Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số vấn đề về sửa đổi, bổ sung phần chung Bộ luật hình sự năm 1999

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.05 KB, 23 trang )

Một số vấn đề về sửa đổi, bổ sung phần chung Bộ
luật hình sự năm 1999
2 5 / 6 / 2 0 1 4 1 0 : 2 6
Do ban hành từ năm 1999, mặc dù có được sửa đổi, bổ
sung một số điều vào năm 2009, chúng tôi cho rằng đã
đến lúc cần phải nghiên cứu sửa đổi nhằm đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn
hiện nay.

I. Đặt vấn đề:
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua tại
kỳ họp thứ 6 ngày 21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày
01/7/2000. Sau hơn 10 năm được áp dụng, BLHS năm 1999
đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm; tạo môi trường ổn định để
phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay
BLHS hiện hành cũng bộc lộ rõ nhiều điểm bất cập cần
phải sửa đổi, bổ sung; nhiều quy định của Bộ luật chưa
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền và trong bối cảnh hội nhập quốc tế… Bên cạnh đó,
trong quá trình thực hiện, BLHS 1999 đã bộc lộ những hạn
chế như có những điều khoản không còn phù hợp với thực
tế khách quan; một số hành vi có tính chất mức độ nguy
hiểm cao cho xã hội nhưng không được quy định là tội
phạm trong BLHS (như tội phạm về môi trường, chứng
khoán, tài chính – ngân hàng, sở hữu trí tuệ…), chưa có sự
phù hợp với các Điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết


hoặc tham gia. Để khắc phục những hạn chế này, Quốc hội
đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS
1999 (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009). Các quy
định của BLHS sửa đổi đã đi vào cuộc sống, định lượng về
số tiền trong các tội phạm đã được sửa đổi phù hợp với
tình hình kinh tế, xã hội; các tội phạm liên quan đến sở
hữu trí tuệ, môi trường, chứng khoán… đã được quy định,
tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi nguy hiểm
cho xã hội.
Trong những năm qua, với tư cách là một công cụ sắc bén
để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp
pháp của tập thể và của cá nhân, pháp luật hình sự là một
nội dung quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp của
Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, do ban hành từ năm
1999, mặc dù có được sửa đổi, bổ sung một số điều vào
năm 2009, song BLHS vẫn chưa thể chế hóa được những
quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp được
thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02-01-2002
của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-
TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” mà trong đó, một trong những
nội dung quan trọng theo yêu cầu cải cách tư pháp
là: "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ
tục tố tụng hình sự, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình
phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo
không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp
dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với
một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt

khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội
phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế,
quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm
đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công
nghệ và hội nhập quốc tế".
Trên tinh thần cải cách tư pháp nêu trên, có thể nói rằng
quan điểm của Đảng về sự cần thiết phải sửa đổi BLHS là
xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, các mối quan hệ đối nội và đối ngoại, xu thế quốc tế
hóa khu vực và toàn cầu, qua đó nhằm bảo vệ ngày càng
tốt hơn các quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Theo quan điểm này của Đảng, chúng tôi cho rằng đã đến
lúc cần phải nghiên cứu sửa đổi một cách toàn diện các
quy định của BLHS năm 1999 nhằm đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Với
những lý do trên, thông qua thực tiễn công tác xét xử
chúng tôi mạnh dạn nêu nên những vướng mắc, bất cập
hiện nay của BLHS năm 1999 và hướng sửa đổi một số
điều tại phần chung của BLHS năm 1999.
II. Những vướng mắc, bất cập hiện nay của Bộ luật
hình sự năm 1999
1. Những khó khăn, vướng mắc từ các quy định của
phần chung Bộ luật hình sự

Liên quan đến những quy định tại phần chung của BLHS
năm 1999, qua thực tiễn xét xử chúng tôi thấy có những
vướng mắc bất cập như sau:
Thứ nhất: Tại phần chung của BLHS năm 1999 có một số
điều luật quy định nêu khái niệm về các chế định như Điều

