Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

bài dụe thi vận dụng kiến thức liên môn gdcd ngữ văn lịch sử âm nhạc giải quyết tình huống thực tiễn giới thiệu về một di sản văn hóa phi vật thể của dịa phương em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.4 KB, 9 trang )

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN CHƯƠNG MỸ
TRƯỜNG THCS LƯƠNG MỸ
BÀI DỰ THI
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN:
GDCD - NGỮ VĂN- LỊCH SỬ- ÂM NHẠC
ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG, VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
BÀI: GIỚI THIỆU VỀ MỘT DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
CỦA ĐỊA PHƯƠNG EM
Năm học 2014-2015
PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN CHƯƠNG MỸ
TRƯỜNG THCS LƯƠNG MỸ
THÔNG TIN CHUNG
Trường: Trung học cơ sở Lương Mỹ
Địa chỉ: Hoàng Văn Thu - Chương Mỹ - Hà Nội.
Email : u.vn
I.Nhóm học sinh thực hiện:
1. Nguyễn Thị Ngọc Mai - Lớp 9A
- Ngày sinh: 18/7/2000
2. Nguyễn Thị Ngọc Diệp - Lớp 9A
- Ngày sinh: 12/5/2000
3. Cao Vũ Hiệp - Lớp 9A
- Ngày sinh: 21/4/2000
II.Giáo viên hướng dẫn: 1. Nguyễn Thị Thủy
Môn: Lịch Sử
Sinh ngày 01.8.1971
Điện thoại: 01697897018
2. Nguyễn Thị Thu Hà
Môn: Ngữ Văn
Sinh ngày: 15.11.1969
Email:
Điện thoại: 01655916969


3. Đỗ Thị Duyên
Môn Âm nhạc
Sinh ngày:19.9.1983
Email:
4. Dương Thị Thúy
Môn GDCD
Sinh ngày 11.4.1975
Email:
III.Vận dụng kiến thức môn:
+ GDCD 7 Tiêt 25 Bảo vệ di sản văn hóa
+ GDCD 9 Tiết 7 Kế thừa phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc
+ Ngữ Văn 8: Tiết 83. Thuyết minh một di sản văn hóa
Tiết 90. Chiếu dời Đô,
+ Lịch Sử 7: Tiết 33. Tìm hiểu di sản văn hóa địa phương nhé
+ Môn Âm nhạc: Tiết 15: Dạy bài hát địa phương
I.Tình huống cần giải quyết là:
Trong buổi giao lưu văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2014 tại Làng Văn
hóa các dân tộc Việt Nam. Đoàn Hà Nội có nhiệm vụ giới thiệu về một nền văn
hóa phi vật thể của quê hương mình, các em hãy sử dụng kiến thức đã được học
và hiểu biết của mình để hoàn thành nhiệm vụ trên.
2
BÀI DỰ THI
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN GDCD -VĂN- SỬ- ĐỊA
ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN
BÀI: GIỚI THIỆU VỀ MỘT DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
CỦA ĐỊA PHƯƠNG EM
I.Tình huống cần giải quyết là:
Trong buổi giao lưu văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2014 tại Làng Văn
hóa các dân tộc Việt Nam. Đoàn Hà Nội có nhiệm vụ giới thiệu về một nền văn
hóa phi vật thể của quê hương mình, các em hãy sử dụng kiến thức đã được học

và hiểu biết của mình để hoàn thành nhiệm vụ trên.
II.Mục tiêu: Bài viết phải
đảm bảo các yêu cầu về:
+Hà
Nội

Những giá trị văn hóa nghìn năm
+ Lịch sử hình thành làn điệu hát Dô
+ Hình thức và cách thức hát Dô,
+ Lễ hội hát Dô.
+ Ý nghĩa
3
III Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống:
+ Cần kết hợp các cán bộ xã Liệp Tuyết, Quốc Oai
+ Bà Lan – chủ nhiệm CLB Hát Dô.
+ Phòng Văn hóa huyện Quốc Oai.
IV. Giải pháp giải quyết tình huống:
Vận dụng các kiến thức liên môn:
- Lịch sử
- Ngữ văn
- Địa lí
- Giáo dục công dân.
- Âm nhạc
V. Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống:
Viết các ý chính -> Tìm hiểu -> Trao đổi -> Viết thành bài.
* Tư liệu sử dụng: sách lịch sử địa phương
* Ứng dụng công nghệ thông tin: máy tìm kiếm google
Từ các kiến thức đó để học sinh viết thành bài giới thiệu
I.Sơ lược về Văn hóa Hà Nội.
Hơn mười thế kỷ đã trôi qua, Thăng Long

