Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đổi mới phương thức quản lí tài chính theo hướng tự chủ nhằm khắc phục sự không tương thích giữa cấp phát tài chính và tiến độ thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.31 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




KIM THỊ DIỆP HÀ



KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ

ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC QUẢN LÍ TÀI CHÍNH THEO HƯỚNG TỰ CHỦ
NHẰM KHẮC PHỤC SỰ KHÔNG TƯƠNG THÍCH GIỮA CẤP PHÁT
TÀI CHÍNH VÀ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI)





LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ






Hà Nội, 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




KIM THỊ DIỆP HÀ



KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ

MỚI PHƯƠNG THỨC QUẢN LÍ TÀI CHÍNH THEO HƯỚNG TỰ CHỦ
NHẰM KHẮC PHỤC SỰ KHÔNG TƯƠNG THÍCH GIỮA CẤP PHÁT
TÀI CHÍNH VÀ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI)



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

MÃ SỐ: 60.34.04.12




Người hướng dẫn khoa học: TS Đào Thanh Trường





Hà Nội, 2014

1
MỤC LỤC

MỤC LỤC 1

DANH MỤC VIẾT TẮT 4

DANH MỤC BẢNG BIỂU 5

MỞ ĐẦU 6

1. Lý do nghiên cứu 6

2. Lịch sử nghiên cứu 7

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 8

3.1. Mục tiêu nghiên cứu 8

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 9

4. Phạm vi nghiên cứu 9

4.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu 9


4.2. Phạm vi thời gian 9

4.3. Phạm vi không gian 9

5. Mẫu khảo sát 9

6. Câu hỏi nghiên cứu 10

7. Giả thuyết nghiên cứu 10

8. Phương pháp chứng minh giả thuyết 10

9. Luận cứ 11

9.1 Luận cứ lý thuyết 11

9.2 Luận cứ thực tiễn 11

10. Kết cấu luận văn: gồm 3 phần 11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI LIÊN HỆ GIỮA CẤP PHÁT
TÀI CHÍNH VÀ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC 12

1.1 Các khái niệm công cụ 12

1.1.1. Nghiên cứu khoa học 12

1.1.2. NCKH trong lĩnh vực KHXH&NV 19



2
1.1.3. Phương thức quản lí tài chính đối với hoạt động NCKH 22

1.1.4. Không tương thích 25

1.1.5. Tự chủ về tài chính trong NCKH 26

1.2. Các lý thuyết liên quan vấn đề nghiên cứu 28

1.2.1. Lý thuyết hệ thống 28

1.2.2. Lý thuyết KH&CN đẩy và thị trường kéo 30

CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN SỰ KHÔNG TƯƠNG THÍCH GIỮA VIỆC
CẤP PHÁT TÀI CHÍNH VỚI YÊU CẦU THỰC HIỆN ĐỀ TÀI THEO
ĐÚNG TIẾN ĐỘ 35

2.1. Khái quát về Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội 35

2.1.1. Bức tranh tổng thể về trường ĐHKHXH&NV 35

2.1.2. Tình hình NCKH của trường ĐHKHXH&NV 37

2.1.3 Các nguồn kinh phí đầu tư cho NCKH 42

2.2. Thực trạng quản lí tài chính cho các đề tài NCKH tại Trường ĐH
KHXH&NV 45


2.2.1. Thực trạng của việc cấp phát kinh phí ngân sách nhà nước cho các
đề tài NCKH 45

2.2.2 Tình hình thực hiện dự toán chi đề tài, dự án NCKH 47

2.2.3. Thống kê các đề tài hoàn thành đúng hạn, chưa đúng hạn, quá hạn,
không hoàn thành 51

2.3. Đánh giá thực trạng việc cấp phát kinh phí và quá trình thực hiện
các đề tài NCKH tại Trường ĐH KHXH&NV 52

2.4. Bất cập trong việc cấp phát và quyết toán kinh phí theo dự toán chi
ngân sách năm và yêu cầu thực hiện đề tài khoa học theo đúng tiến độ . 54

2.4.1. Không đáp ứng được các đặc điểm của NCKH 54

2.4.2. Khó đánh giá được chất lượng các công trình NCKH và không
khuyến khích được các nhà khoa học tham gia NCKH 56

2.5. Đánh giá chung 59


3
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC SỰ KHÔNG TƯƠNG THÍCH
GIỮA VIỆC CẤP PHÁT KINH PHÍ VÀ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ
TÀI TRONG HỢP ĐỒNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 63

3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp. 63

3.1.1. Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 63


3.1.2. Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 5 tháng 9 năm 2005 65

3.2. Nhóm giải pháp tăng quyền tự chủ cho các tổ chức, chủ trì đề tài 67

3.2.1. Tự chủ khoa học 67

3.2.2. Tự chủ về tài chính 69

3.3. Nhóm giải pháp tăng cường quyền tự chủ cho cá nhân thực hiện đề
tài NCKH 72

3.3.1.Thực hiện cấp kinh phí NCKH theo tiến độ thực hiện đề tài và sản
phẩm đầu ra của NCKH 72

3.3.2. Giảm thiểu các thủ tục hành chính trong quyết toán kinh phí NCKH75

KẾT LUẬN 77

KHUYẾN NGHỊ 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79

PHỤ LỤC 82



4
DANH MỤC VIẾT TẮT


1. ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà nội
2. ĐHKHXH&NV: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn
3. KHXH&NV: Khoa học xã hội và nhân văn
4. KH&CN: Khoa học và công nghệ
5. NSNN: Ngân sách nhà nước
6. NCKH: Nghiên cứu khoa học


















5

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1:


Số lượng đề tài khoa học các cấp từ 2009-2014

trang 39
Bảng2.2:

Số hội thảo/tọa đàm khoa học từ 2009-2014

trang 40
Bảng 2.3:

Giải thưởng khoa học cán bộ từ 2009-2013

trang 41
Bảng 2.4:

