Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỊA LÝ THEO HƯỚNG TÍCH CỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 101 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>CHƯƠNG III: ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỊA LÝ THEOHƯỚNG TÍCH</b>

<b>MỞ ĐẦU</b>

Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục. Giáo dục đứng trước những thử thách là tri thức của loài người tăng càng nhanh nhưng cũng lạc hậu càng nhanh. Mặt khác thị trường lao động đang đòi hỏi càng cao đội ngũ lao động. Trong xã hội tri thức, việc phát triển kinh tế xã hội dựa vào tri thức. Vì vậy giáo dục đóng vai trị then chốt trong việc phát triển kinh tế xã hội thông qua đào tạo con người, chủ thể sáng tạo và sử dụng tri thức.

Hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang tập trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học ở các bậc học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học và giáo dục. Muốn đổi mới phương pháp ở trường phổ thông phải đổi mới phương pháp ở các trường Đại học, cao đẳng sư phạm, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Trong q trình dạy học, yếu tố phương pháp đóng vai trị hết sức quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến việc đạt được các mục tiêu dạy học. Tuy nhiên, cũng như nhiều yếu tố khác của quá trình dạy học, phương pháp dạy học khơng phải là yếu tố mang tính chất “tĩnh” mà nó ln có sự biến đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh dạy học thực tế. Trước những biến đổi không ngừng của thời đại như cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, những yêu cầu của nền kinh tế, chính trị của đất nước... các phương pháp dạy học cũng cần có sự biến đổi phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Việc đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề rất được quan tâm, không chỉ riêng đối với ngành giáo dục mà của cả xã hội. Trong quá trình đổi mới, nhiều phương pháp mới đã được đưa vào áp dụng và đã đạt được những hiệu quả không nhỏ. Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học là cả một quá trình vì thế nó địi hỏi những nhà cải cách cùng những người có liên quan trực tiếp (người dạy, người học, người quản lí…) cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện để việc đổi mới phương pháp dạy học ngày càng đạt hiệu quả cao hơn nữa.

Để có những hiểu biết sâu sắc về đổi mới phương pháp dạy học Điạ lý theo hướng tích cực, tập thể nhóm 3 chúng tơi đã tiến hành tìm hiểu và nghiên cứu trong thời gian ngắn với mong muốn được đóng góp thêm những tri thức về vấn đề này.

<b>NỘI DUNG</b>

<b>CHƯƠNG I: VÌ SAO PHẢI ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỊA LÍ THEO HƯỚNG TÍCH CỰC</b>

<b>1. Nhà trường trước những yêu cầu của xã hội</b>

<i><b>1.1. Những yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ</b></i>

Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng lớn: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và cuộc cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng này đang phát triển như vũ bão với nhịp độ nhanh chưa từng có trong lịch sử lồi người, đã thúc đẩy nhiều ngành, nhiều lĩnh vực phát triển mạnh mẽ. Đồng thời nó cũng đặt ra những yêu cầu to lớn đối với lực lượng lao động, đòi hỏi nhà trường phải đào tạo ra những con người mới khơng chỉ có trình độ kiến thức tiên tiến về chun mơn mà cũng phải có kĩ năng kĩ xảo nghề nghiệp, năng lực giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, đồng thời phải có óc tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng được

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

với những yêu cầu của thời đại, có tri thức khoa học cơng nghệ tiên tiến, có kĩ năng kĩ xảo vũng chắc, có ý thức nghề nghiệp để giải quyết “trúng, nhanh, sang tạo” các nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra.

<i>1.2. Những yêu cầu mới của cuộc cách mạng xã hội</i>

Dựa trên một số tài liệu trong và ngoài nước, đặc biệt tham khảo các văn kiện đại hội VIII tháng 12/1995 có thể phác thảo lên một số nét về bối cảnh thế giới dự báo đến năm 2020.

Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải cùng nhau hợp tác đa phương để cùng nhau giải quyết những vấn đề mang tính tồn cầu từ vấn đề bảo vệ mơi trường, kiểm sốt dân số, ngăn chặn chiến tranh cục bộ, suy giảm tài nguyên môi trường…

Các dân tộ địi hỏi phải tăng cường hịa bình, ổn định, giao lưu, hợp tác khu vực và quốc tế, nhằm ưu tiên phát triển kinh tế. Các nước có chế độ chính trị khác nhau phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cùng tồn tại hồ bình, các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức dân tộc, tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy bản sắc và truyền thống văn hoá dân tộc, chống lại sự áp đặt can thiệp của nước ngoài. Các nước XHCN, các đảng cộng sản, giai cấp công nhân và các lực lượng cách mạng khác kiên trì đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Cuộc cách mạng này đòi hỏi con người trong thời đại mới phải giỏi về những tri thức khoa học, có đạo đức, tư cách tốt. Bên cạnh đó con người cần có tính nhân bản cao, có ý thức chấp hành pháp luật, có tinh thần dân tộc, biết giữ gìn và phát huy những truyền thống, tinh hoa của dân tộc. Đồng thời, con người cịn phải có cá tính và bản sắc riêng, có ý chí, hồi bão, tự chủ, tự giác.

<i>1.3. Những yêu cầu của nền kinh tế chính trị của đất nước và thời đại</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Nước ta đang ở thời kì đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đổi mới sâu sắc, toàn diện nền kinh tế xã hội theo hướng mở cửa, thực hiện đa phương hố, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, là bạn với tất cả các nước trên thế giới.

Cơng cuộc đổi mới cũng đang địi hỏi phải có nhân tố con người Việt Nam mới, một nguồn lao động trong nước không chỉ dồi dào về số lượng mà phải có trình độ chun mơn kĩ thuật cao, tính kỉ luật trong lao động, năng động và sáng tạo, giầu lịng u nước, u q hương, có năng lực hợp tác quốc tế, giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra, tạo việc làm, lập nghiệp, thăng tiến trong cuộc sống góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Muốn vậy, giáo dục phải được đưa lên làm quốc sách hàng đầu và chất lượng giáo dục phải được nâng lên tương xứng với nhiệm vụ mới, phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay.