9 “Cố ý phạm tội”; Điều 10 “Vô ý phạm tội”; các tình
tiết loại trừ trách nhiệm hình sự như: Điều 11 “Sự kiện
bất ngờ”; Điều 12 “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự”; Điều
13 “Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” ;
Điều 15 “Phòng vệ chính đáng”; Điều 16 “Tình thế cấp
thiết”… Tuy nhiên, trong phần chung của BLHS lại không
có điều luật nêu khái niệm về “Trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
của nạn nhân”. Trong khi đó, tại phần các tội phạm cụ
thể lại có một số điều luật quy định về tội phạm liên quan
đến thuật ngữ này như: Điều 95 “Tội giết người trong
tình trạng tinh thần bị kích động mạnh”; Điều 105 “Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh”.
Mặc dù trong cấu thành cơ bản của hai điều luật trên đều
có cụm từ “… tinh thần bị kích động mạnh do hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân…” song thế
nào là “Tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân” thì hiện có nhiều
cách hiểu và đánh giá khác nhau, dẫn đến việc áp dụng
pháp luật trong trường hợp này không thống nhất. Hiện
cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng : Tình trạng tinh thần bị
kích động mạnh là tình trạng (tâm lý) không hoàn toàn tự
chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình.
Quan điểm thứ hai là : Trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do
không chế ngự được tình cảm,dẫn đến sự hạn chế đáng kể
khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi.

Quan điểm thứ ba là: Trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là trạng thái của một người không còn nhận thức đầy
đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa
mất hẳn khả năng nhận thức.
Còn theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày
29/11/1986 thì: “Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh
là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự
kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự
kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng
dẫn đến hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp
do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè
nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích
động đó đã âm ỉ kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi
trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người
bị kích động không tự kìm chế được, nếu tách riêng sự
kích động mới này thì không coi là kích động mạnh,
nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại
được coi là mạnh hoặc rất mạnh.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối
với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của
người đó tuy làm cho người phạm tội bị kích động mạnh,
nhưng nói chung chưa đến mức là tội phạm. Nếu hành vi
trái pháp luật đó trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức
khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc
người thân thích của người phạm tội hoặc của xã hội, đã
cấu thành tội phạm, thì hành vi chống trả lại gây chết
người có thể được xem xét là trường hợp phòng vệ chính
đáng (theo Điều 13) hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng (theo Điều 102)…”

Như đã nêu, vấn đề này có nhiều quan điểm khác
nhau và Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán cũng đã có
hướng dẫn và giải thích tương đối đầy đủ. Song trong thực
tiễn áp dụng vẫn có những quan điểm khác nhau như khái
niệm “người thân thích” được hiểu thế nào? Có phải chỉ
là vợ, chồng, cha mẹ, anh chị em ruột và những người họ
hàng cùng huyết thống hay là cả những người bạn thân?
Thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” ?
Thế nào là “hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân”? Hiện vẫn chưa có cách hiểu thống nhất. Do vậy,
rất cần một điều luật quy định nêu rõ về khái niệm như thế
nào là “Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với
người phạm tội” để việc áp dụng tình tiết này trong việc
định tội danh được thống nhất.
Thứ hai: Về Điều 43 “Bắt buộc chữa bệnh” và
Điều 44 “Thời gian bắt buộc chữa bệnh” .
Theo quy định tại Điều 43 “Bắt buộc chữa
bệnh” thì nội dung của điều luật được hiểu như sau:
1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi ở
trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Trường hợp này, căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám
định pháp y, tùy theo giai đoạn tố tụng mà Viện kiểm sát
hoặc Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều
trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh; nếu thấy không
cần thiết phải đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa, thì
có thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom
dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
2. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi có
năng lực trách nhiệm hình sự nhưng đã lâm vào tình trạng