Các giải thưởng cấp Bộ /ĐHQG về NCKH sinh
viên từ 2009-2014

trang 41
Bảng 2.5:

Công bố khoa học từ 2009-2014
trang 42
Bảng 2.6:

Dự toán và giao dự toán kinh phí NCKH từ 2009-
2014………………………


trang 47

Bảng 2.7: Thực hiện dự toán kinh phí NCKH từ 2009-2014
Trang 50
Bảng 2.8: Tỷ lệ đề tài nghiệm thu đúng hạn

Trang 51
Bảng 2.9: Thống kê nhiệm vụ NCKH đăng kí và thực tế
được phê duyệt năm 2010 đến 2014


trang 56









6

MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Nghiên cứu khoa học là một trong những chức năng cơ bản của các
trường đại học bên cạnh chức năng đào tạo nguồn nhân lực và cung cấp các
dịch vụ khác. Trong những năm đổi mới, cùng với những thành tựu trong đào
tạo, hoạt động NCKH của các trường đại học Việt Nam đã dần được quan tâm
và có những tiến bộ nhất định trên các lĩnh vực NCKH cơ bản, nghiên cứu
triển khai, và nghiên cứu ứng dụng.
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động NCKH là tính mới: tri thức mới,

giải pháp mới, v.v Do vươn tới cái mới nên tất yếu hoạt động NCKH luôn
mang tính rủi ro. Vì vậy, NCKH là một hoạt động đặc biệt cần phải có chính
sách đặc thù. Chính sách tài chính (đầu tư, thanh quyết toán và thậm chí quản
lý rủi ro) là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách
phát triển NCKH. Tài chính là nguồn lực quan trọng triển khai thành công và
ứng dụng kết quả NCKH vào thực tiễn.
Thực tế, chính sách tài chính trong hoạt động NCKH ở Việt Nam hiện
nay còn nhiều bất cập, mang nặng tính hành chính, hình thức, thủ tục thanh
quyết toán nặng nề. Trong đó, việc cấp phát kinh phí và tiến độ thực hiện đề
tài hiện nay là không phù tương , không tạo điều kiện, không phát huy được
vai trò và kỳ vọng của các nhà khoa học. Thông tư 93/2006/TTLB/BTC-
BKHCN có qui định: "Kinh phí của đề tài, dự án được phân bổ và giao thực
hiện của năm nào phải được quyết toán theo niên độ ngân sách năm đó theo
đúng quy định hiện hành". Điều này đi ngược lại với đặc điểm sẵn có của hoạt
động NCKH. Do đó, hoạt động NCKH nói chung và trong các trường đại học
ở Việt Nam vẫn đang còn nhiều nhiều hạn chế, chưa phát huy hết tiềm lực
nghiên cứu của đội ngũ cán bộ NCKH.
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Đổi mới phương thức quản lí tài chính theo
hướng tự chủ nhằm khắc phục sự không tương thích giữa cấp phát tài chính

7
và tiến độ thực hiện đề tài NCKH. (Nghiên cứu trường hợp Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)” cho luận văn thạc
sĩ với hi vọng góp một giải pháp nhỏ nâng cao vai trò và hiệu quả của chính
sách tài chính trong phát triển NCKH ở Việt Nam hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Ở Việt Nam, những năm gần đây cũng đã có một số công trình nghiên
cứu về vấn đề hoạt động NCKH trong các trường đại học như: Có thể nêu lên
một số công trình mà ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác đã đề cập đến
chính sách đối với các đề tài NCKH.

Giải quyết sự không tương thích giữa cấp phát tài chính với tiến độ nghiên
cứu bằng giải pháp là thiết lập các quĩ NCKH có luận văn của thạc sĩ Đặng Thị
Hiền với mã số: 60.34.72 " Thiết lập quỹ nghiên cứu để khắc phục sự không tương
thích giữa cấp phát tài chính với tiến độ nghiên cứu". Tuy nhiên việc giải quyết vấn
đề là lấy nguồn vốn từ đâu để thành lập quĩ thì tác giả vẫn còn đang luẩn quẩn với
nhiều giả thuyết: vốn ngân sách nhà nước cấp, cho vay không có lãi, nguồn tài trợ
không hoàn lại.
Luận án tiến sĩ của Hồ Thị Hải Yến mã số: 62.31.03.01:" Hoàn thiện cơ
chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ trong các trường đại
học ở Việt Nam" cũng đề cập đến vấn đề đầu tư và sử dụng kinh phí trong
NCKH trong các trường đại học. Giải pháp cho vấn đề đầu tư tác giả đề nghị
tăng tỉ lệ chi ngân sách cho NCKH, giải pháp cho việc sử dụng kinh phí
NCKH tác giả cho ràng cần phải có cơ chế tự chủ tuyệt đối cho các chủ trì đề
tài và đưa ra ý tưởng thành lập các quĩ đầu tư cho NCKH.
Luận văn thạc sỹ của Phạm Thị Lan Anh mã số 60.43.72 với đề tài:
“Khắc phục những vướng mắc trong chế độ tài chính với NCKH trong các
trường đại học ở Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp Học Viện Tài Chính)” .
Tác giả chỉ ra rằng để hoàn thiện ơ chế tài chính trong NCKH cần tăng cường
đầu tư tài chính cho NCKH trong đó có nhắc đến việc sử dụng vốn tự có của
đơn vị, cải thiện chính sách tài chính một cách chung chung. Luận văn chưa

8
chỉ ra được vấn đề nguyên nhân sâu xa của cơ chế cấp phát và quyết toán ảnh
hưởng đến chất lượng NCKH hiện nay.
Đổi mới chính sách tài chính đối với KH&CN của Nguyễn Thị Anh
Thu, (Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 3/2006), Chi cho KH&CN: Hiệu
quả khó "đong đếm" của Nguyễn Minh Hòa (Tạp chí Hoạt động khoa học, số
tháng 9/2006), Đề tài cấp Bộ Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính đối với
hoạt động khoa học và công nghệ trong các trường đại học Việt Nam (Mã số:
B2003.38.76TĐ) của Mai Ngọc Cường.