<i>1.4. Đổi mới nền giáo dục theo yêu cầu của thời đại</i>

Những biến đổi của xã hội đã thôi thúc các nước trên thế giới quan tâm hơn đến sự nghiệp giáo dục, đầu tư và xây dựng một nền giáo dục đáp ứng kịp thời những yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo sự hoà nhập và giao lưu quốc tế.

Giáo dục đã trở thành quốc sách hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Nền giáo dục phải hướng vào những yêu cầu phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục không những tạo ra con người trí tuệ mà cịn phải nhấn mạnh tới nội dung nhân văn. Giáo dục không chỉ chú ý đến mặt thiết chế của xã hội về mục đích, mục tiêu, mà cịn phải quan tâm đến lợi ích của người học và nhu cầu phát triển của chính bản thân người học. Đó là tính thống nhất giữa nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu phát triển của chính bản thân cá nhân. Chất lượng đào tạo cần phải được nâng cao tương xứng với những nhiệm vụ mới, phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>1.5. Những yêu cầu cần đổi mới trong giáo dục đào tạo ở nước ta</i>

Cùng với sự phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam từng bước được đổi mới. Đảng ta xác định: Giáo dục là “ Quốc sách hàng đầu”, coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Mặc dù sớm ý thức quan tâm đầu tư cho giáo dục, nhưng đến nay những kết quả đạt được là hết sức khiêm tốn . Nền giáo dục nước ta chưa đáp ứng được những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay. So với nhiều nước trong khu vực nền giáo dục nước ta cũng nhiều mặt thua kém và đang có nguy cơ tụt hậu. Yêu cầu đặt ra là phải đổi mới hệ thống giáo dục trong nước, phải xây dựng lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo.

<b>2. Thực trạng dạy và học ở các nhà trường Việt Nam</b>

Đánh giá thực trạng giáo dục Việt Nam, tài liệu chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 (2002, tr.14) khẳng định: “Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới. Chương trình giáo dục nặng tính hàn lầm, kinh viện, nặng về thi cử, chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp; chưa gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội cũng như nhu cầu của người học; chưa gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học công nghệ và triển khai ứng dụng”.

Từ đó có thể nêu ra hai vấn đề lớn thuộc về văn hóa học tập trong giáo dục ở Việt Nam nói chung và giáo dục trung học nói riêng là:

- Nền giáo dục mang tính “hàn lâm, kinh viện” : một nền giáo dục định hướng vào việc truyền thụ hệ thống tri thức được quy định sẵn dựa trên cơ sở các môn khoa học chuyên ngành, nhưng ít chú ý đến việc rèn luyện tính tích cực nhận thức, tính độc lập, sáng tạo cũng như khả năng vận dụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

những tri thức đó trong thực tiễn. Trong nền giáo dục mang tính “hàn lâm, kinh viện” thì phương pháp dạy học chủ yếu dựa trên quan điểm giáo viên là trung tâm, người thầy đóng vai trị chính trong truyền thụ tri thức cho người học. Phương pháp dạy học chủ yếu là thông báo tri thức một cách thụ động. Các phương pháp phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh cũng như việc rèn luyện phương pháp tự học ít được chú trọng.

- Nền giáo dục “ứng thí” : việc học tập mang nặng tính đối phó với các kì thi, chạy theo bằng cấp mà ít chú ý đến phát triển tồn diện nhân cách cũng như năng lực vận dụng kiến thức đã học trong thực tiễn. Đối với cấp THPT, vấn đề này càng nặng nề, vì tâm lí chung của học sinh là muốn lên đại học, trong khi chỉ tiêu vào học hàng năm chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ so với tổng số học sinh tốt nghiệp THPT. Từ đó dẫn tới xu hướng học lệch, học tủ nhằm mục đích đối phó với các kì thi. Mặt khác các kì thi tuyển sinh hiện nay chỉ giới hạn ở một số môn học, cũng như không thể kiểm tra tồn diện tri thức và có nhiều hạn chế trong việc kiểm tra năng lực vận dụng tri thức một cách sáng tạo trong các tình huống gắn liền với thực tiễn.

Các nghiên cứu thực tiễn dạy học ở các nhà trường cũng chỉ ra một số vấn đề cụ thể sau về mặt phương pháp dạy học:

- Phương pháp thuyết trình, thơng báo tri thức của giáo viên vẫn là phương pháp dạy học được sử dụng quá nhiều, dẫn đến tình trạng hạn chế hoạt động tích cực của học sinh;

- Việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học và sử dụng các phương pháp phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo cịn ở mức độ hạn chế;

- Việc gắn nội dung dạy học với các tình huống thực tiễn chưa được chú trọng;

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Dạy học thí nghiệm, thực hành, dạy học thơng qua các hoạt động thực tiễn ít được thực hiện;

- Việc sử dụng phương tiện dạy học mới, công nghệ thông tin chỉ bước đầu thực hiện ở một số trường;

- Việc rèn luyện khả năng vận dụng tri thức liên môn để giải quyết các chủ đề phức hợp gắn với thực tiễn chưa được chú ý đúng mức.

Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là thế hệ trẻ được đào tạo mang tính thụ động cao, hạn chế khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống. Điều đó có nghĩa là giáo dục chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực các nhân, tính năng động và sáng tạo…”. (Luật giáo dục, Điều 27).

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>Chương II: THẾ NÀO LÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC(WHAT?)</b>

<b>I.Thế nào là phương pháp dạy học?</b>

<i><b>I.1. Khái niệm phương pháp dạy học</b></i>

PPDH theo tiếng Hy Lạp là “Methodos”, nghĩa là con đường, cách thức, phương tiện mà con người cần đi theo để đạt được mục đích nhất định trong nhận thức và thực tiễn.

