trợ tăng thêm
mà nó có thể cần thiết trong quá trình cơ cấu lại; các tài sản chuyển giao cho các
AMC không được quản lý một cách năng động và có thể tạo ra sự giảm sút giá trị;

rất khó để có thể tách bạch hoạt động của một tổ chức công với những áp lực chính
trị.
 Công ty xử lý tài sản quốc gia Hoa Kỳ
Công ty xử lý tài sản quốc gia Hoa Kỳ (RTC) được thành lập như một cơ quan
xử lý nợ nhanh vào năm 1989 để xử lý các khoản nợ CVĐ của các hiệp hội tiết
kiệm và cho vay. Như một cơ quan nhà nước, RTC có rất nhiều mục tiêu, gồm: Tối
đa hoá thu nhập ròng từ việc bán các tài sản được chuyển nhượng; tối thiểu hoá tác
18
động lên các thị trường địa ốc và thị trường tài chính địa phương; tối đa hoá việc tạo
ra nhà ở cho các cá nhân có thu nhập thấp. RTC thực hiện việc xử lý đối với cả hai
loại nợ luân chuyển thông thường và nợ tồn đọng, khó xử lý. Kết quả xử lý nợ của
RTC là rất tốt. Tổng số tài sản mà RTC đã xử lý được là 465 tỷ USD bằng 8,5%
tổng tài sản trong khu vực tài chính, tương đương 8,5% GDP của Hoa Kỳ năm
1989. Nguyên nhân tạo ra thành công của RTC là do tổng khối lượng nợ CVĐ chỉ
bằng 3% tổng tài sản tài chính trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng nhất. Hơn
thế nữa, khoảng 50% tài sản là các khoản vay bất động sản và vay cầm cố, 35% là
tiền mặt và các loại chứng khoán khác. Vì vậy, nhiều tài sản được chuyển nhượng là
rất tốt và dễ dàng bán thông qua việc đóng gói, chứng khoán hoá và đấu giá trên thị
trường tài chính phát triển nhất thế giới. Một trong những yếu tố hết sức quan trọng
khác tạo ra sự thành công này là các nhân sự cao cấp của RTC được lấy từ Công ty
bảo hiểm tiền gửi liên bang (đây là cơ quan có sự hiểu biết rất rõ về vấn đề lựa chọn
bất lợi và tâm lý ỷ lại trong hoạt động tài chính) và đội ngũ nhân viên của họ có rất
nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý các tổ chức tài chính khó khăn, lâm vào tình
trạng phá sản. Mặt khác, RTC đã dựa vào những nhà thầu tư nhân để đánh giá, quản
lý và bán nhiều tài sản. Một cấu trúc quản lý hiệu quả đã cho phép RTC thu hồi 1/3
tài sản được chuyển nhượng, giảm thiểu đáng kể khối lượng nợ phải bán.