Các công trình này đều dựa trên những bất cập của chính sách tài chính
đối với hoạt động KH&CN ở Việt Nam hiện nay để đề xuất những kiến nghị,
giải pháp nhằm đổi mới chính sách tài chính để “giải phóng”, “cởi trói tài
chính” tạo điều kiện phát triển KH&CN.
Ngoài những công trình mang tính nghiên cứu trên, các cơ quan quản
lý, các đại học cũng có những nghiên cứu về chính sách tài chính trong hoạt
động KH&CN để đề xuất, ban hành những quy định cụ thể như Thông tư
93/2006/TTLT/BTC-BKHCN hướng dẫn chế độ khoán kinh phí của đề tài, dự
án khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách Nhà nước (ban hành ngày
04/10/2006), Thông tư 44/2007/TTLB/BTC-BKHCN ngày 7 tháng 5 năm
2007 về việc hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối
với đề tài, dự án KH&CN có sử dụng NCNN, Quyết định số 1895/QĐ-
ĐHQGHN ngày 29/6/2010 của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội ban hành
Hướng dẫn quản lí hoạt động KH&CN ở Đại học quốc gia Hà Nội.
Các quy định, hướng dẫn trên chủ yếu nói về phương thức quản lý hoạt
động KH&CN, các định mức và thủ tục thanh quyết toán hoạt động NCKH.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm giải pháp khắc phục sự không tương thích giữa cấp phát kinh phí
và thực hiện tiến độ đề tài NCKH nói chung và NCKH thuộc lĩnh vực khoa
học xã hội của trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

9
Chứng minh việc đổi mới phương thức quản lí tài chính theo hướng tự
chủ sẽ khắc phục sự không tương thích giữa cấp phát tài chính và tiến độ thực
hiện đề tài NCKH.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích mối quan hệ giữa chế độ chính sách, các quy định về cấp
phát kinh phí với quá trình triển khai và thực hiện các đề tài NCKH.

- Phân tích thực trạng sự không tương thích giữa việc cấp phát kinh phí
và tiến độ thực hiện đề tài NCKH trong trường đại học, những bất cập và
nguyên nhân của nó.
- Trưng cầu ý kiến các nhà khoa học đã và đang thực hiện đề tài NCKH
về giải pháp nhằm khắc phục những bất cập giữa việc cấp phát kinh phí và
tiến độ thực hiện đề tài NCKH nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học
và công nghệ trong các trường đại học nói chung và Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Việc cấp phát kinh phí và thực hiện tiến độ đề tài NCKH thuộc lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn có sử dụng ngân sách Nhà nước.
4.2. Phạm vi thời gian
Cơ sở dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này được giới hạn từ năm
2009 đến 2014
4.3. Phạm vi không gian
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
5. Mẫu khảo sát
- Các nghị định, thông tư hướng dẫn, văn bản về tài chính cho hoạt
động KH&CN, quyết định giao kinh phí đề tài NCKH, hợp đồng nghiên cứu,
biên bản kiểm tra tiến độ đề tài NCKH tại Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn.

10
- Nhóm các chủ nhiệm đề tài, các bộ phận quản lý có liên quan, đơn vị, tổ
chức thực hiện đề tài NCKH tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
6. Câu hỏi nghiên cứu
1. Thực trạng phương thức cấp phát tài chính cho đề tài NCKH trong
lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn hiện nay như thế nào?
2. Đổi mới phương thức quản lí tài chính theo hướng tự chủ như thế

nào thì có thể khắc phục sự không tương thích giữa cấp phát tài chính và tiến
độ thực hiện đề tài NCKH?
7. Giả thuyết nghiên cứu
1. Hiện tại trường ĐH KHXH&NV được cấp kinh phí theo dự toán chi
ngân sách hàng năm.
2. Trường Đại học KHXH&NV được ngân sách nhà nước cấp phát và
quyết toán kinh phí NCKH theo sản phẩm đầu ra của sản phẩm NCKH.
Phương thức quản lí tài chính nên được đổi mới theo hướng giảm thiểu các
thủ tục hành chính và trao quyền tự chủ cho tổ chức và cá nhân chủ trì đề tài.
Dựa vào sản phẩm của từng giai đoạn hoặc sản phẩm cuối cùng của quá trình
NCKH (bản báo cáo, bài báo đăng trên tạp chí uy tín, giáo trình, sách) để
nhận kinh phí và quyết toán kinh phí NCKH.
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích các đề tài, luận văn, các
công trình nghiên cứu có liên quan, phân tích các nguồn tư liệu, số liệu có sẵn
trong các báo cáo về đề tài NCKH, việc cấp phát và quyết toán kinh phí của
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
- Phương pháp quan sát tham dự các hoạt động về cấp phát và quyết
toán kinh phí NCKH tại đơn vị.
- Phương pháp phân tích bằng bảng hỏi: Khảo sát bằng bảng hỏi với
các chủ nhiệm đề tài, những người tham gia thực hiện đề tài các cấp tại
Trường ĐHKHXH&NV.