không có năng lực trách nhiệm hình sự trước khi bị kết án.
Trong trường hợp này, căn cứ vào kết luận của Hội đồng
giám định pháp y, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào
một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau
khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình
sự;
3. Người đang chấp hành hình phạt mà lâm vào tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự. Trường hợp này,
căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Tòa
án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên
khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó
phải tiếp tục chấp hành hình phạt, nếu không có lý do khác
để miễn chấp hành hình phạt.
Nếu có kết luận của cơ sở điều trị về việc người bị bắt
buộc chữa bệnh đã khỏi bệnh thì tùy vào từng giai đoạn tố
tụng Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể ra quyết định đình
chỉ thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Theo chúng tôi tại khoản 1 Điều 43 có quy định “nếu thấy
không cần thiết phải đưa vào một cơ sở điều trị chuyên
khoa, thì có thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ
trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền” là không phù hợp và dẫn đến rất nhiều
trường hợp giả bệnh để được ở nhà, hoặc trường hợp nào
là không cần thiết để có thể được điều trị tại nhà? Việc
giám sát của “Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền” là Cơ
quan nào và cơ chế giám sát ra sao? Đây chính là sự
vướng mắc và bất cập cần phải có quy định rõ.
Tại Điều 44 quy định về thời gian bắt buộc chữa bệnh có
ghi “thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn
chấp hành hình phạt tù” . Về vấn đề này hiện có nhiều

quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trong bất cứ giai đoạn nào,
người phạm tội bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
thì thời hạn bắt buộc chữa bệnh phải được trừ vào thời hạn
chấp hành hình phạt tù.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Chỉ trong trường hợp
người phạm tội đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh
phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì mới được
trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù còn trong giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử thì không được tính trừ vào
thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Theo chúng tôi, vấn đề này cần được ghi rõ trong phần
chung của BLHS vì ghi như Điều 44 hiện hành là không rõ
nghĩa và có những cách hiểu khác nhau. Chúng tôi đồng
tình với quan điểm thứ hai. Bởi lẽ, trong giai đoạn điều
tra, truy tố, xét xử nếu họ có mắc bệnh mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì việc
chữa bệnh là đương nhiên, việc Cơ quan pháp luật áp dụng
biện pháp này cũng nhằm mục đích phòng, tránh họ gây ra
những hành vi nguy hiểm khác cho xã hội, hơn nữa khi đó
họ chưa bị kết án nên chưa phải là người phải chấp hành
hình phạt tù. Do vậy, chỉ khi nào họ đang bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn, bị tạm giam hoặc đang chấp hành hình
phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc
điều khiển hành vi của mình và phải bắt buộc chữa bệnh,
thì thời gian bắt buộc chữa bệnh mới được trừ vào thời
hạn chấp hành hình phạt tù. Nếu áp dụng quy định như
hiện nay sẽ dễ dẫn đến những trường hợp người phạm tội
chữa bệnh tại nhà cũng vẫn được trừ vào thời hạn chấp
hành hình phạt tù. Điều này không công bằng và không

đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ ba: Những vướng mắc khi áp dụng các quy định tại
Điều 47 BLHS
Theo quy định tại Điều 47 BLHS thì “Khi có ít nhất hai
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ
luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy
định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một
khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình
phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết
định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc
chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý
do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”.
Để áp dụng một cách thống nhất và tránh việc áp dụng một
cách tràn lan Điều 47 BLHS, NQ số 01/NQ-HĐTP ngày
4/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
đã hướng dẫn “…Cần hạn chế và phải hết sức chặt chẽ
khi áp dụng các quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999,
trong trường hợp nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 Điều 47 BLHS năm 1999, thì bị cáo
phải bị xử phạt ở mức cao của khung hình phạt…” và
cũng theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01 nêu trên thì
những quy định tại Điều 47 chỉ áp dụng đối với hình phạt
chính mà không áp dụng đối với hình phạt bổ sung.
Tại Công văn số 148/2002/KHXX ngày 30/9/2002 của Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 46 và 47
BLHS có ghi “theo tinh thần quy định tại Điều 47 BLHS,
thì Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt nhẹ hơn
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã

quy định khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định
từ khoản 1 Điều 46 BLHS. Như vậy, việc Tòa án nào
hoặc Hội đồng xét xử nào quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy
định, khi bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 1 Điều 46 BLHS (cho dù có nhiều tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46) là trái với quy
định tại Điều 47 BLHS…”.
Theo chúng tôi, việc điều luật quy định “khi ít nhất có
hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46” là
quy định “quá cứng ”, khó cho việc áp dụng vì phạm vi áp
dụng hẹp hơn nhiều so với quy định tại khoản 3 Điều 38
BLHS năm 1985 và hướng dẫn tại mục B phần II Nghị
quyết số 01-89/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao. Việc quy định như vậy, tuy
mang tính chặt chẽ, tránh bị vận dụng tùy tiện, không
thống nhất, đồng thời hình phạt được quyết định phải
trong phạm vi “khung liền kề nhẹ hơn” - tức là, nếu từ
khoản ba là hình phạt bị truy tố thì chỉ được giảm xuống
mức hình phạt quy định tại khoản hai chứ không được áp
dụng mức hình phạt quy định tại khoản một. Việc quy định
như vậy là cần thiết. Song qua thực tiễn xét xử, chúng tôi
thấy việc quy định như vậy cũng chưa bảo đảm nguyên tắc
cụ thể hóa hành vi và cá thể hóa hình phạt, cũng như
nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam. Trong
nhiều vụ án đồng phạm, đông bị cáo, đặc biệt là các bị cáo
phạm tội về ma túy mà cứ phải áp dụng đúng quy định tại
Điều 47 Bộ luật hình sự thì rất khó cho việc cụ thể hóa
hành vi, cá thể hóa hình phạt, dẫn đến rất nhiều trường
hợp “vượt rào” khi áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, bởi

nếu không làm như vậy thì sẽ không bảo đảm nguyên tắc
công bằng trong quyết định hình phạt.
Thực tế xét xử có những vụ án, sau khi tuyên án bản thân
Thẩm phán cũng thấy không an lòng vì không đảm bảo
nguyên tắc nhân đạo trọng Luật hình sự Việt Nam.
Ví dụ: Vụ án cưỡng đoạt tài sản ở LT tỉnh BN: Trong vụ
án này, vì vi phạm về thời gian được quy định trong hợp
đồng, các bị cáo đã yêu cầu những người chủ lò gạch nộp
tiền phạt. Tuy nhiên, do mức yêu cầu nộp phạt quá cao,
các chủ lò gạch không đồng ý và bị người dân ở địa
phương đe dọa sẽ phun nước dập tắt lò, dẫn đến những
người chủ lò gạch này phải nộp cho thôn hơn 800 triệu
đồng. Việc làm của các bị cáo rõ ràng là vi phạm pháp
luật, cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản, song thực chất các
bị cáo lại không có mục đích tư lợi và nếu số tiền đó có
thu được thì cũng dùng vào mục đích công ích của thôn, vì
khi thu tiền đều có phiếu thu của thôn. Sau khi có đơn tố
cáo của các chủ lò gạch, vụ án được khởi tố và gần 10
người bị khởi tố bị can, bị đưa ra xét xử theo điểm a
khoản 4 Điều 135 BLHS có khung hình phạt từ mười hai
năm đến hai mươi năm mặc dù trong quá trình điều tra,
các bị cáo đã thành khẩn nhận tội và nộp lại toàn bộ số
tiền đã thu của các chủ lò gạch. Các bị cáo đều là những
nông dân ở một vùng quê nghèo, nhận thức pháp luật còn
hạn chế, hậu quả đã được khắc phục toàn bộ, chưa hề có vi
phạm gì và đều ở độ tuổi từ 50 đến 60, xứng đáng được áp
dụng Điều 47 BLHS để được hưởng mức án thấp hơn mức
khởi điểm. Song do quy định tại Điều 47 là “… nhưng
phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều
luật”, nên dù Tòa án cấp sơ thẩm vận dụng hết các tình