xưa và Hà Nội nay luôn là trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hoá lớn, trái tim của Việt Nam.
Năm 1010 khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về
Thăng Long, Lí Thái Tổ đã khẳng định: ”Đại
La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời
đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa
nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau
trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư
không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp
nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng
là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”, Thăng Long một vùng đất nằm hai bên
bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú: "Núi là vạt áo che, sông là
dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà
hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình
thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này" Một vùng đất “hội thuỷ, hội
nhân và hội tụ văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng”, tạo nên nét tinh hoa văn
hoá của đất kinh kỳ. Hơn nghìn năm đã trôi qua nhưng con người Thăng Long,
Hà Nội luôn biết tiếp nhận tất cả những gì tinh tuý nhất của mọi vùng miền đất
nước để làm nên một nền văn hoá bản sắc riêng đầy quyến rũ – văn hoá Hà Nội.
Có lẽ vậy mà không chỉ những người sống ở Hà Nội, yêu Hà nội và tất cả những
ai dù chỉ một lần đặt chân đến Hà Nội đều có thể cảm nhận được nét quyến rũ ấy
bởi văn hóa Thăng Long - Hà Nội có trữ lượng khá lớn, phản ánh một cách
chân thực truyền thống sinh hoạt văn hoá của người Hà Nội. Trong đó văn hoá
phi vật thể Hát Dô là tổng hoà các yếu tố giao lưu, hội nhập, dung hoà, tiếp biến,
cởi mở, linh hoạt, đã đóng góp một phần tạo nên bản sắc văn hóa Hà Nội
II.Lịch sử hình thành làn điệu hát Dô
4
Điệu hát Dô không biết có tự khi nào. Chỉ biết truyền thuyết kể lại rằng,
một ngày mùa xuân, Đức Thánh Tản Viên đi du ngoạn qua ven sông Tích. Khi
đến xã Lạp Hạ (nay là Liệp Tuyết huyện Quốc Oai – Hà Nội), thấy ruộng đất phì

nhiêu nhưng dân cư lại thưa thớt, ngài bèn dừng lại. Ngài chọn thóc cho dân,
dạy dân trồng trọt, cày cấy. Ngài còn gọi nam thanh nữ tú (trai chưa vợ, gái chưa
chồng) đến dạy hát múa. Sau đó, Đức Thánh Tản ra đi, hẹn mùa lúa chín sẽ về.
Mùa đó, người dân Lạp Hạ bội thu nhưng chờ mãi không thấy ân nhân quay lại.
Người dân bèn dựng đền thờ Thánh (đền Khánh Xuân bây giờ) và mở hội hát
những bài hát thánh đã truyền dạy.Cũng từ đó, người dân biết làm ăn, thóc lúa
đầy bồ. Tuy trễ hẹn với dân nhưng bất chợt 36 năm sau, Đức Thánh Tản Viên
mới quay lại. Thấy dân no ấm, Ngài đã cùng dân tổ chức hát ca và hát lại những
bài hát (nay gọi là bài Dô) mà mình đã dạy dân thuở nào.
* Quy định của Hát Dô
“Con hát tuổi hạn hai mươi.
Nếu qua độ ấy thì thôi hát hò.
Bao giờ đến hội hát Dô.
Thì còn phải kiếm gái tơ chưa chồng ”
Vẳng trong không gian yên ắng nơi miền quê từ xa xa ta nghe âm điệu
của lời hát Dô được cât lên từ ngôi đình làng, một vùng quê nghèo khó về vật
chất nhưng chan chứa tình người. Có lẽ, mảnh đất Phủ Quốc với cảnh vật hữu
tình, địa thế hiền hòa đã gieo vào tâm hồn người Quốc Oai lòng say mê chắc hẳn
chúng ta phần nào hiểu được những quy tắc những luật lệ lề lối của điệu Hát Dô.
Đó không chỉ là lời ca đơn thuần mà là lời “hèm” (điều cấm kỵ) đã mấy trăm
năm người dân Liệp Tuyết (Quốc Oai - Hà Nội) không ai dám vi phạm. Như
vậy, người con gái chỉ được hát duy nhất một lần trong đời, tục lệ xưa quy định
cũng rất ngặt nghèo, lễ hội kết thúc thì tất cả những đồ vật dùng hát như khăn,
váy, túi đeo tay đựng trầu, sách ghi chép các làn điệu hát đều phải cất vào đền.
Tuyệt đối không ai được nhắc đến, được cất tiếng hát và càng không được phép
mở tráp ra xem cho đến 36 năm sau, một lễ hội mới được mở ra. Nếu ai phạm
vào điều cấm kỵ này sẽ bị lời nguyền quở vào thân, người sẽ bị còm cõi, bệnh
tật rồi đổ bệnh mà chết.
III. Thể loại, hình thức hát Dô
1. Thể loại hát Dô: là thể loại dân ca tế thần , nằm