11
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn 10 chuyên gia (quản lí tài
chính, quản lí NCKH: những rào cản trong việc thực hiện quyết toán tài chính
đề tài NCKH theo năm tài chính, các nhà khoa học: những bất cập, khó khăn
trong việc thực hiện thực hiện tiến độ đề tài theo hợp đồng) và các chủ nhiệm
đề tài NCKH trong lĩnh vực xã hội nhân văn tại Trường ĐH KHXH&NV (đã
và đang chủ trì) để tìm hiểu những khó khăn về thủ tục tài chính mà họ gặp

phải và trưng cầu ý kiến về giải pháp của tác giả.
9. Luận cứ
9.1 Luận cứ lý thuyết
Làm rõ một số khái niệm: NCKH, đặc điểm NCKH, quản lý NCKH,
hợp đồng NCKH, ngân sách Nhà nước, tự chủ trong hoạt động NCKH.
Mối quan hệ giữa chính sách tài chính NCKH nói chung, chính sách
cấp phát tài chính nói riêng với hoạt động NCKH cũng như những phát sinh
tất yếu của mỗi quan hệ này.
9.2 Luận cứ thực tiễn
- Những văn bản pháp quy về tài chính trong hoạt động NCKH.
- Những trường hợp điển hình về vấn đề thanh lí hợp đồng NCKH
không đúng tiến độ.
- Những trường hợp đặc biệt khác trong thực hiện hợp đồng nghiên cứu
như không đúng tiến độ phải hủy hợp đồng nghiên cứu và thu hồi kinh phí.
- Những đề tài NCKH đã thực hiện nhưng không được phê duyệt trong
dự toán thì không được cấp kinh phí.
10. Kết cấu luận văn: gồm 3 phần
Chương 1: Cơ sở lí luận của sự không tương thích giữa cấp phát tài
chính và tiến độ thực hiện đề tài NCKH
Chương 2: Nhận diện sự không tương thích giữa việc cấp phát tài
chính với yêu cầu thực hiện đề tài theo đúng tiến độ
Chương 3: Giải pháp khắc phục sự không tương thích giữa việc
cấp phát kinh phí và thực hiện tiến độ đề tài trong hợp đồng NCKH

12
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI LIÊN HỆ GIỮA CẤP PHÁT TÀI CHÍNH
VÀ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1.1 Các khái niệm công cụ

1.1.1. Nghiên cứu khoa học
1.1.1.1. Khái niệm NCKH
Theo Luật khoa học và công nghệ năm 2013: khoa học là hệ thống tri
thức về bản chất, qui luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên,
xã hội và tư duy. Còn NCKH là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản
chất, qui luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải
pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn.
Còn theo Vũ Cao Đàm, hiện nay có rất nhiều cách hiểu về khái niệm
khoa học, xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, Chúng ta có thể xem
xét 4 định nghĩa từ các góc độ sau:
- Thứ nhất: khoa học là hệ thống tri thức về mọi loại qui luật của vật
chất và sự vận động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, tư duy.
- Thứ hai: khoa học là một hoạt động xã hội. Với tư cách là một hoạt
động xã hội, khoa học định hướng tới các mục tiêu sau: phát hiện bản chất các
sự vật, phát triển nhận thức về thế giới. Dựa vào qui luật đã nhận biết của sự
vật mà dự báo quá trình phát triển, lựa chọn hướng đi cho mình để tránh hoặc
giảm thiểu các rủi ro. Sáng tạo ra các sự vật mới phục vụ các mục tiêu tồn tại
và phát triển bản thân con người và xã hội con người.
- Thứ ba: khoa học là một hình thái ý thức xã hội. Các hình thái xã hội
khác nhau ở đối tượng và hình thức phản ánh. Chúng cũng khác nhau về chức
năng xã hội và tính độc đáo của các qui luật phát triển.
- Thứ tư: khoa học là một thiết chế xã hội. Đó là một hệ thống các qui
tắc, các giá trị và cấu trúc, là một hệ thống các quan hệ ổn định, tạo nên
khuôn mẫu xã hội biểu hiện sự thống nhất.

13
Cũng theo Vũ Cao Đàm, NCKH là sự phát hiện bản chất sự vật, phát
triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và
phương tiện kĩ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt
động của con người. NCKH là một hoạt động xã hội nhằm thỏa mãn về nhu

cầu nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Nói cách khác NCKH là quá trình
hình thành và chứng minh luận điểm khoa học về một sự vật hoặc hiện tượng
cần khám phá. Luận điểm cần chứng minh được gọi là giả thuyết khoa học.
Tóm lại NCKH là quá trình xây dựng giả thuyết khoa học và chứng minh giả
thuyết khoa học.
NCKH là một hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử nghiệm.
Dựa trên những tài liệu, số liệu, kiến thức đạt được từ các hoạt động nghiên cứu
để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, thế giới tự nhiên và xã hội để
sáng tạo ra phương pháp và phương tiện kĩ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con
người muốn làm NCKH cần phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu
và phải rèn luyện cách làm việc tự lực và có phương pháp.
Trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm về NCKH của Vũ Cao
Đàm: NCKH là quá trình hình thành và chứng minh luận điểm khoa học về
một sự vật hoặc hiện tượng cần khám phá. Luận điểm cần chứng minh được
gọi là giả thuyết khoa học.
1.1.1.2. Đặc điểm NCKH
Đặc điểm chung của NCKH là sự tìm tòi những sự vật, hiện tượng mà
khoa học chưa hề biết tới. Với đặc điểm cơ bản này là nền tảng dẫn đến nhiều
đặc điểm khác nhau nữa của NCKH mà chúng ta cẩn đặc biệt chú ý khi
nghiên cứu và giải quyết một vấn đề trong NCKH.
- NCKH luôn mang tính mới: NCKH là quá trình khám phá thế giới
của những sự vật, hiện tượng mà khoa học chưa biết tới, cho nên quá trình
NCKH luôn là quá trình hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới.
Trong NCKH không có sự lặp lại cái cũ. Tính mới là đặc trưng cơ bản của
NCKH. Nó luôn có khả năng dẫn tới xung đột xã hội với các kết quả NCKH