tiết giảm nhẹ vẫn phải xử các bị cáo bảy năm tù là khởi
điểm của khoản 3 Điều 135 BLHS. Sau khi tuyên án, có
những bị cáo ngất ngay tại phiên tòa vì họ không nghĩ mức
án lại cao như vậy. Bản thân Hội đồng xét xử phúc thẩm
khi về xét xử phúc thẩm cũng thấy xót xa với mức hình
phạt song cũng không thể giảm án được. Theo chúng tôi
nếu không vì quy định bắt buộc “…phải trong khung liền
kề nhẹ hơn…” thì có thể cho các bị cáo được hưởng án
treo vẫn phù hợp với quy định tại Điều 45 và Điều 60
BLHS.
Trừ một số ít điều luật lại quy định khung hình phạt nặng
nhất là khung 1 sau đó mới đến các khung có mức án nhẹ
hơn như quy định tại các Điều về xâm phạm an ninh quốc
gia (từ Điều 78 đến 92), tội giết người (Điều 93), tội
khủng bố (Điều 230a), còn lại các điều luật khác đều có
quy định theo mức độ hình phạt từ thấp đến cao theo thứ
tự 1, 2, 3, 4. Theo cấu trúc này, chúng ta có thể hiểu
khung liền kề nhẹ hơn của khoản bốn sẽ là khoản ba, của
khoản ba sẽ là khoản hai và tiếp theo… Tuy nhiên, quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 tại một số điều như:
Điều 111 tội“hiếp dâm”, Điều 112 tội “hiếp dâm trẻ
em”, Điều 113 tội “cưỡng dâm”, và Điều 227 tội “vi
phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về
an toàn ở những nơi đông người”, Bộ luật hình sự lại có
sự quy định khác về cấu trúc các khung hình phạt dẫn đến
việc áp dụng Điều 47 sẽ gặp những vướng mắc cụ thể
tại các điều luật này quy định như sau:
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 112 thì khung hình phạt
liền kề của khoản bốn là khoản ba, khung hình phạt liền kề
của khoản ba là khoản hai, khung hình phạt liền kề của

khoản hai là khoản một. Song quy định tại Điều 112 thì
khung hình phạt quy định tại khoản 4 của điều luật, mức
hình phạt khởi điểm lại thấp hơn mức hình phạt khởi điểm
quy định tại khoản 3 (mười hai năm so với hai mươi năm)
và bằng với mức hình phạt khởi điểm quy định tại khoản 2
của điều này cùng là 12 năm tù. Vì vậy, trong trường hợp
bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, xứng đáng được áp
dụng các quy định của Điều 47 thì việc xác định mức án
trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn là rất khó khăn. Vì
nếu áp dụng khung hình phạt liền kề tại khoản ba thì mức
khởi điểm lại cao hơn khoản 4, nếu áp dụng theo mức hình
phạt khởi điểm tại khoản 2 thì lại có mức hình phạt khởi
điểm bằng nhau và như vậy việc áp dụng các quy định tại
Điều 47 lại chẳng có ý nghĩa gì. Còn nếu coi khoản 1 là
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn để áp dụng thì lại không
đúng quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự…
Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, nhiều vụ án có liên
quan đến lĩnh vực khác như hoàn thuế giá trị gia tăng;
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý; đưa
hoặc nhận hối lộ… có bị cáo chỉ giữ vai trò giúp sức,
không được hưởng lợi và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng
được khoan hồng nhưng bị giới hạn của Điều 47 của BLHS
nên phải chịu hình phạt nghiêm khắc quá mức, không
tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do
bị cáo thực hiện. Do đó, có ý kiến cho rằng cần nghiên
cứu, xem xét lại quy định tại Điều 47 của BLHS cho phù
hợp với thực tiễn xét xử.
Thứ tư: Về vấn đề tù có thời hạn áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội và Điều 75 tổng hợp hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội.