Áp dụng trong dạy học có thể hiểu đó là

- Con đường của việc truyền thụ tương ứng với hoạt động của người dạy

- Con đường của việc lĩnh hội tương ứng với hoạt động của người học

Người giáo viên không được chỉ tập trung vào hoạt động dạy của mình. Trọng tâm của việc dạy là tổ chức và lãnh đạo hoạt động học của

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>Như vậy Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức,</i>

<i>thơng qua đó giáo viên và học sinh lĩnh hội những hiện thực tự nhiên và xãhội xung quanh trong những điều kiện học tập cụ thể (Meyer, H.1987).</i>

Mỗi PPDH bao gồm các yếu tố sau:

Người ta ước tính có tới hàng trăm PPDH cụ thể, bao gồm những phương pháp chung cho nhiều môn và các phương pháp đặc thù bộ môn. Bên cạnh các phương pháp truyền thống quen thuộc như thuyết trình, đàm thoại, biểu diễn trực quan, làm mẫu có thể kể ra một số phương pháp khác như: Nghiên cứu trường hợp, điều phối, đóng vai,… Sau đây là bảng liệt kê một số PPDH.

Nghiên cứu trường hợp Khám phá trên mạng (WebQuest)

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Đóng vai Dạy học vi mô

<i>I.2. Mối quan hệ mục tiêu - nội dung - phương pháp</i>

Việt Nam đang trong quá trình đẩy nhanh CNH - HĐH, nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đặc biệt trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, đòi hỏi mục tiêu đào tạo phải hướng vào những người lao động tự chủ, sáng tạo, có năng lực thích ứng với kinh tế thị trường, năng lực giải quyết vấn đề và khẳng định vị trí của mình trong xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.

Mục tiêu giáo dục trên đòi hỏi nội dung giáo dục cũng được thay đổi, trong Luật giáo dục chương I điều 4 có ghi “ Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, tồn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống, coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân, bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lí lứa tuổi người học”.

Mặt khác, phương pháp dạy học có những đặc điểm là:

- PPDH bao giờ cũng do mục tiêu quyết định, đảm bảo con đường đi đến mục tiêu dạy học ngắn nhất và đạt kết quả nhất

- PPDH do nội dung quy định và phải phục vụ nội dung dạy học

- PPDH gắn liền với nhận thức, tâm sinh lí lứa tuổi, nên PPDH có sự thay đổi cho sát với đối tượng

- Có tính hệ thống

Vì vậy mục tiêu, nội dung dạy học thay đổi thì PPDH cũng phải thay đổi cho phù hợp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Để có được những con người tự chủ, năng động, sáng tạo thì phương pháp giáo dục đào tạo phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện, phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động, sáng tạo trong lao động, học tập cho học sinh ngay khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường.

Vì vậy nghị quyết TW 4 khố VII đã ghi rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả cấp học, bậc học. Kết hợp tốt học với hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.

Nghị quyết TW 2 khoá VIII cũng đã nhận định: “Phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học”. Do đó, đổi mới PPDH là một yêu cầu cấp thiết hiện nay trong nhà trường phổ thông, cao đẳng và đại học ở nước ta.

Mục tiêu, nội dung, phương pháp có mối quan hệ hữu cơ biện chứng với nhau. Bên cạnh quan hệ thường nêu giữa mục tiêu (M), nội dung (N), phương pháp (P) theo sơ đồ tuyến tính:

M N P

(Tức là thầy chọn nội dung tuỳ thuộc mục tiêu, rồi chọn phương pháp tuỳ thuộc nội dung), nổi lên quan hệ trực tiếp từ mục tiêu đến phương pháp (theo sơ đồ tam giác)

(Người thầy chọn phương pháp không chỉ từ nội dung mà còn trực tiếp từ mục tiêu).

P N

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Ngày nay khi vai trị của người trị được khẳng định, mơ hình tam giác MNP trở thành phổ biến, thay thế mô hình tuyến tính.

Như vậy đang có xu hướng lựa chọn phương pháp trực tiếp từ mục tiêu đào tạo, nhất là khi nội dung mang tính chủ đề, vấn đề, tình huống…khi đó cần rất chú ý đến đặc điểm của người học, nhất là năng lực tự học, tự thể hiện của người học để bồi dưỡng cho họ những năng lực cơ bản này.

<i>I.3. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học trên thế giới </i>

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học phù hợp với yêu cầu mới của thời đại, hiện nay trên thế giới có một số phương hướng dạy học chủ yếu sau đây:

- Tích cực hóa q trình dạy học. - Cá thể hóa việc dạy học.

- Cơng nghiệp hóa giáo dục và thực hiện cơng nghệ đào tạo. - Dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

<b>II. Thế nào là phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i><b>2.1. Khái niệm phương pháp dạy học tích cực</b></i>

<i>2.1.1. Tính tích cực </i>

Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người. Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà cịn chủ động sản xuất ra của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại, phát triển xã hội, sáng tạo ra nền văn hóa, chủ động cải biến mơi trường tự nhiên, cải tạo xã hội.

Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực xã hội như là một điều kiện, đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong q trình giáo dục.

<i>2.1.2. Tính tích cực học tập</i>

Tính tích cực học tập - Về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.

Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, q trình nhận thức trong học tập khơng nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết mà nhằm lĩnh hội những tri thức lồi người đã tích lũy được. Tuy nhiên trong học tập học sinh cũng phải khám phá ra những hiểu biết mới đối với bản thân. Học sinh sẽ thơng hiểu, ghi nhớ những gì đã nắm được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình. Đó là chưa nói lên đến trình độ nhất định, sự học tập tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học cũng làm ra những tri thức mới cho khoa học.

Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết

<i>với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của</i>

<i>tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lí tạo nên tính tích cực. Tính</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i>tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của</i>

<i>sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát</i>

triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập.

Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hồn thành các bài tập, khơng nản trước những tình huống khó khăn…

Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như: - Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn… - Tìm tịi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề…

- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.

<i>2.1.3. Phương pháp dạy học tích cực</i>

Phương pháp dạy học tích cực là cách dạy hướng tới việc học tập tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, chống lại thói quen học tập thụ động của học sinh.

Bản chất của dạy học tích cực là khai thác động lực học tập trong bản thân người học để phát triển chính họ, đồng thời coi trọng lợi ích nhu cầu của mỗi cá nhân người học, đảm bảo cho họ thích ứng với đời sống xã hội.