trong hệ thống hát Xoan ở Phú Thọ hình thành và
phát triển trên mảnh đất Lạp Hạ, nay là xã Liệp
Tuyết, huyện Quốc Oai, thờ đức thảnh Tản Viên,
là vị thần đứng đầu trong từ bất tử linh thiêng của
dân tộc ta. Hát Dô là điệu hát cổ, thời xa xưa
thường được biểu diễn phục vụ vua chúa, quan lại.
Tuy là thể loại ca cung đình, song điệu hát Dô
không khô cứng, bó hẹp trong một nội dung mà lại
có nét nhạc, lời ca rất độc đáo, trữ tình và đề cập đến nhiều mảng màu, nét đẹp
trong đời sống lao động, sản xuất, tình cảm của con người
2.Các loại hát Dô.
5
Hát Chúc: là nội dung hát thuộc phần nghi lễ của diễn xướng hát Dô.
Phần nội dung bắt buộc nghi lễ chỉ chiếm phần nhỏ mà nội dung cơ bản của
diễn xướng là ước muốn của mọi tầng lớp người trong xã hội, là thăng quan
tiến chức, làm nông thuận lợi, buôn bán thuận hoà, là mừng xuân, là vui
chơi, hội hè.
Hát Bỏ bộ: là phần lời ca mang đậm chất trữ tình hơn cả. Tình yêu
nam nữ được thể hiện tinh tế và rõ nét. Lời ca điêu luyện, thấm đượm chất
trữ tình. Sức sống lâu bền của diễn xướng hát Dô chính là giá trị hiện thực
mang lại cho con người. Từ hai loại cơ bản trên Hát Dô chia thành bốn hình
thức hát, đó là: hát nói, hát ngâm, hát xô và hát ca khúc. Mỗi hình thức là
một cách hát khác nhau.
Hát nói: thuộc nội dung hát Chúc, là hình thức khi bắt đầu và kết thúc
của diễn xướng hát Dô, gần giống với một điệu trong hát ca trù, là nội dung
hát thuộc phần nghi lễ của diễn xướng hát Dô. Phần nội dung bắt buộc nghi
lễ chỉ chiếm phần nhỏ mà nội dung cơ bản của diễn xướng là ước muốn của
mọi tầng lớp người trong xã hội, là thăng quan tiến chức, làm nông thuận
lợi, buôn bán thuận hoà, là mừng xuân, là vui chơi, hội hè.
Hát ngâm: thể hiện ở những bài hát chúc

thơ, ngâm thơ ở phần cuối của cuộc hát, đặc biệt là
ở phần hát Bỏ bộ. Hát Bỏ bộ là phần lời ca mang
đậm chất trữ tình hơn cả. Tình yêu nam nữ được
thể hiện tinh tế và rõ nét. Lời ca điêu luyện, thấm
đượm chất trữ tình. Sức sống lâu bền của diễn
xướng hát Dô chính là giá trị hiện thực mang lại
cho con người
Hát xô: là hình thức xuyên suốt của diễn
xướng hát Dô. Người Cái lĩnh xướng và Con hát
(bạn nàng) xen lẫn bằng những câu hát đệm.
Hát ca khúc: những đoạn nào trong diễn xướng hát Dô có thể tách ra độc
lập mang nội dung hoàn chỉnh. Hình thức này nghiêng về nội dung hơn.
Nội dung của Hát Dô: phản ánh nhận thức của con người Lạc Việt về
thiên nhiên, và ước mơ của nông dân về một cuộc đời êm ấm, thời tiết thuận
hòa, mùa màng bội thu, con cháu đông đúc. Hát Hội Dô là tiếng ca trữ tình,
nồng nàn về tình yêu nam nữ, về hạnh phúc lứa đôi của người nông dân dưới
chế độ phong kiến.
3.Thể thơ
Nhiều thể thơ được sử dụng. Từ câu thơ ba chữ, bốn chữ, bảy chữ đến
những câu thơ lục bát có sự cân bằng về trung tâm đều được sử dụng nhuần
nhuyễn. Quá trình phát triển của thể thơ trong diễn xướng hát Dô cũng là sự
phát triển của thể thơ dân tộc
4.Lời ca và làn điệu trong diễn xướng hát Dô
Lời thơ quy định các tên gọi của làn điệu trong diễn xướng hát Dô. Khi
phân định ranh giới các bài có những làn điệu khác nhau, người hát thường dựa
vào lời thơ của đoạn hát ấy để đặt tên cho nội dung từng đoạn. Nội dung hát Bỏ
6
bộ thì khác, bởi mỗi bài có một ý nghĩa riêng cho nên việc đặt tên cũng dễ dàng
hơn.
Làn điệu chi phối lời thơ trong diễn xướng hát Dô bằng cách gia nhập