Tại Điều 74 BLHS có quy định:
“1. Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi khi phạm tội,
nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung
thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư
mức phạt tù mà điều luật quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm
tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù
chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một
phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.
Tại Điều 75 BLHS quy định:
“Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện
trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18
tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt được áp dụng như sau:
1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ
18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức
hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;
2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18
tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã
thành niên phạm tội”.
Thứ nhất: Đối với các quy định tại Điều 74 BLHS.
Thực tế, tội phạm do người chưa thành niên phạm tội hiện
nay không còn đơn giản làdo bồng bột, thiếu suy nghĩ, mà
đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh vi, thậm
chí đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tính nguy
hiểm cao. Số lượng các vụ án tăng nhanh, nhiều vụ án đặc
biệt nghiêm trọng xảy ra. Cùng với tính chất phức tạp của

mỗi vụ án là những thủ đoạn tinh vi, tính nguy hiểm ngày
càng cao và để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây bức
xúc trong quần chúng nhân dân, làm xôn xao dư luận xã
hội. Các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phạm
tội không chỉ tăng về số lượng các bị cáo, mà tuổi đời
phạm tội của các bị cáo là người chưa thành niên cũng đã
trẻ hoá, nhiều vụ án các bị cáo là người chưa thành niên
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt cao
nhất là chung thân hoặc tử hình như tội “Cố ý gây thương
tích”, “Giết người”, “Cướp tài sản”, “Trộm cắp tài sản”.
Tuy ở độ tuổi còn rất trẻ, song hành vi phạm tội của các bị
cáo là rất nguy hiểm và quyết liệt, có sự chuẩn bị về công
cụ, phương tiện với thủ đoạn tinh vi, xuống tay sát hại
người khác một cách hết sức dã man. Do vậy, hậu quả để
lại là rất nặng nề, gây bức xúc trong nhân dân và gây dư
luận xấu trong xã hội.
Trong thời gian vừa qua, dư luận rất bất bình với những
hành vi giết người không ghê tay của những đối tượng Lê
Văn Luyện, Lê Ngọc Chung. Cả hai đối tượng này đều gây
ra hai vụ thảm sát giết nhiều người và phạm một lúc cả hai
tội là giết người và cướp tài sản, trong đó hành vi giết
người của chúng đều đáng bị xử với mức án cao nhất là
đến tử hình song chúng chỉ phải chịu mức án cao nhất là
mười tám năm tù vì lý do chúng đều chưa đủ 18 tuổi. Hay
vụ Nguyễn Văn Ngọc ở Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh đã
có hành vi giết người cướp xe máy song cũng chỉ xử bị
cáo 12 năm tù vì khi phạm tội bị cáo chưa đủ 16 tuổi. Do
đó, theo quy định tại Điều 74, 75 BLHS thì đây lại là mức
án cao nhất đối với người chưa thành niên.
Theo chúng tôi, quy định về việc áp dụng hình phạt tù đối