14
cũ. Đặc biệt trong khoa học xã hội và nhân văn sự xung đột giữa cái mới và
cái cũ là vô cùng mạnh mẽ.
Với đặc trưng cơ bản này thì việc NCKH không cho phép gò bó người

nghiên cứu trong một môi trường cố định với những qui định rằng buộc cứng
nhắc theo một khuôn khổ nhất định và những kế hoạch phải thực hiện. Một ý
tưởng mới có thể lóe lên trong đầu các nhà khoa học ở bất kì đâu và bất kể
thời gian nào và cái ý tưởng mới đó sẽ rất có thể là một giả thuyết khoa học.
Chẳng hạn như nhà bác học Acsimet tìm ra nguyên lí lực đẩy của nước trong
khi ông đang tắm trong bồn tắm, hay nhà bác học Newton tìm ra lý thuyết lực
hấp dẫn của trái đất khi đang ngồi đọc sách trong vườn táo và trái táo rụng
xuống đất. Vì vậy đã là điều mới thì bao giờ cũng phải đi tìm kiếm, không thể
đặt điều kiện để đi tìm cái điều chưa biết được.
- NCKH mang tính tin cậy: một kết quả NCKH đạt được bắt buộc phải
có khả năng kiểm chứng lại nhiều lần trong điều kiện quan sát hoặc thí
nghiệm hoàn toàn giống nhau và kết quả thu được là một. Một kết quả xác
suất lấy ngẫu nhiên mặc dù trùng hợp với giả thuyết đã đặt ra thì không thể
coi là kết luận về bản chất của sự vật hiện tượng. Từ đặc điểm này của NCKH
mà trong phương pháp luận NCKH đặt ra một yêu cầu là: khi trình bày một
kết quả nghiên cứu, người nghiên cứu cần chỉ rõ những điều kiện, những nhân
tố và phương tiện thực hiện.
Một kết quả NCKH muốn được công nhận bắt buộc phải được kiểm
chứng trong nhiều lần với những điều kiện như nhau, vì vậy việc NCKH có
thể đòi hỏi phải có thời gian. Với việc lên kế hoạch trước cho một NCKH là
điều khó chấp nhận được, việc chạy đua với thời gian theo kế hoạch rất dễ
cho một kết quả nghiên cứu chưa đáng tin cậy vì có thể đó chỉ là một kết quả
xác suất lấy ngẫu nhiên mà đúng chứ không phải là một kết quả đã qua kiểm
chứng một cách khoa học.
- NCKH có tính thông tin: sản phẩm của NCKH được thể hiện dưới nhiều
dạng, có thể là một bài báo khoa học, một tác phẩm khoa học, song cũng có thể

15
là một mẫu vật liệu mới, mô hình thí điểm về một phương thức tổ chức sản xuất
mới. Trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa học luôn mang đặc trưng

thông tin. Đó là thông tin về qui luật vận động của sự vật, thông tin về một quá
trình công nghệ và các tham số đặc trưng cho qui trình đó.
- NCKH mang tính khách quan: đây vừa là đặc điểm của NCKH, vừa
là một tiêu chuẩn về phẩm chất của người NCKH. Trong xã hội khoa học
người ta xem đó là một chuẩn mực giá trị. Để đảm bảo tính khách quan người
NCKH luôn phải đặt câu hỏi ngược lại với kết quả đã được tìm thấy như: Kết
quả có thể khác không? Nếu kết quả đúng thì đúng trong điều kiện nào? Còn
phương pháp nào cho kết quả tốt hơn không? Có trả lời được các câu hỏi này
thì mới có thể khẳng định đó kết quả của NCKH.
NCKH mang tính khách quan, không thể áp đặt ý chí chủ quan của
người nghiên cứu hay bất kể ai vào quá trình NCKH được, vì vậy việc xây
dựng một kế hoạch nghiên cứu “hoàn hảo” là một điều không tưởng trong
giới NCKH. Vì đã là một kế hoạch mà còn là kế hoạch “hoàn hảo” tức là mọi
việc sẽ diễn ra theo đúng kế hoạch của người xây dựng nên nó, vậy đâu là tính
khách quan trong việc này nữa.
- NCKH mang tính rủi ro: quá trình khám phá bản chất sự vật hiện
tượng và sáng tạo sự vật mới hoàn toàn có thể gặp thất bại. Đó là tính rủi ro
của NCKH. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự thất bài của NCKH
như: thiếu các thông tin cần thiết và đủ độ tin cậy, trình độ của thiết bị quan
sát hoặc thí nghiệm thấp, năng lực xử lí thông tin của người NCKH còn hạn
chế, giả thuyết NCKH đặt ra sai do những nguyên nhân bất khả kháng. Ngay
cả khi kết quả NCKH đã được thử nghiệm thành công cũng vẫn gặp rủi ro
trong áp dụng.
Không phải bất kì NCKH nào cũng dẫn đến thành công. Không có ai
đầu tư công sức và tài chính để xây dựng một kế hoạch và đón nhận kết quả
cho sự thất bại này cả. Nhưng trong hoạt động NCKH việc đón nhận một kết
quả không như mong muốn là điều có thể xảy ra và người làm khoa học phải

16
chấp nhận sự thất bại này. Và nhờ vào kết quả thất bại này mà những người

NCKH đi sau sẽ không vấp phải sai lầm này nữa.
- NCKH mang tính kế thừa: mỗi NCKH luôn kế thừa các kết quả của
NCKH đi trước nó không những trong cùng một lĩnh vực mà có thể ở nhiều
lĩnh vực NCKH khác nhau. Nhất là trong thời đại ngày nay thì hàng loạt
hướng nghiên cứu mới, ngành khoa học mới ra đời từ thai nghén của các bộ
môn khoa học trước đó.
- NCKH luôn mang tính cá nhân: cho dù công trình NCKH của một cá
nhân hay của một tập thể thì vai trò sáng tạo của cá nhân cũng mang tính
quyết định.
Tóm lại với những đặc trưng cơ bản của NCKH như: tính mới, tính
khách quan, tính thông tin, tính rủi ro, tính kế thừa, tính cá nhân thì việc xây
dựng một kế hoạch cho NCKH về cả nội dung nghiên cứu và kinh phí hoạt
động là một điều không mang tính khoa học.
1.1.1.3 Đề tài NCKH
- Đề tài NCKH là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học, trong đó
có một nhóm người cùng thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu. Đề tài định hướng
vào việc trả lời những câu hỏi về ý nghĩa học thuật, chưa quan tâm nhiều đến
việc hiện thực hóa trong hoạt động thực tế.
- Đề tài NCKH là một nhiệm vụ khoa học và công nghệ nhằm phát hiện
qui luật, mô tả, giải thích nguyên nhân vận động của sự vật, hiện tượng hoặc
sáng tạo nguyên lý, những giải pháp, bí quyết, sáng chế,…được thể hiện dưới
các hình thức: Đề tài nghiên cứu cơ bản, đề tài nghiên cứu ứng dụng, đề tài
triển khai thực nghiệm hoặc kết hợp cả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng và triển khai thực nghiệm.
- Đề tài NCKH khác với “dự án”, “đề án”, “chương trình”:
+ Dự án có mục đích ứng dụng xác định. Dự án có những đòi hỏi khác
với đề tài, nó phải đáp ứng một nhu cầu đã được nêu ra, chịu sự ràng buộc của
kỳ hạn và nguồn lực, thường là ràng buộc về nguồn lực.