Thực hiện dạy và học tích cực sẽ mang lại hiệu quả cao trong giáo dục. Người giáo viên từ chỗ chuyển giao thông tin, nay điều chỉnh và mở rộng thành nhiệm vụ tạo ra các điều kiện học tập và hỗ trợ quá trình học tập của học sinh. Học sinh được thách thức tham gia một cách tích cực trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

xây dựng sự hiểu biết và quan niệm của học (tự suy nghĩ và tìm hiểu bên cạnh việc chăm chú nghe giảng, làm bài tập và ghi nhớ thông tin). Bản chất của dạy học tích cực nằm trong khái niệm học như một quá trình tích cực và kiến tạo, thơng qua đó người học xây dựng mối liên hệ giữa thông tin mới và những kiến thức kĩ năng có sẵn.

<i>Sơ đồ động cơ hứng thú của người học</i>

<i>2.2. Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực</i>

<i>2.2.1. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh</i>

Trong PPDH dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thơng qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ khơng phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, khơng rập theo những khn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Dạy theo cách này thì giáo viên khơng chỉ giản đơn giản truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.

<i>2.2.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học</i>

Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.

Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì khơng thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.

Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn

<i>luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học </i>

thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự

<i>chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.

<i>2.2.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác</i>

Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh khơng thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hồn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.

Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.

Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy giáo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ khơng thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mơ hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.

<i>2.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò</i>

Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.

Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.

Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thơng minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.

Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ khơng cịn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.

Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên khơng cịn đóng vai trị đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành

<i>người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm</i>

nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là

<i>người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm</i>

tịi hào hứng, tranh luận sơi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chun mơn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>2.2.5. Vai trò chỉ đạo của giáo viên </i>

Thực hiện phương pháp tích cực, vai trị của giáo viên khơng hề bị hạ thấp mà trái lại có yêu cầu cao hơn nhiều. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng trước đó khi soạn bài, giáo viên phải đầu tư nhiều cơng sức và thời gian mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tịi hào hứng, tranh luận sơi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chun mơn sâu rộng, trình độ sư phậm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh nhiều khi nằm ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

<i>So sánh đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học tích cực Phương pháp truyền thốngPhương pháp tích cựcMục tiêu Đào tạo trẻ em thành người lớn</i>

thông qua những người lớn tuổi hơn, những người hiểu biết, những hình mẫu.

Tạo ra các chương trình đào tạo phù hợp với chủ thể nhằm hình thành các năng lực chun mơn, xã hội và các nhân, khả năng

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

hành động.

<i>Nội dung Lựa chọn sẵn các nội dung quan</i>

trọng, từ đó xác định yêu cầu, tiêu chuẩn, những điều bắt buộc thiên về định hướng chuyên môn.

Lựa chọn nội dung tiêu biểu, then chốt, những vấn đề có ý nghĩa đối với đời sống xã hội. Việc lựa chọn nội dung mang tính liên mơn và có sự thỏa thuận của người học.

<i>Phươngpháp</i>

Các phương pháp truyền thụ, thông báo chiếm ưu thế, nặng nề định hướng hiệu quả truyền đạt.

Giờ học là sự phối hợp hành động cảu người dạy và người học thông qua việc lập kế hoạch, thực hiện, đánh giá. Dạy học theo hướng giải quyết vấn đề, định hướng hành động chiếm ưu

Giáo viên thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh 3 Học sinh lắng nghe lời giảng của

giáo viên, ghi chép và học thuộc lịng

Học sinh chủ động, tích cực tham gia hoạt động học tập

4 Giáo viên cố gắng truyền đạt hết kiến thức và kinh nghiệm của mình

Giáo viên huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm sống của học sinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

để hoàn thành bài để xây dựng bài 5 Giao tiếp thầy – trò nổi lên hàng

đầu

Quan hệ thầy – trò, trò - trò, hợp tác với bạn, học bạn

6 Học sinh trả lời theo SGK và vở ghi Khuyến khích học sinh nêu những ý kiến cá nhân về vấn đề đang học 7 Giáo viên cho ví dụ mẫu rồi yêu cầu

học sinh làm những bài tương tự

Học sinh tự xác định vấn đề và giải quyết vấn đề

8 Khơng phát huy được tính tích cực của học sinh tham gia xây dựng bài

Khuyến khích học sinh nêu thắc mắc trong khi nghe giảng

9 Học sinh làm bài lệ thuộc hoàn toàn vào SGK và lời giảng của thầy

Học sinh làm bài tập có sáng tạo

10 Giáo viên độc quyền đánh giá và cho điểm cố định, đánh giá theo sự ghi nhớ thông tin có sẵn

Giáo viên khuyến khích học sinh nhận xét, bổ sung câu trả lời của

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Trong thập kỉ cuối cùng của thế kỷ XX, các tài liệu giáo dục ở nước ngoài và trong nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc cần thiết phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

Dạy học lấy học sinh làm trung tâm cịn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học sinh trong qúa trình dạy học, khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên.

Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho một lớp đơng học trị, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó có điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy "thơng báo - đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Cách dạy này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng này, các nhà sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, thực hiện "dạy học phân hóa"<small>,</small> quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân học sinh trong tập thể lớp. Phương pháp dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm ra đời từ bối cảnh đó.

Trên thực tế, trong quá trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hồn thiện nhân cách, khơng ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học khơng tự giác chủ động,

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

khơng chịu học, khơng có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.

Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trị của người học thì đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên,

<i>dạy học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy họccụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình</i>

dạy học chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học.

<i><b> 2.4. Ý nghĩa của phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm</b></i>

Phương pháp dạy học tích cực tạo cơ hội cho người học phát huy được trí tuệ, tư duy, óc thơng minh của mình. Chính phương pháp này đã khơi gợi, kích thích địi hỏi người học suy nghĩ, tìm tòi và phát huy tư duy đến mức cao nhất, moi móc trong con người mình, thậm chí trong tiềm thức của mình cái gì đó có thể giải quyết được vấn đề đặt ra. Như vậy, phương pháp này giúp người học nhận thức được mình, phát hiện ra những sở trường, những khả năng tiềm ẩn trong bản thân mỗi người học.