 Mô hình các nước Đông Á sau khủng hoảng 1997
Đối với những con rồng, con hổ châu Á, năm 1997 quả là một cơn ác mộng
đối với họ, Vấn đề còn trầm trọng hơn đối với tài chính. Sau cuộc khủng hoảng
này, hàng loạt các tổ chức tài chính, các ngân hàng rơi vào tình trạng phá sản. Tỷ lệ

nợ CVĐ gia tăng đáng kể. Để giải quyết vấn đề này, dù sớm hay muộn các nước
Đông Á đều đã thành lập cơ quan xử lý nợ quốc gia như: Indonesia Bank
Restructuring Agency (IBRA), Korea Asset Management Company (KAMCO),
Thai Asset Management Company (TAMC), DANAHARTA của Malaysia. Kết quả
chỉ hơn 7 năm sau khủng hoảng, việc xử lý nợ CVĐ của các nước này đã cơ bản
hoàn tất. IBRA đã ngừng hoạt động, TAMC và DANAHARTA dự kiến sẽ chấm dứt
hoạt động vào năm 2005, KAMCO đã tham gia xử lý 125 tỷ USD nợ CVĐ xuống
còn 15 tỷ USD
19
Nguyên nhân dẫn đến thành công trong xử lý nợ của các nền kinh tế Đông Á
là do khủng hoảng xảy ra đột ngột, các doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất thanh
khoản tạm thời nên chưa thể hoàn trả đúng hạn các khoản nợ và các ngân hàng phải
chuyển nợ quá hạn làm cho tỷ lệ nợ CVĐ tăng cao, nhưng về mặt bản chất, chủ nợ
của các các khoản nợ nêu trên vẫn còn khả năng phục hồi và hoạt động hiệu quả là
rất cao. Chính điều này làm cho việc xử lý nợ của các nền kinh tế Đông Á có tính
khả thi cao. Nói chung các nền kinh tế Đông Á xử lý nợ hiệu quả là các khoản nợ
đều có con nợ và các con nợ này có nỗ lực trả nợ. Từ mô hình xử lý nợ của Hoa Kỳ
và các nền kinh tế Đông Á cho thấy rằng, việc xử lý nợ CVĐ sẽ có tính khả thi cao
nếu các khoản nợ được đảm bảo hoặc các khoản nợ vẫn còn con nợ và con nợ có nỗ
lực trả nợ. Đối với loại nợ này, sử dụng mô hình xử lý nợ tập trung sẽ mang lại
thành công.
 Mô hình các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu
Mô hình của Cộng hoà Séc (mô hình tập trung): Bắt đầu quá trình cải các
ngân hàng vào đầu những năm 1990. Lúc này, tất cả vốn lưu động của các doanh
nghiệp nhà nước được tài trợ bởi các khoản tín dụng ngắn hạn theo hạn mức với lãi
suất thấp được xem là các khoản vay khó đòi (TOZ). Với mục tiêu tái cấu trúc các
khoản vay này theo các điều kiện thương mại, Séc đã thành lập centralized hospital
bank với tên gọi là Konsolidacni Banka (KnB). Tất cả các khoản vay khó đòi (TOZ)
được chuyển nhượng cùng với một lượng tương ứng các khoản tiền gửi doanh
nghiệp từ các ngân hàng khác. Tuy nhiên, các khách hàng là doanh nghiệp nhà nước

vẫn duy trì quan hệ với các ngân hàng mà nó đang cung cấp các dịch vụ ngân hàng
và các khoản vay mới. Qua nhiều thời kỳ, nhiều khoản vay khác được phân loại nợ
CVĐ và chuyển từ các ngân hàng lớn nhất cộng hoà Séc cho KnB để xử lý và nhà
nước tái cấp vốn cho các ngân hàng này. Mặc dù được xem thời điểm cải cách là
phù hợp, nhưng Séc đã thất bại trong việc tái cấu trúc tài chính với mục tiêu xây
dựng 4 ngân hàng quốc doanh lớn nhất thành các trụ cột của và tách bạch các
khoản cho vay chỉ định với các điều kiện ưu đãi sang một ngân hàng chuyên biệt.
Nguyên nhân thất bại là do nền tảng cho khu vực ngân hàng định hướng thị trường
mạnh chưa được thiết lập. Các ngân hàng lớn vẫn chưa có sự độc lập từ Chính phủ.
20
Nhà nước vẫn chiếm cổ phần chi phối trong các ngân hàng sau khi chúng được cổ
phần hoá. Thứ hai, các ngân hàng không những vẫn giữ lại mối quan hệ với các
khách hàng mà còn nắm giữ cổ phần của các khách hàng này trong quá trình cổ
phần hoá. Điều này đã làm nảy sinh vấn đề mâu thuẫn giữa lợi ích của chủ sở hữu
và chủ nợ. Khi có một cuộc khủng hoảng tiền tệ nhỏ tác động, bảng cân đối của các
ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng.