17

+ Đề án là một loại văn kiện được xây dựng để trình một cấp quản lý
hoặc một cơ quan tài trợ để xin được thực hiện một công việc nào đó, chẳng
hạn, xin thành lập một tổ chức, xin cấp tài trợ cho một hoạt động xã hội nào
đó. Sau khi một đề án được phê chuẩn, sẽ có có cơ sở để xác lập dự án,
chương trình, đề tài hoặc những hoạt động kinh tế, xã hội theo yêu cầu của
đề án.
+ Chương trình là một nhóm các đề tài hoặc dự án, được tập hợp theo
một mục đích xác định. Giữa các đề tài, dự án thuộc một chương trình có thể
có tính độc lập tương đối cao, nhưng phải đảm bảo cho sự đồng bộ của những
nội dung của một chương trình.
Các nhiệm vụ NCKH có sử dụng ngân sách Nhà nước theo quy định
trong Luật khoa học và công nghệ, được tổ chức dưới hình thức chương trình,
đề tài, dự án và các hình thức khác.
Đề tài được lựa chọn bắt đầu từ sự kiện khoa học, từ sự kiện khoa học
dẫn đến nhiệm vụ nghiên cứu. Người nghiên cứu bắt đầu công việc cụ thể từ
nhiệm vụ nghiên cứu. Sự kiện khoa học (scientific fact) là điểm xuất phát của
chủ đề nghiên cứu. Lựa chọn sự kiện khoa học là cơ sở để tìm kiếm chủ đề
nghiên cứu. Sự kiện khoa học là một sự vật hoặc hiện tượng có chứa đựng
những vấn đề đòi hỏi giải thích bằng những tri thức khoa học và bằng những
phương pháp quan sát hoặc thực nhiệm khoa học.
Nhiệm vụ nghiên cứu là một chủ đề mà người nghiên cứu (hoặc nhóm
nghiên cứu) thực hiện. Có nhiều nguồn nhiệm vụ:
Chủ trương phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia được ghi trong các
văn kiện chính thức của các cơ quan có thẩm quyền. Người nghiên cứu có thể
tìm kiếm "thị trường" trong những nhiệm vụ thuộc loại này.
Nhiệm vụ được giao từ cơ quan cấp trên của cá nhân hoặc tổ chức
nghiên cứu. Đối với nguồn nhiệm vụ thuộc loại này người nghiên cứu không
có sự lựa chọn, mà phải làm theo yêu cầu.
Nhiệm vụ được nhận từ hợp đồng với đối tác. Đối tác có thể là các doanh


18
nghiệp hoặc tổ chức xã hội hoăc cơ quan chính phủ. Nguồn này thường dẫn đến
những nguồn thu nhập cao, tạo tiền đề phát triển nguồn lực nghiên cứu.
Nhiệm vụ do người nghiên cứu tự đặt cho mình xuất phát từ ý tưởng
khoa học của bản thân người nghiên cứu. Khi có điều kiện (chẳng hạn về kinh
phí) thì người nghiên cứu biến ý tưởng đó thành một đề tài nghiên cứu.
Việc lựa chọn đề tài có thể dựa trên những căn cứ sau:
Đề tài có ý nghĩa khoa học hay không? Ý nghĩa khoa học thể hiện trên
những khía cạnh như bổ sung những nội dung lý thuyết của khoa học; làm rõ
một số vấn đề lý thuyết vốn tồn tại hoặc xây dựng cơ sở lý thuyết mới.
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn hay không? Trong khoa học không phải đề
tài nào cũng mang ý nghĩa thực tiễn, nhất là trong nghiên cứu cơ bản thuần
tuý. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này phải luôn được xem xét, nhất là trong điều
kiện kinh phí eo hẹp. Ý nghĩa thực tiễn thể hiện trong việc xây dựng luận cứ
cho các chương trình phát triển kinh tế và xã hội; nhu cầu kỹ thuật của sản
xuất; nhu cầu về tổ chức, quản lý, thị trường,
Đề tài có cấp thiết phải nghiên cứu hay không? Tính cấp thiết thể hiện
ở mức độ ưu tiên giải đáp những nhu cầu lý thuyết và thực tiễn đã được xem
xét. Tính cấp thiết là một yêu cầu bổ sung đối với tính khoa học và tính thực
tiễn. Nếu chưa cấp thiết thì dành kinh phí và quỹ thời gian cho những hướng
nghiên cứu cấp thiết hơn.
Có đủ điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài hay không? Đề tài
dù có nhiều ý nghĩa khoa học, thực tiễn, cấp thiết nhưng không có phương
tiện thì cũng khó lòng thực hiện. Điều kiện nghiên cứu bao gồm nhân lực, cơ
sở thông tin, tư liệu, thiết bị thí nghiệm (nếu cần tiến hành thí nghiệm); quỹ
thời gian.
Đề tài có phù hợp sở thích không? Trong khoa học thì câu hỏi này luôn
mang một ý nghĩa quan trọng. Đương nhiên, bao giờ người nghiên cứu cũng
luôn phải đứng trước sự lựa chọn giữa nguyện vọng cá nhân với giải quyết
nhu cầu của xã hội và khả năng đáp ứng của các nguồn lực.