Phương pháp dạy học tích cực cịn tạo cơ hội để phát huy trí tuệ tập thể một cách rộng lớn, sâu xa, có thể nói là vơ cùng. Vì nó giúp cho người học đào sâu suy nghỉ, phát huy khả năng của họ và hợp tác với bạn giải quyết tốt các vấn đề, các tình huống học. Trong hướng dẫn thảo luận hoặc trong học tập theo nhóm nhỏ, nếu giáo viên biết đặt câu hỏi khơi gợi thì đây là cơ hội để phát huy tiềm năng, tư duy, trí tuệ, lối suy nghĩ của cá nhân và tập thể học sinh và từ đó tổ chức tranh luận. Có thể mỗi người nói một cách khác nhau, khơng ai lường hết được các vấn đề nảy sinh trong quá trình đối thoại, cần phải tranh luận và làm sao để mọi người không chỉ tranh luận ngay lúc ấy, mà khi về nhà người

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

học vẫn thấy cần tranh luận với chính mình: Người này nói thế này, người kia nói thế khác, vậy cịn mình suy nghĩ như thế nào? Thậm chí trong lúc ngủ, tiềm thức của họ vẫn làm việc. Rồi có khi sáng dậy khi đi chơi, anh ta chợt nảy ra một ý hay, liên quan đến những câu hỏi đặt ra, những vấn đề mới xuất hiện. Như vậy, phương pháp tích cực phát huy được tính tích cực, chủ động, tự giácvà phát triển tư duy sáng tạo của người học Chỉ có điều là người thầy phải biết đặt câu hỏi và nắm được đối tượng để đặt cho trúng và khơi gợi suy nghĩ, tư duy của học sinh.

Phương pháp dạy học tích cực bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học và lịng ham học. Đó là cái quý nhất.

Ở trường học chỉ có thể cung cấp cho học sinh khối lượng tri thức giới hạn. Trong khi đó, khả năng hiểu biết, sự mong muốn của con người trong cả cuộc đời lại là vô cùng. Cần đào tạo con người mới vươn lên mãi mãi trong q trình của cuộc sống. Karl Marx có nói về sự phát triển tự do và toàn diện của con người, đó là một q trình, một cơng việc suốt đời. Phương tiện thông tin đại chúng hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ mới - Công nghệ tin học đã đáp ứng được điều này: Người ta có thể ngồi ở nhà mà vân tiếp xúc được với bất cứmột kiến thức gì, với bất cứ thơng tin gì trên thế giới. Dù muốn đọc bất cứ cuốn sách gì, muốn nghe bất cứ bài gì, nếu có phương pháp, phương tiện, có sự tiếp túc thì đều có thể thực hiện được.

Như vậy, nhà trường đã đem lại cho học trò phương pháp học và sự ham học, sự cần thiết phải học. Sự cần thiết này cũng bức xúc như người ta cần hít thở để có dưỡng khí, cần ăn để có dinh dưỡng, cần đi chơi để được thoải mái.

<i>Sơ đồ: Phương pháp dạy học tích cực góp phần hình thành năng lực chohọc sinh</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<i>Sơ đồ: Cấu trúc năng lực</i>

<i>2.5. Hướng thực hiện dạy và học tích cực</i>

Thực hiện dạy và học tích cực khơng có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp dạy học truyền thống. Các sách lí luận dạy học đã chỉ rõ, các phương pháp thực hành là tích cực hơn các phương pháp trực quan, các phương pháp trực quan thì tích cực hơn các phương pháp dùng lời.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Trong nhóm phương pháp dùng lời thì lời (của thầy, bạn, SGK) đóng vai trị là nguồn tri thức chủ yếu. Việc sử dụng các phương tiện trực quan chỉ nhằm minh họa lời của thầy. Trong phương pháp dùng lời, ngay cả những phương pháp tập trung vào giáo viên như thuyết trình, trần thuật, giảng giải cũng vẫn rất cần thiết. Các phương pháp vấn đáp, làm việc với sách, viết báo cáo nhỏ đều có nhiều thuận lợi để phát huy tính tích cực người học.

Trong nhóm các phương pháp trực quan thì phương tiện trực quan là nguồn dẫn đến kiến thức mới, lời của thầy chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn sự tri giác các tài liệu trực quan (mẫu vật, tranh ảnh, thí nghiệm, băng hình…). Học sinh dùng giác quan để tri giác tài liệu do giáo viên trình diễn và dùng tư duy để rút ra kiến thức mới.

Trong nhóm các phương pháp thực hành, học sinh được trực tiếp thao tác trên đối tượng (quan sát bằng dụng cụ, giải phẫu vật mẫu, làm thí nghiệm…), tự lực khám phá tri thức mới.

Muốn thực hiện dạy và học tích cực cần phát triển các phương pháp thực hành, trực quan theo kiểu tìm tịi từng phần hoặc nghiên cứu phát hiện, nhất là khi dạy các môn khoa học thực nghiệm.

Trong đổi mới phương pháp dạy học cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực trong hệ thống phương pháp dạy học đã quen thuộc, đồng thời phải học hỏi, vận dụng phương pháp dạy học mới, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học ở nước ta để giáo dục từng bước tiến lên vững chắc. Theo hướng nói trên nên quan tâm phát triển một số phương pháp dưới đây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<b>Chương III: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC</b>

<b>1. Phương pháp giải quyết vấn đề</b>

<i><b>1.1. Ý nghĩa của việc áp dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề</b></i>

Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề (GQVĐ) là phương pháp dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tịi khoa học.

Bản chất của nó là tạo nên một chuỗi những “Tình huống có vấn đề”, “Tình huống học tập” và điều khiển học sinh giải quyết những vấn đề đó.

Phương pháp dạy học GQVĐ đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển năng lực tư duy sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học.

“Tình huống có vấn đề”, “Tình huống học tập” là trạng thái tâm lí xuất hiện khi con người gặp phải những tình huống khó khăn mà bằng tri thức đã có, bằng cách thức đã biết khơng thể thực hiện được mà địi hỏi phải lĩnh hội tri thức mới và cách thức hành động mới. Nói cách khác “tình huống có vấn đề”, “tình huống học tập” là trạng thái tâm lí khi học sinh gặp phải mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết nhưng muốn biết. Có nhiều loại tình huống có vấn đề, nhưng tựu trung lại có những loại tình huống có vấn đề sau:

- Tình huống nghịch lý là tình huống vấn đề xuất hiện khi đứng trước một sự lựa chọn khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết.