những tiếng phụ vào bài thơ nguyên thể. Đó là những tiếng đệm, tiếng lót, tiếng
láy cài vào đầu, giữa hay cuối những dòng thơ của các thể thơ khác nhau. Việc
gia nhập tiếng phụ ở mỗi loại hình dân ca là khác nhau. Đó cũng là những nét
khu biệt của diễn xướng hát Dô.
5.Đạo cụ: quạt giấy là đạo cụ của các bạn nàng, đôi sênh là đạo cụ của
Cái hát.
6.Điệu bộ động tác trong diễn xướng hát Dô
Trong hát Dô còn có các động tác phụ hoạ của các bạn nàng. Khi hát, bạn
nàng vừa hát vừa múa minh hoạ theo nội dung từng đoạn như: hái hoa, múa
quạt, bắn cung, hái chè, dệt cửi đặc biệt là động tác chèo thuyền. Ở nội dung
hát Bỏ bộ các động tác có phần sinh động hơn. Nhìn chung, các động tác múa
của diễn xướng hát Dô khá đơn giản. Việc kết hợp các động tác này đòi hỏi cảm
quan thẩm mĩ của người hát là khá cao.
IV.Lễ hội hát Dô:
Theo các già làng ở Liệp Tuyết kể lại, thì trước đây Hội hát Dô tổ chức
theo quy định cứ 36 năm mở một lần từ ngày 10 đến 15 tháng giêng (Âm lịch),
từ năm trước vào khoảng tháng 8, dân làng bắt đầu tuyển trai, gái từ 12 - 18 tuổi
chưa chồng, chưa vợ để tập luyện, ngay từ chiều ngày 9 tháng giêng dân làng đã
tổ chức rước kiệu từ ở đình, miếu ra đền Khánh Xuân . Đó là một cuộc rước
chung toàn xã, chọn những thanh niên trai tráng khỏe mạnh mới được rước kiệu,
thường mỗi kiệu có bốn người khênh. Cũng có thôn đông thanh niên thì nhiều
người khênh hơn, hoặc thay đổi nhau vì đây là một việc làm vinh dự. Đi trước
kiệu là các vị chức sắc, hai bên kiệu có cờ, có lọng đi kèm. Cái hát và bạn nàng
cũng đi kèm trước kiệu, mỗi người đều có ô che đầu. Đám rước đi thành một
đoàn dài gồm các thôn nối tiếp nhau theo thứ tự đã sắp xếp từ trước. Đại phu là
thôn anh cả đi đầu, rồi đến thôn anh hai là Vĩnh Phúc, và sau đó là các thôn Bái
Nội, Bái Ngoại, Thông Đạt, Đồng Sơn. Đám rước đi trong rừng cờ, cầm lọng là
một người trạc tuổi 17, 18, đầu quấn khăn lượt, trong áo trắng, ngoài áo the đen,
quần trắng, chân quấn xà cạp mầu đỏ, hoặc giày vải, thanh nữ cũng mặc quần áo
như những người khênh kiệu rước cờ rước lọng, nhưng chân không quấn xà