1.5.1.2. Mô hình xử lý nợ phi tập trung
Mô hình xử lý nợ phi tập trung (điển hình là mô hình của Thuỵ Điển): Theo
mô hình này thì các ngân hàng sẽ tự xử lý các khoản nợ CVĐ của mình bằng việc
thành lập ra AMC hoặc bộ phận xử lý nợ riêng hoặc là các tư nhân đứng ra thành
lập các công ty xử lý nợ. Và điều đương nhiên là các AMC tư nhân này hoạt động vì
mục tiêu lợi nhuận. Những lợi thế và bất lợi của mô hình này ngược lại với mô hình
xử lý nợ tập trung.
 Mô hình Hungary
Hungary theo đuổi chính sách cổ phần hoá các ngân hàng quốc doanh bằng
việc bán cổ phần chi phối cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài càng nhanh
càng tốt. Việc bán như vậy đã yêu cầu tái cấp vốn của các ngân hàng tạo ra sự kết
nối giữa giá trị ròng hiện tại và những giá trị đặc lợi thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài. Hai đợt tái cấp vốn lớn và nhiều đợt tái cấp vốn bổ sung của các ngân hàng
trong nước tạo cho Hungary có những ý niệm về vấn đề tâm lý ỷ lại mà trước đó nó

gần như chưa được đề cập đến. Đợt tái cấp vốn lần thứ nhất chưa đủ tác động mạnh
vì các công cụ được sử dụng chưa đủ thanh khoản và thu hút về phương diện tài
chính và bởi vì các ngân hàng được tái cấp vốn vẫn cung ứng tín dụng và các dịch
vụ ngân hàng cho các khách hàng kém hiệu quả. Đợt tái cấp vốn thứ hai sử dụng
các công cụ có tính thị trường là sự thành công đáng kể vì việc cổ phần hoá thực sự
nhắm đến các nhà đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài. Việc kết hợp tái cấp vốn và
chiến lược cổ phần hoá đưa Hungary trở thành nước có ngân hàng mạnh nhất trong
các nền kinh tế chuyển đổi.
Kinh nghiệm của Hungary chỉ ra tầm quan trọng của việc vận hành một cách
độc lập và giảm thiểu các áp lực từ nhà nước và các khách hàng hoạt động kém hiệu
21
quả. Quan trọng hơn những khoản nợ CVĐ được thừa hưởng tác động đến hoạt
động sắp tới của ngân hàng là phải duy trì quan hệ với những khách hàng kém hiệu
quả. Ngân hàng Hungary có doanh nghiệp nhà nước thua lỗ nhiều nhất là Magyar
Hitel Bank (MHB).
Đầu tiên tìm kiếm một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, nhưng sau khi được
tái cấp vốn, danh mục nợ của MHB được chia thành tài sản tốt và tài sản không tốt.
Những khoản nợ CVĐ cùng với các khoản tiền gửi của các khách hàng này được
tách ra khỏi các khoản nợ tốt. MHB đã thành lập bộ phận chuyên xử lý các khoản
nợ CVĐ.
 Mô hình Ba lan
Kinh nghiệm của Ba Lan chỉ ra sự không thích hợp của việc tạo ra trách nhiệm
của các ngân hàng cho việc cơ cấu lại các doanh nghiệp.