19
1.1.1.4. Hợp đồng NCKH
Theo từ điển tiếng Việt: Hợp đồng là một thỏa thuận (thường bằng văn
bản) có ràng buộc về mặt pháp lí.
Hợp đồng có thể được thể hiện bằng văn bản hay bằng lời nói có thể có
người làm chứng, nếu vi phạm hợp đồng hay không theo cam kết thì 2 bên sẽ
cùng nhau ra tòa và bên thua sẽ chịu mọi phí tổn.
Căn cứ vào định nghĩa trên thì tác giả có thể đưa ra một định nghĩa về
Hợp đồng NCKH như sau: Hợp đồng NCKH là một văn bản thể hiện sự cam
kết giữa 2 hoặc nhiều bên để thực hiện NCKH trong khuôn khổ pháp luật. Về
cơ bản thì trong hợp đồng sẽ có một bên giao nhiệm vụ NCKH cho bên thực
hiện nhiệm vụ NCKH và hai bên thỏa thuận quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi
bên và nếu vi phạm hợp đồng thì cũng xử lí theo pháp luật.
1.1.1.5 Quản lý NCKH
Quản lý NCKH là hệ thống hoạt động của các chủ thể quản lý trong
lĩnh vực khoa học lập kế hoạch, xây dựng định hướng trong nghiên cứu, triển
khai kế hoạch NCKH đã đề ra, kiểm tra tiến độ công việc, kết quả nghiên cứu,
đánh giá chất lượng, hiệu quả trong NCKH.
Quản lý đề tài NCKH trong trường đại học là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lư, nhằm làm cho
hoạt động NCKH đạt được mục tiêu mong muốn. Thực chất của quản lý đề
tài NCKH là thực hiện quy trình quản lý chất lượng nghiên cứu, làm cho các
NCKH đáp ứng mục tiêu đã định của chủ thể quản lý và chủ trì đề tài.
1.1.1.6. Tiến độ thực hiện đề tài NCKH
Tiến độ thực hiện đề tài NCKH là từng khoảng thời gian để thực hiện
một hay một số nội dung của hợp đồng NCKH mà các bên thực hiện hợp
đồng NCKH đã thỏa thuận trong hợp đồng NCKH.
1.1.2. NCKH trong lĩnh vực KHXH&NV
Khoa học xã hội là khoa học nghiên cứu về những qui luật vận động và

phát triển của xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa người và người, quan hệ

20
giữa con người và xã hội mà đối tượng của nó là các hiện tượng xã hội nảy
sinh từ mối quan hệ giữa người với người.
Khoa học nhân văn là khoa học nghiên cứu về con người, nghiên cứu
về đời sống tinh thần của con người. Khoa học nhân văn chính là khoa học
nghiên cứu việc phát triển nhân cách về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ tư tưởng,
tình cảm của con người.
Giữa khoa học xã hội và khoa học nhân văn có sự phân biệt với nhau,
song lại có quan hệ gần gũi, rất khó phân định một cách rạch ròi, đặc biệt
trong xu thế các khoa học thâm nhập, giao thoa, đan xen vào nhau mang tính
chất liên ngành như hiện nay. Khoa học xã hội bao giờ cũng bao hàm trong nó
những nội dung, mục đích nhân văn. Bất cứ một vấn đề nào của xã hội cũng
đều đụng chạm đến nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng, đạo đức, lối sống, tư tưởng
của con người, tức là liên quan đến vấn đề nhân văn. Khoa học xã hội bao giờ
cũng hướng tới những giá trị nhân văn là con người phát triển tự do toàn diện.
Còn khoa học nhân văn thì luôn mang bản chất xã hội vì thực tế con người là
một thành viên của xã hội. Con người vừa là sản phẩm của xã hội vừa là chủ
thể của xã hội. Nghiên cứu con người không thể tách khỏi xã hội và khi
nghiên cứu xã hội không thể tách khỏi con người. Vì vậy phân biệt khoa học
xã hội và khoa học nhân văn chỉ là tương đối.
Khoa học xã hội và nhân văn là khoa học nghiên cứu về những quan hệ
xã hội và về bản thân con người. Khoa học xã hội và nhân văn có liên quan
mật thiết đến các lĩnh vực chính trị, xã hội, đạo đức, nhân cách, tư tưởng, văn
hóa của dân tộc, cho nên cùng với khoa học tự nhiên là hai lĩnh vực khoa học
cơ bản của con người. Khoa học xã hội và nhân văn có chức năng tổng kết và
lưu giữ kinh nghiệm, tư vấn và phản biện xã hội, dự báo và định hướng tương
lai rất rõ nét. Những nghiên cứu ở lĩnh vực xã hội và nhân văn đã đóng góp
nhiều cho hoạt động học thuật của con người, góp phần không nhỏ trong quá

trình thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Thế kỷ 21 được nhận định là thế kỷ
của các ngành Khoa học xã hội và nhân văn bởi xã hội hiện đại với sự thay