cạp Xong rồi tất cả trở về nhà.
Sáng hôm sau, tất cả mọi người các thôn mới ra
tập trung ở đền Khánh Xuân và vào hội hát Dô.
Đại phu là thôn anh cả phải đến sớm nhất và
được hát trước nhất. Trình tự cuộc hát như sau:
Người cái dẫn dắt bạn nàng vào đứng trước đền
Khánh Xuân, sau đó người cái cầm xênh gõ nhịp
làm hiệu, dẫn bạn nàng vào trước bàn thờ, tất cả
đều đi theo hình chữ chi. Khi nghe tiếng xênh mở
đầu làm hiệu, các bạn nàng từ từ bỏ dép, bước
7
vào chiếu, xòe quạt và bắt đầu múa hát. Nếu các bạn nàng đông thì đứng trên hai
chiếu, chiếu trên gồm các nàng lớn, chiếu dưới gồm các nàng con. Nếu thôn nào
có số bạn nàng đông quá, thì phải chia ra hát làm nhiều đợt. Câu mở đầu là
những bài hát chúc của người cái, phần lớn là các bài hát đều không có động tác.
Sau khi các thôn lần lượt hát xong thì cuộc tế lễ mới bắt đầu
Trong khi xã hội ngày càng phát triển và hiện đại các nền văn hóa ngoại
lai xâm nhập vào văn hóa Việt, tưởng như những giai điệu đặc biệt đó sẽ mãi
mãi biến mất, thế nhưng, với sức cuốn hút mạnh mẽ của lời hát, điệu múa đã
vượt qua không gian văn hóa làng để đến với đông đảo công chúng trong và
ngoài nước
Ngày nay hát Dô đang được khôi phục lại, trở thành nét sinh hoạt văn hóa
độc đáo của người dân xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, Hà Nội
Giờ đây không phải đợi 36 năm mới được nghe hát Dô nữa mà người dân
nơi đây đã được nghe hát Dô thường xuyên hơn vì đã có câu lạc bộ hát Dô.Cùng
với kho tàng văn hóa phong phú của dân tộc, hội Dô vẫn là một viên ngọc quý
trong di sản văn hóa độc đáo đang được nhân dân lưu giữ , làm giàu nền văn hóa
dân tộc, giúp chúng ta nhìn rõ hơn cuộc sống lao động, cuộc sống tình cảm của
ông cha ta trước kia.
Mỗi độ Xuân về trong tiết xuân non bấy, sắc màu và mùi vị của Tết. Mùa

Xuân là mùa của trăng trong gió mát, hoa nở rực rỡ và lộc biếc đâm
chồi.năm mới với biết bao hương đào, hương mai chưa tan hết, thì lòng người
lại trôi về miền lễ hội.Với người Quốc Oai, mùa xuân còn là mùa của lễ hội
của lời ca tiếng hát và những trò chơi dân gian độc đáo, đậm đà bản sắc
dân dân tộc của một vùng văn vật lâu đời. Xuân về mời các bạn một lần nữa
quay trở về với Hà Thành để thưởng thức nét xuân riêng của Hà Nội nhưng các
bạn nhớ đừng quên về với hội Hát Dô xã Liệp Tuyết Quốc Oai
V. Ý NGHĨA
Việc kết hợp các kiến thức liên môn như Ngữ
văn, Giáo dục công dân, Địa lý, Lịch sử, âm nhạc để
giải quyết các tình huống trong thực tiễn là rất quan
trọng, giúp cho các em được chủ động tìm hiểu,
khám phá những chân trời tri thức
Qua hoạt động này có cơ hội để cho chúng em
được giao lưu được học hỏi được thể hiện các năng
lực của chúng em đó là cái mà chúng em đang thiếu
và đang cần các thầy cô các nhà quản lý cần quan
tâm và tạo ra nhiều sân chơi hơn nữa để chúng em
được thỏa sức thể hiện sự sáng tạo và bộc lộ hết những khả năng hay các năng
lực của chính mình. Qua hoạt động đó luôn tao cho chúng em thấy hứng thú hơn
trong học tập, và chúng em ngày càng ý thức hơn việc học phải đi đôi với hành;
rèn luyện các kĩ năng làm việc nhóm, các năng lực cần thiết…để giải quyết tình
huống trong cuộc sống
Những việc làm của chúng em hôm nay có thể chưa lớn lao nhưng chúng
em luôn hy vọng việc làm đó có tác dụng phần nào để văn hóa Hà Nội của hôm
nay và của ngày mai, mãi mãi còn nguyên giá trị, một Văn hóa Hà Nội linh
8
thiêng hào hoa, tạo nên một điểm sáng văn hóa Việt Nam trong bản đồ văn hóa
nhân loại .Đó là tài sản vô cùng quí giá của ông cha ta để lại, mỗi người con đất
Việt dù đi đâu ở đâu và làm gì thì vẫn luôn phải biết trân trọng và tự hào một di

sản văn hóa vô cùng độc đáo.
Qua hoạt động này chúng em thấy việc học tập kết hợp các môn học có
vai trò rất quan trọng đối với một học sinh, thông qua đó chúng em phát triển
toàn diện về nhân cách và trí tuệ để chúng em trở thành những công dân có ích,
có thể sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu và làm tất cả những gì Tổ quốc đang cần để
xây dựng nước Việt Nam đàng hoàng tươi đẹp hơn sánh vai với các cường quốc
năm Châu như Bác Hồ kính yêu đã hằng mong ước.

9

×