với người chưa thành niên phạm tội theo Điều 74 BLHS và
tổng hợp hình phạt theo Điều 75 BLHS như Bộ luật hiện
hành là không phù hợp, gây dư luận bất bình trong nhân
dân. Vẫn biết mục đích của hình phạt nói chung không chỉ
nhằm trừng trị mà còn giáo dục người phạm tội trở thành
cá nhân có ích cho xã hội; đối với người chưa thành niên
phạm tội thì mục đích của chúng ta chủ yếu nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm chứ không mang tính
trừng trị. Song, hiện nay rõ ràng việc người chưa thành
niên phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, gây nên những
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng không còn là cá biệt mà
đang có chiều hướng gia tăng thì mức hình phạt như quy
định hiện nay là không phù hợp, nếu như không nói chúng
ta đang nhân đạo với một người mà lại không nhân đạo với
nhiều người khác, đặc biệt là đối với những vụ thảm sát do
người chưa thành niên phạm tội gây ra trong thời gian
qua. Ví dụ như vụ tên Nguyễn Văn Ngọc khi phạm tội
cướp tài sản và giết người bị cáo mới gần 15 tuổi, giả sử
bị cáo không được giảm án thì cũng chỉ 27 tuổi bị cáo
được trở về gia đình.Hay tên Lê Văn Luyện khi phạm tội
chưa đủ 18 tuổi, nếu chấp hành xong hình phạt thì cũng
chỉ chưa tới 36 tuổi! Song nỗi đau của gia đình người bị
hại thì chưa biết bao giờ mới nguôi ngoai và cũng không
ai có thể biết trước liệu con người này có thực sự hướng
thiện hay không? Đặc biệt, gần đây, lợi dụng chính sách
nhân đạo của pháp luật cũng như mức hình phạt quy định
với người chưa thành niên phạm tội mà đã có những đối
tượng là người thành niên, lợi dụng những người chưa
thành niên để kích động, xúi giục họ có những hành vi quá
khích, trả thù hay tiến hành đâm thuê, chém mướn theo

kiểu xã hội đen nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối
của các đối tượng phạm tội là người thành niên, gây mất
trật tự trị an và gây hoang mang, lo sợ trong cộng đồng
dân cư. Theo chúng tôi, đây cũng chính là nguyên nhân
phát sinh tội phạm do người chưa thành niên thực hiện và
làm giảm hiệu quả phòng ngừa tội phạm do người chưa
thành niên phạm tội trên góc độ xét xử của Tòa án.

Thứ hai: Về các quy định tại Điều 75.
Tại Điều 75 BLHS hiện cũng quy định tổng hợp hình phạt
trong hai trường hợp là “…Nếu tội nặng nhất được thực
hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi…” và “… Nếu tội
nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18
tuổi…”. Vậy nếu trường hợp người phạm tội là người chưa
thành niên phạm nhiều tội và cùng trong độ tuổi chưa
thành niên thì tổng hợp như thế nào? Tại Điều 74 BLHS
cũng quy định hai mức hình phạt cho hai độ tuổi khác
nhau là từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và từ đủ 14 đến
dưới 16 tuổi, nếu tội nặng nhất được thực hiện khi họ chưa
đủ 16 tuổi còn lại các tội khác nhẹ hơn được thực hiện khi
họ đã đủ 16 tuổi hoặc tội nặng nhất họ thực hiện khi đã đủ
16 tuổi, còn lại các tội khác nhẹ hơn họ thực hiện khi họ
chưa đủ 16 tuổi thì tổng hợp như thế nào, hiện cũng không
có quy định. Đây chính là điều vướng mắc và bất cập quy
định tại phần chung của BLHS.

2. Hướng sửa đổi một số điều quy định tại phần chung
của BLHS.
Thứ nhất: Cần bổ sung một điều luật quy định về “Trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội” .
Có thể quy định là:
Điều… ““Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình
trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kìm
chế được hành vi phạm tội của mình một cách tức thời
do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối
với họ, gây nên sự phản ứng dẫn đến hành vi phạm tội”

Thứ hai: Cần sửa đổi, bổ sung các quy định tại Điều 43,
44 BLHS theo hướng:
Đối với khoản Điều 43 BLHS cần sửa đổi như sau:
“1. Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi mắc bệnh quy định tại khoản 1 Điều 13 của
Bộ luật này, thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án căn cứ vào kết luật của Hội đồng giám định
pháp y, quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên
khoa để bắt buộc chữa bệnh.
2. (Giữ nguyên)
3. (Giữ nguyên)”
Đối với Điều 44 “Thời gian bắt buộc chữa bệnh” cần bổ
sung như sau:
“…Thời gian bắt buộc chữa bệnh đối với người đang
chấp hành hình phạt tù được trừ vào thời hạn chấp hành
hình phạt tù”.

×