- Tình huống bác bỏ là tình huống vấn đề địi hỏi phải bác bỏ một luận điểm kết luận sai lầm. Để đạt được điều đó học sinh phải tìm ra được chỗ yếu

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

chỗ sai, chỗ thiếu chính xác của luận điểm hoặc kết luận đó và chứng minh tính chất sai lầm của nó.

- Tình huống “tại sao” là tình huống phổ biến trong nghiên cứu khoa học và trong dạy học.

Các tình huống này địi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức và kĩ năng vốn có để giải quyết vấn đề đặt ra. Học sinh phải tìm ra được các mối liên hệ đặc biệt là mối liên hệ nhân quả. Tìm ra được nguyên nhân dẫn đến kết quả đó.

<i>Tác dụng của dạy học giải quyết vấn đề</i>

- Học theo cách định hướng GQVĐ giúp cho việc liên hệ và sử dụng những tri thức đã có của người học trong việc tiếp thu tri thức khác nhau mà trước đó thường được nghiên cứu độc lập.

- Thông qua học định hướng GQVĐ người học có thể thường xun hơn giải thích được những sự sai khác giữa lí thuyết và thực tiễn, những mâu thuẫn nhận thức được tìm thấy.

- Sự tham gia tích cực của người học trong quá trình dạy học làm tăng cường niềm vui cũng như cá thể hóa đối với nội dung học tập do đó làm tăng cường động cơ học tập.

- Dạy học GQVĐ hỗ trợ việc phát triển năng lực giao tiếp xã hội.

Việc liên hệ với các tình huống thực tiễn trong dạy học định hướng GQVĐ dựa trên cơ sở của tâm lí học nhận thức. Khả năng vận dụng tri thức đã học cao nếu tri thức đó được học qua việc giải quyết các tình huống và lại được tái sử dụng trong các tình huống thực tiễn.

<i>1.2. Vài nét đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Đặc trưng cơ bản của dạy học GQVĐ là “tình huống có vấn đề”, “tình huống học tập”

<i>1.2.1.Tình huống có vấn đề (THCVĐ) </i>

<i>C.L Robinstein (1958) nhấn mạnh rằng tư duy chỉ bắt đầu ở nơi</i>

THCVĐ. Nói cách khác là ở đâu khơng có vấn đề, ở đó khơng có tư duy, THCVĐ luôn luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắc cần tháo gỡ…Do vậy, kết quả của việc nghiên cứu và giải quyết THCVĐ sẽ là tri thức mới, nhận thức mới hoặc phương thức hành động mới với chủ thể.

<i>M.A. Machinski (1972) coi THCVĐ là một dạng đặc biệt của sự tác</i>

động qua lại của chủ thể và khách thể, được đặc trưng bởi trạng thái tâm lí xuất hiện ở chủ thể khi giải quyết một bài toán, mà việc giải quyết ấy lại cần tri thức mới, cách thức hành động mới chưa hề biết trước. Ông đã đưa ra ba yếu tố cấu thành THGQVĐ:

- Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.

- Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết. - Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.

<i>Ô. Kôn nêu dặc trưng cơ bản của THCVĐ là những lúng túng về lí</i>

thuyết và hực hành để giải quyết vấn đề. Nó xuất hiện nhờ tính tích cực của người học. THCVĐ là một hiện tượng chủ quan, một trạng thái tâm lí của chủ thể, trạng thái lung túng trong quá trình nhận thức như một mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể nhận thức trong hoạt động của con người.

<i>1.2.2. Tình huống học tập</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Ý tưởng học thuộc và ghi nhớ được thay thế bởi ý tưởng hoạt động và thể nghiệm của học sinh trong những tình huống giáo dục, được mô tả càng chi tiết càng tốt trong khuôn khổ của nội dung giảng dạy. Hoạt động là một mặt quan trọng của việc triển khai chương trình. Ở đó chương trình được dùng trực tiếp như một cơng cụ giảng dạy. Hoạt động học tập được tiến hành trong những tình huống giáo dục hoặc học tập cần được kế hoạch hóa trong chương trình, trong đơn vị giảng dạy ứng với môt mục tiêu nhất định. Những thành phần chủ yếu của một tình huống học tập như sau:

- Nội dung mơn học hoặc chủ đề - Tình huống khởi đầu

- Hoạt động trí lực của học sinh trong việc trả lời câu hỏi hoặc giải quyết vấn đề.

- Kết quả hoặc sản phẩm hoạt động. - Đánh giá kết quả.

<i>Đặc trưng thứ hai của phương pháp là chia quá trình thực hiện thànhnhững giai đoạn, những bước có tính mục đích chun biệt</i>

Có nhiều cách chia bước chia giai đoạn giải quyết: - Jonh Dewey đề nghị 5 bước giải quyết vấn đề:

+MTìm hiểu vấn đế. + Xác định vấn đề.

+ Đưa ra những giả thuyết khác nhau về GQVĐ.

+ Xem xét hệ quả của từng giả thuyết dưới ánh sang của những kinh nghiệm trước đây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

+ Thử nghiệm giải pháp thích hợp nhất. - Ronh. P. De Cecco chia 5 bước:

+ Mơ tả cho sinh viên u cầu bài tốn và yêu cầu lời giải

+ Đánh giá khả năng sinh viên về những quan điểm nguyên tắc cần thiết cho việc GQVĐ

+ Hội tụ tất cả những nguyên tắc và học thuyết cần thiết cho việc giải bài toán.

+ Đưa ra định hướng bằng lời lẽ giúp sinh viên suy nghĩ.

+ Kiểm tra sự học tập của sinh viên bằng cách yêu cầu họ trình bày đầy đủ việc giải bài toán.

- GS Trần Văn Hà chia thành 4 bước: + Dự kiến tình hình tình huống. + Phân tích.

+ Tổng hợp. + Hành động.