Ngân hàng Thế giới đã hỗ trợ một chương trình tái cấu trúc doanh nghiệp dựa
trên khái niệm cho rằng các ngân hàng có đủ thông tin về các con nợ của mình để
đưa ra quyết định hoặc là thúc đẩy việc cơ cấu lại hoặc là thanh lý các doanh
nghiệp. Phá sản đã được xem là lựa chọn ưa thích hơn trong quá trình tái cấu trúc
tài chính. Công cụ chính được sử dụng để cấu trúc lại các khoản nợ là chuyển nợ
thành vốn chủ sở hữu. Lựa chọn này không phù hợp với các ngân hàng yếu. Do các
ngân hàng này không có kinh nghiệm trong việc tái cơ cấu các doanh nghiệp lớn, sở

hữu những khách hàng hoạt động kém hiệu quả. Hơn thế nữa, các khoản tín dụng
mới được cung cấp chỉ giải quyết được phần nào khó khăn trong thời gian đầu,
nhưng kết quả ngày một trầm trọng hơn. Trong tình huống nghiên cứu một ngân
hàng Ba Lan Bonin and Leven (2000) nhận ra rằng các khoản tín dụng mới được
mở rộng cho 3 khách hàng công nghiệp quốc phòng lớn trong chương trình đã vượt
quá tổng khối lượng tái cấp vốn và đặt ngân hàng rơi vào tình thế khó khăn hơn với
các khách hàng này sau khi cơ cấu lại. Cũng như trường hợp của Cộng hoà Séc,
chương trình của Ba Lan đã tạo ra sự ràng buộc lớn hơn giữa ngân hàng và các
khách hàng kém hiệu quả. Vì vậy, chương trình của Ba Lan tạo cho các doanh
nghiệp yếu kém có điều kiện trì hoãn việc cơ cấu lại bằng những giải pháp quyết
liệt hơn. Điều này càng khó khăn hơn cho các ngân hàng trong việc loại bỏ các
22
khách hàng hoạt động kém hiệu quả nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính và
nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Từ mô hình của các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu cho thấy, việc xử lý nợ
có thể được thực hiện tốt nếu giải quyết được những ràng buộc giữa ngân hàng và
các doanh nghiệp mà ở đây chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, tránh được vấn
đề lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại do thông tin bất cân xứng xảy ra trong quan hệ tín
dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là phải xác định rõ con nợ
và tạo ra nỗ lực trả nợ của con nợ thì mới có thể xử lý được.
1.5.1.3. Mô hình kết hợp
Trung Quốc là một trường hợp riêng biệt trong việc lựa chọn mô hình xử lý nợ
CVĐ do những đặc điểm riêng của họ. Ngân hàng có quy mô rất lớn với tổng dư nợ
cho vay toàn nền kinh tế lên đến gần 2.000 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần GDP. Tổng
khối lượng nợ CVĐ 480 tỷ USD bằng 36% GDP. Nếu xét con số tuyệt đối thì khối
lượng nợ này tương đương với khối lượng nợ CVĐ của Hoa Kỳ năm 1989, nhưng
tỷ lệ so với GDP lại gấp hơn 10 lần. Trung Quốc đã lựa chọn mô hình cho riêng
mình. Nhà nước đã bỏ vốn để thành lập các AMC. Nhưng thay vì thành lập công ty
xử lý nợ quốc gia, năm 1999, Trung Quốc đã thành lập bốn công ty quản lý tài sản
với vốn điều lệ khoảng 5 tỷ USD. Mỗi AMC có trách nhiệm xử lý nợ CVĐ cho một

ngân hàng thương mại quốc doanh. Các công ty này chịu sự quản lý và chỉ đạo
đồng thời của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa và có mối quan hệ
ràng buộc rất lớn với các ngân hàng "mẹ". Trong thời gian này, một khối lượng nợ
bằng 170 tỷ USD đã được chuyển giao cho các AMC. Kết quả xử lý đến cuối năm
2003, các AMC chỉ thu hồi được 17 tỷ USD và chuyển nợ thành vốn cổ phần 45 tỷ
USD. Theo đánh giá thì hoạt động của các AMC tại Trung Quốc không đem lại kết
quả như mong đợi.