21
đổi toàn diện về kinh tế, văn hóa, lối sống, môi trường với tốc độ nhanh đã
làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa gặp, chưa trải
nghiệm. Chính vì vậy hơn bao giờ hết, xã hội rất cần những lý giải khoa học
để làm cho cuộc sống con người được tốt hơn, tạo động lực cho xã hội phát
triển toàn diện.
Đặc điểm của NCKH trong lĩnh vực KHXH&NV
- KHXH&NV mang tính chính trị và hệ tư tưởng. KHXH&NV nghiên
cứu các hiện tượng xã hội, tức là các hoạt động do con người tạo ra. Mỗi con
người đều thuộc hệ tư tưởng và hoạt động của họ đều bị chi phối bởi hệ tưởng
tưởng đó. Các thành tựu của KHXH&NV đều sử dụng để giải quyết các vấn
đề xã hội của một chế độ xã hội nhất định, nó phản ánh thế giới quan, nhân
sinh quan, hệ tư tưởng chính trị của người nghiên cứu sáng tạo ra nó. Vì vậy
độ rủi ro đối với người nghiên cứu KHXH&NV cao hơn nếu, nếu kết quả
nghiên cứu của họ không phù hợp với hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền.
Chính điều này đã hạn chế khả năng sáng tạo của họ.
- Ngoài tính chính trị, KHXH&NV còn mang tính nhân loại, tính phổ
quát, nhiều thành tựu trong KHXH&NV, nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật
có giá trị trong mọi thời đại, sống mãi với thời gian, với nhân loại.
- KHXH&NV mang tính trìu tượng, khái quát cao, nhiều khi bị coi là
chung chung, vô định hình. Sản phẩm của KHXH&NV không mang lại hiệu
quả kinh tế trực tiếp và nhanh chóng như khoa học tự nhiên. Hiệu quả của nó
là hiệu quả kinh tế - xã hội có ý nghĩa rộng lớn. Do tính khái quát, trìu tượng
cao nên nhiều khi hoạt động nghiên cứu KHXH&NV dễ rơi vào tình trạng
cảm tính, chủ quan, duy ý chí, sai lầm khi người nghiên cứu chưa đủ tầm khái
quát, chưa có vốn sống và sự trải nghiệm thực tiễn nhất định.
- Đối tượng của KHXH&NV là những hiện tượng xã hội. Các hiện

tượng này không tồn tại độc lập bên ngoài mà bao giờ cũng gắn liền với hoạt
động của con người. Các qui luật xã hội diễn ra thong qua hoạt động có ý
thức của con người. Hoạt động của con người lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lí

22
như nhận thức, tính cảm, ý chí, nguyện vọng. Các yếu tố đó có thể đúng đắn
hoặc sai lầm, có ý thức hoặc không, hay lẫn lộn cả hai. Tâm lí của mỗi người
lại khác nhau hay trong chính bản thân mỗi người cũng khác nhau theo từng
giai đoạn. Vì vậy đối tượng nghiên cứu của KHXH&NV biến đổi nhiều hơn.
- KHXH&NV có tác động trực tiếp, lâu dài đến hoạt động của toàn xã
hội. Tri thức KHXH&NV phản ánh qui luật vận động và phát triển của xã hội
nên nó có khả năng dự báo tương lai hướng dẫn hành động cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới. KHXH&NV còn định hướng cho khoa học và công
nghệ phát triển vì mục đích tiến bộ. Nó tác động đến hệ tư tưởng, thế giới
quan, nhân sinh quan của toàn xã hội, định cho tư duy, lối sống, hành vi của
các thành viên trong cộng đồng.
Tóm lại KHXH&NV là một ngành khoa học khó, đòi hỏi người làm
KHXH&NV vừa phải có sự trải nghiệm thực tế, vừa phải có năng lực tư duy
khái quát, tổng hợp cao. Đánh giá hiệu quả của KHXH&NV thường không dễ
dàng và nhanh chóng. Trách nhiệm xã hội trong các kết quả nghiên cứu của
nó đòi hỏi mọi kết luận có liên quan trực tiếp đến việc hoạch định chính sách,
chủ trương, chương trình, kế hoạch phát triển xã hội đều phải thận trọng, cân
nhắc kĩ lưỡng.
1.1.3. Phương thức quản lí tài chính đối với hoạt động NCKH
1.1.3.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Theo Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội Việt Nam thông qua
năm 2002, ngân sách nhà nước được định nghĩa như sau: Ngân sách nhà nước
là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Thu chi ngân sách nhà nước hoàn toàn không giống như bất kỳ một
hình thức thu chi nào khác. Ở đây thu chi của nhà nước luôn được thực
hiện bằng luật pháp do luật định, về thu có các luật thuế và các văn bản
khác, về chi có các tiêu chuẩn luật định. Trên cơ sở đó nhằm đạt mục tiêu

23
cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước.
Mặt khác Ngân sách nhà nước còn phản ánh các quan hệ kinh tế giữa
một bên là nhà nước một bên là các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà
nước tham gia phân phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả
trực tiếp là chủ yếu. Những khoản thu nộp và cấp phát qua quỹ Ngân sách nhà
nước là các quan hệ được xác định trước, được định lượng và nhà nước sử
dụng chúng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Ngân sách nhà nước được quản lí thống nhất theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, công khai, minh bạch, phân cấp quản lí, gắn quyền hạn với trách
nhiệm. Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương,
phê chuẩn quyết toán NSNN.
Chức năng của NSNN là giám đốc quá trình huy động các khoản thu và
thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN kiểm tra, giám sát
quá trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng trốn lậu thuế, chây ỳ nộp
thuế của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN hoặc bị lạm dụng, làm
trái pháp luật, coi thường pháp luật và các chính sách động viên khác. Trong
khâu cấp phát nếu buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát chi thì dễ dẫn đến tình
trạng làm sai luật định và các chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm
tra, kiểm soát hoạt động thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các
chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó đánh giá hiệu quả
kinh tế và hiệu quả xã hội của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ trương, chính
sách, chế độ do Đảng và Nhà nước đề ra.
1.1.3.2. Cấp phát ngân sách
Cấp phát ngân sách là một trong những việc của NSNN. Cấp phát

NSNN là việc giao dự toán chi NSNN theo từng lĩnh vực chi và theo cơ cấu
giữa chi thường xuyên, chi đầu tư và phát triển, chi trả nợ. Thực hiện việc cấp
phát ngân sách chính là thực hiện chức năng phân phối của NSNN. Cấp phát
các khoản chi cho bộ máy quản lý Nhà nước, cho lực lượng quân đội, cảnh
sát, cho nhu cầu văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu tư phát

×