- GS. Meier đưa ra 8 bước GQVĐ

+ Bước 1: Giải thích các thuật ngữ và đặt vấn đề + Bước 2: Thu thập các vấn đề thành phần + Bước 3: Tập hợp các giả thuyết và ý tưởng

+ Bước 4: Sắp xếp hệ thống hóa các giả thuyết và ý tưởng + Bước 5: Xác định mục đích học tập cần đạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

+ Bước 6: Nghiên cứu nội dung học tập theo cá nhân hay theo nhóm qua kế hoạch đã thỏa tuận

+ Bước 7: Tập hợp và thảo luận các nội dung đã nghiên cứu

+ Bước 8: Nhận xét rút kinh nghiệm về quá trình nghiên cứu nội dung, tiến trình phương pháp làm việc cũng như quá trình làm việc nhóm.

Như vậy, dạy học theo phương pháp GQVĐ là hình thức dạy học mà ở đó giáo viên tổ chức được THCVĐ giúp người học nhận thức nó, chấp nhận giải quyết và tìm kiếm lời giải trong q trình hoạt động hợp tác giữa thầy và trị, phát huy tối đa tính độc lập của học sinh, kết hợp với sự hướng dẫn của giáo viên.

Đặc trưng độc đáo của dạy học GQVĐ là sự tiếp thu tri thức trong hoạt động tư duy sáng tạo.

<i>Đặc trưng thứ ba của phương pháp là có những cách tổ chức đa dạng</i>

Quá trình học tập diễn ra với những cách tổ chức đa dạng lôi cuốn người học tham gia cùng tập thể, động não tranh luận, dưới sự dẫn dắt, gợi mở, cố vấn của giáo viên:

- Làm việc theo nhóm nhỏ: trao đổi ý kiến khuyến khích tìm tịi.

- Thực hiện những kĩ thuật hỗ trợ tranh luận: ngồi vịng trịn, chia nhóm theo những ý kiến cùng loại.

- Công não (brain storming): đề ra những ý hoặc giải đáp ở mức độ tối đa có thể có ở mình.

- Xếp hạng (Ranking) là một cách kích thích suy nghĩ sâu hơn về một gay cấn và làm rõ các ưu tiên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

- Sắm vai (role play) luyện tập cho người học tăng them khả năng nghĩ ra những hướng khác, và phát triển kĩ năng GQVĐ.

- Mô phỏng.

- Những chiến lược ra quyết định: nhằm đào tạo những kĩ năng cần thiết cho sự tham gia dân chủ trong tương lai.

- Báo cáo và trình bày: thực hiện nhiều cách làm, cá nhân hay báo cáo của nhóm trước lớp.

<i>3.1.2.3. Cấu trúc một bài học theo dạy học giải quyết vấn đề thường như sau</i>

- Đặt vấn đề xây dựng bài toán nhận thức + Tạo tình huống có vấn đề

+Phát hiện và nhận dạng vấn đề nảy sinh + Phát biểu vấn đề cần giải quyết

- Giải quyết vấn đê + Đề xuất các giả thuyết

+ Lập kế hoạch giải quyết vấn đề

+ Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề - Kết luận

+ Thảo luận kết quả và đánh giá

+ Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu + Phát biểu kết luận

+ Đề xuất vấn đề mới

<i>1.2.4. Các mức độ của phương pháp</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Trong dạy học GQVĐ có thể chia làm 4 mức độ: - Mức 1:

+ Giáo viên đặt vấn đề nêu cách GQVĐ.

+ Học sinh thực hiện cách GQVĐ theo hướng dẫn của giáo viên. + Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh.

+ Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống.

+ Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh tự lực đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp.

+ Học sinh thực hiện cách GQVĐ với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. + Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

- Mức 4:

+ Học sinh sinh tự lực phát hiện các vấn đề nảy sinh các giả thuyết và lựa chọn giải pháp.

+ Học sinh phải tự đánh gía chất lượng và hiệu quả.

Như vậy, dạy học giải quyết vấn đề là giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh tự lực giải quyết các vấn đề đặt ra. Bằng cách đó học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp đi tới

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

tri thức đó, lại vừa phát triển tư duy tích cực, sang tạo và có khả năng vận dụng tri thức giải quyết vấn đề mới.

Dạy học giả quyết vấn đề không chỉ giới hạn ở phạm trù phương pháp dạy học. Việc áp dụng này đòi hỏi phải đổi mới cả nội dung, cách thức tổ chức quá trình dạy học trong mối liên quan thống nhất với phương pháp dạy học. 2. Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức từ bản đồ

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo cho phù hợp với những yêu cầu mới của thời đại cũng như của xã hội… việc đổi mới PPDH là rất cần thiết và là tất yếu. Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã khẳng định phải “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ 1 chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học”.

Một trong những phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở các trường phổ thông và đại học là phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy và học địa lí (hay cịn gọi là phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức từ bản đồ

<i>2.1.Vai trò của bản đồ trong dạy học địa lí</i>

Bản đồ là một phương tiện trực quan, một nguồn tri thức địa lí quan trọng. Qua bản đồ học sinh có thể nhìn một cách bao quát những khu vực lãnh thổ rộng lớn, những vùng lãnh thổ xa xôi trên bề mặt Trái đất mà họ chưa bao

<i>giờ có điều kiện đi đến tận nơi để quan sát. Ví dụ như dựa trên bản đồ thế giới</i>

học sinh sẽ thấy được những quốc gia có diện tích lớn nhất trên thế giới là Nga, Canada, Trung Quốc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Về mặt kiến thức, bản đồ có khả năng phản ánh sự phân bố và những mối quan hệ của các đối tượng địa lí trên bề mặt Trái đất một cách cụ thể mà khơng một phương tiện nào khác có thể làm được. Những kí hiệu, màu sắc, cách biểu hiện trên bản đồ là những nội dung địa lí đã được mã hố, trở thành

<i>một thứ ngơn ngữ đặc biệt- ngơn ngữ bản đồ. Ví dụ: Khi dạy về điều kiện tự</i>

nhiên Trung Quốc, HS có thể dựa vào bản đồ địa lí tự nhiên Châu Á hoặc bản đồ các nước châu Á để thấy được mối quan hệ giữa địa hình, khí hậu, sơng ngịi…miền Đơng với miền Tây Trung Quốc, ảnh hưởng của nó tới sự phân bố dân cư và phát triển kinh tế mỗi vùng.