Bên cạnh khoản nợ chuyển giao cho các AMC, các ngân hàng thương mại
quốc doanh Trung Quốc vẫn còn một khối lượng nợ CVĐ rất lớn (245 tỷ USD vào
cuối năm 2002). Họ cũng đã có nỗ lực tự xử lý. Năm 2003 đã xử lý nợ CVĐ giảm
13 tỷ USD (Còn 232 tỷ USD). Thực ra khoản nợ được xử lý chủ yếu là việc xoá các
khoản nợ không còn khả năng thu hồi. Dù thành lập các AMC và để cho các ngân
23
hàng tự xử, nhưng Trung Quốc vẫn đang gặp khó khăn trong việc xử lý các khoản
nợ CVĐ. Vấn đề là ở chỗ Trung Quốc chưa xác định rõ được con nợ thực sự của
các khoản nợ CVĐ này và chưa tạo ra nỗ lực trả nợ của các con nợ. Với những đặc
điểm trên, mô hình xử lý nợ của Trung Quốc được xem là một sự kết hợp của hai
mô hình xử lý nợ tập trung và phi tập trung.
1.5.1.4 Xử lý Nợ có vấn đề tại các Ngân hàng thương mại trong nước
Trong nỗ lực xử lý các khoản nợ CVĐ, từ năm 2000, bốn ngân hàng thương
mại quốc doanh (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại
Thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam) đã thành lập các công ty quản lý tài sản của mình
với vốn điều lệ cho mỗi công ty là 30 tỷ đồng. Sau đó Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Sài gòn Thương Tín (Sacombank) cũng thành lập AMC cho riêng mình với số
vốn điều lệ là 3 tỷ đồng. Các công ty này thực hiện nhiệm vụ xử lý nợ CVĐ của
ngân hàng mẹ. Nhưng với mức vốn điều lệ như trên, nhiệm vụ chủ yếu của các
AMC là xử lý nợ theo sự uỷ thác của ngân hàng mẹ. Các khoản nợ CVĐ vẫn chưa
được đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán của ngân hàng mẹ. Kết quả hoạt động của
các AMC là rất hạn chế. Song song với việc xử lý nợ qua các AMC, năm 2001,

Chính phủ đã phê duyệt đề án xử lý nợ CVĐ của các ngân hàng thương mại với
tổng số nợ cần xử lý 21.280 tỷ đồng. Phương thức xử lý các khoản nợ này chủ yếu
là các ngân hàng tự xử theo các cơ chế chỉ đạo của Chính phủ (Nghị định 149/NĐ-
CP). Mặt khác, để thúc đẩy việc xử lý nợ của các doanh nghiệp nhà nước, đầu năm
2004, Chính phủ đã quyết định thành lập Công ty xử lý tài sản doanh nghiệp nhà
nước với vốn điều lệ là 2.000 tỷ đồng. Đây là mô hình của một công ty xử lý nợ
quốc gia. Hoạt động của công ty này mới chỉ bắt đầu nên chưa thể đánh giá hiệu
quả. Đối với Việt nam cần có sự phân tích kỹ hơn, nhưng mô hình của Việt nam có
vẻ như là sự kết hợp của mô hình tập trung và phi tập trung.
Đầu năm 2004, cùng với việc xử lý nợ thông qua các công ty AMC của NH,
Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (gọi tắt là Công ty mua
bán nợ - Debt and Assets Trading Company - DATC) với vốn điều lệ ban đầu 2000
tỷ đồng cũng đi vào công tác để xử lý các khoản nợ tồn đọng của các DNNN. Vốn
24
điều lệ của DATC hiện tại là 2.481 tỷ đồng. Trong tình hình nợ xấu tăng cao trong
NHTM hiện nay, có nhiều ý kiến đề xuất xây dựng một công ty mua bán nợ quốc
gia, như mô hình xử lý nợ tập trung của các nước Đông Âu để mở rộng và nâng
cao hiệu quả của hoạt động mua bán nợ, tuy nhiên, trước khi những giải pháp mang
tầm vĩ mô được thực hiện, từng NHTM cần phải tự mình xử lý nợ có vấn đề dựa
trên cơ sở nắm rõ tình hình khách hàng vay vốn cũng như tài sản thế chấp hay các
nguồn khác để trả nợ NH.