Về mặt phương pháp, bản đồ được coi là phương tiện trực quan giúp cho học sinh khai thác, củng cố tri thức và phát triển tư duy trong quá trình dạy học địa lí.

Để nhấn mạnh vai trị của bản đồ trong dạy và học địa lí, Baranxki đã đưa ra kết luận Bản đồ là và tức là mở đầu và kết thúc của địa lí.

Để khai thác được những tri thức trên bản đồ, trước hết HS phải hiểu bản đồ, đọc bản đồ, nghĩa là phải nắm được những kiến thức lí thuyết về bản đồ, trên cơ sở đó có được những kỹ năng làm việc với bản đồ.

Vì vậy việc hình thành kỹ năng sử dụng bản đồ trong học tập địa lí cho HS là một nhiệm vụ quan trọng đối với giáo viên địa lí.

<i>2.2. Tác dụng của việc hình thành kỹ năng</i>

Khi HS có kỹ năng sử dụng bản đồ thì họ có thể tái tạo lại được hình ảnh các lãnh thổ nghiên cứu với những đặc điểm cơ bản của chúng mà không phải nghiên cứu trực tiếp ngoài thực địa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Làm việc với bản đồ, HS sẽ rèn luyện được kỹ năng sử dụng bản đồ không chỉ trong học tập, nghiên cứu mà còn trong cuộc sống, đặc biệt đối với lĩnh vực quân sự, trong các ngành kinh tế khác nhau.

Khi phân tích nội dung các bản đồ rồi đối chiếu so sánh chúng với nhau, HS sẽ phát triển được tư duy lôgic, biết thiết lập các mối liên hệ giữa các đối tượng địa lí, nhất là các mối liên hệ nhân quả giữa chúng.

<i>2.3. Mối liên hệ giữa kiến thức bản đồ và việc hình thành kỹ năng bản đồ chohọc sinh</i>

Kỹ năng xuất phát từ tri thức, nên muốn dạy cho HS các kỹ năng hiểu, đọc, vận dụng bản đồ… thì việc dạy các tri thức tối thiểu về bản đồ là rất cần thiết.

Tri thức bản đồ sẽ giúp HS giải mã các ký hiệu bản đồ và biết xác lập các mối quan hệ giữa chúng. Từ đó phát hiện ra các kiến thức địa lí mới ẩn tàng trong bản đồ, đồng thời phải kết hợp cả những tri thức địa lí.

Theo Ghêraximơp: Khi bản đồ là đối tượng học tập thì kiến thức kỹ năng bản đồ là mục đích, cịn khi bản đồ là nguồn tri thức thì kiến thức và kỹ năng bản đồ trở thành phương tiện của việc khai thác tri thức địa lí mới trên

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<i>2.4. Phương thức hình thành kỹ năng sử dụng bản đồ cho Học sinh</i>

Việc dạy những kiến thức tối thiểu ban đầu để hiểu bản đồ là những khái niệm quan trọng nhất liên quan đến cơ sở tốn học và ngơn ngữ bản đồ ( như: hệ thống kinh vĩ tuyến, lưới toạ độ,…) được tiến hành ngay ở đầu chương trình lớp 6.

Những kiến thức bản đồ còn lại chủ yếu đều phải dạy trong quá trình giáo viên sử dụng bản đồ địa lí giáo khoa treo trường hoặc hướng dẫn cho HS sử dụng bản đồ trong SGK và trong Atlat.

Việc rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ cho HS chủ yếu cịn được tiến hành qua hình thức các câu hỏi, bài thực hành trên lớp, tham quan địa lí và các bài tập làm ở nhà.

<i>2.5. Các biện pháp hình thành kỹ năng sử dụng bản đồ cho HS</i>

Để khai thác được những tri thức trên bản đồ, trước hết HS phải hiểu bản đồ, đọc và vận dụng bản đồ trong học tập địa lí.

<i>Dạy HS hiểu bản đồ</i>

Hiểu bản đồ là kỹ năng đầu tiên cần rèn luyện cho HS, nghĩa là các em phải có kiến thức tối thiểu về bản đồ, biết bản đồ là cái gì, đặc trưng, tính chất của nó ra sao, nội dung, chức năng của nó, mỗi ký hiệu quy ước trên bản đồ có nghĩa gì, cần sử dụng bản đồ như thế nào và lợi ích nào được rút ra từ việc này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Việc dạy cho HS hiểu bản đồ không chỉ dừng lại ở lớp đầu cấp mà phải được tiến hành thường xuyên từ lớp dưới lên lớp trên và liên tục được khái quát hoá cuối mỗi giáo trình.

Hiểu bản đồ cịn bao gồm cả một số kỹ năng đầu tiên cần hình thành như kỹ năng xác định phương hướng, đo độ dốc, độ cao trên bản đồ…

Dạy HS hiểu bản đồ (về mặt kỹ năng) theo quy trình sau: - Xác định mục đích của việc làm.

- Xác định những kiến thức có liên quan cần dựa vào để tiến hành công việc.

- Cách tiến hành cơng việc.

- Quy tắc về trình tự để tiến hành công việc. - Kiểm tra kết quả khi thực hiện.

Sau khi làm mẫu, giáo viên yêu cầu HS giải thích, nhắc lại trình tự cơng việc đã làm và ghi trình tự đó vào vở để về nhà thực hiện một bài tập tương tự theo mẫu mà giáo viên đã làm trên lớp.

<i>Dạy HS đọc và vận dụng bản đồ</i>

<i>Theo Baranxki, đọc bản đồ là thơng qua những ký hiệu trên bản đồ mà</i>

phân tích và nhìn thấy những nét thực tế của khu vực bề mặt Trái đất được biểu hiện trên bản đồ.

Đọc bản đồ là kỹ năng tương đối khó và phức tạp đối với HS. Đòi hỏi HS phải vận dụng đồng thời cả những kiến thức về bản đồ cũng như kiến thức về địa lí.

Muốn đọc được bản đồ cịn phải kết hợp hệ thống kí hiệu và các phương pháp biểu hiện trên bản đồ. Đây là chìa khố để đọc và nhận biết nội

</div>

×