Các NHTMVN chủ yếu tập trung xử lý nợ CVĐ có TSBĐ, tuy nhiên, công tác
xử lý nợ CVĐ trong thời gian qua chưa hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Việc
nghiên cứu các mô hình xử lý nợ của các NHTM nước ngoài có thể sẽ rút ra một số
kinh nghiệm áp dụng cho hoạt động này tại Việt Nam thời gian tới.
1.5.2. Bài học kinh nghiệm
Qua kinh nghiệm xử lý nợ của các NHTM nước ngoài và thực tiễn xử lý nợ
của các NHTMVN, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong công tác xử lý
nợ như sau:
- Chất lượng tài sản bảo đảm: tài sản đảm bảo có tính thanh khoản cao, dễ

dàng chuyển nhượng trên thị trường tài chính là yếu tố quan trọng quyết định giá trị
và thời gian thanh lý khoản nợ xấu được bảo đảm bằng tài sản đó. Do vậy, để ngăn
ngừa và xử lý nhanh các khoản nợ xấu, ngân hàng Việt Nam cần có các quy định cụ
thể và chặt chẽ về tài sản bảo đảm, năng cao hiệu quả của công tác định giá tài sản
bảo đảm Đồng thời, Việt Nam cũng cần phát triển mạnh thị trường mua bán nợ;
sự tham gia của các công ty định mức tín nhiệm, công ty bảo lãnh, các nhà tư vấn
tài chính vào thị trường sẽ giảm bớt vấn đề thông tin bất đối xứng, làm cho khoản
nợ đáng tin cậy hơn với nhà đầu tư và nâng cao tính chuyên nghiệp của thị trường.
- Tiềm lực và nỗ lực trả nợ của khách hàng Nếu như trong mô hình các nước
NICs, các con nợ phục hồi sau cuộc khủng hoảng và trả nợ thì trong mô hình Trung
Quốc, do con nợ chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả nên
rất khó khăn trong việc xử lý nợ xấu. Vì vậy, con đường nâng cao hiệu quả của hệ
thống NH Việt Nam về lâu dài vẫn là cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
25
- Sự độc lập và tự chủ của hệ thống Ngân hàng. Sự phụ thuộc của Ngân hàng
vào chính phủ sẽ làm giảm tính năng động của Ngân hàng, giảm khả năng cạnh
tranh và sức chống đỡ đối với những rủi ro kinh tế vĩ mô.
- Trình độ chuyên môn của cán bộ trong công tác xử lý nợ xấu: Xử lý nợ là
một qui trình phức tạp, liên quan đến nhiều kiến thức đa dạng như định giá tài sản,
bán, quản lý và khai thác tài sản… Ta có thể thấy, một trong những yếu tố tiên
quyết trong thành công của Công ty xử lý nợ quốc gia Hoa Kỳ là do họ có đội ngũ
cán bộ chủ chốt với tŕnh độ và kinh nghiệm rất cao được thuyên chuyển từ Cục dự
trữ liên bang.
- Sự hỗ trợ của các yếu tố nước ngoài: Sự hỗ trợ ở đây được đề cập đến trên
hai khía cạnh vốn và kinh nghiệm. Điều này lại càng có ý nghĩa hơn đối với Việt
Nam khi mà yếu tố nội lực và trình độ ngân hàng còn nhiều hạn chế, và hệ thống
ngân hàng đang trong giai đoạn cải tổ một cách toàn diện.
- Hệ thống pháp lý đồng bộ, trao những quyền hạn đặc biệt cho AMC trong
những khoảng thời gian nhất định để đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu: Hàn Quốc,
Hoa Kỳ, Thuỵ Điển thành công trong vấn đề xử lý nợ xấu một phần cũng do hệ

thống luật AMC, luật phá sản và phát mại tài sản ở nước này rất minh bạch, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động xử lý nợ.

×