Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.82 KB, 28 trang )

I, Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Nó ra
đời nh là một sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, do yều cầu khách
quan, đáp ứng ngững nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu
thế kỷ XX đến nay.
Năm 1958, thực dân Pháp chĩa mòi súng xâm lược nước ta, đưa nước ta
bước vào thời kỳ tăm tối nhất. Nhân dân Việt nam liên tục nổi dậy chống lại
ách thống trị của thực dân Pháp dưới ngọn cờ của một số nhà yêu nước tiêu
biểu nối tiếp nhau, song đều lần lượt thất bại. Phong trào cách mạng ở nước
ta bế tắc không lối thoát. Đúng lúc đó, người thanh niên Nguyễn Tất Thành
xuất hiện mang theo cả tấm lòng yêu nước cháy bỏng và khát khao rực sáng
là giảI phóng dân téc và đất nước. Người lên đường ra nước ngoài học tập và
tìm lối thoát cho cả một dân téc trong khi chủ nghĩa đế quốc đã xác lập được
sự thống trị của chúng trên một phạm vi rộng lớn của thế giới. Càng có áp
bức thì phản kháng càng dữ dội. Phương đông đã thức tỉnh. Thêm vào đó sự
thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã làm chấn động toàn
cầu và tác động dữ dội đến tư tưởng sau này của người thanh niên yêu nước
Êy. Dưới ánh sáng của cuộc cách mạng tháng Mười, của “ Đề cương về vấn
đề dân téc và vấn đề thuộc địa” do Lênin vạch ra, Nguyễn Ái Quốc đã dứt
khoát lùa chọn và đi theo con đường cách mạng của Lênin: “ Muốn cứu
nước giải phóng dân téc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”. Từ đó Người càng đi sâu tìm hiểu các học thuyết cách mạng
trên thế giới, xây dựng lý luận về cách mạng thuộc địa, trước hết là lý luận
cách mạng để giải phóng dân téc Việt Nam, xây dựng các nhân tố cách
mạng của dân téc, tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên giành
thắng lợi vĩ đại vì độc lập của dân téc, tự do của toàn dân…
Có thể nhìn nhận quá trình xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đơn
giản như trên nhưng thực ra đây là cả một kết quả sau được tạo nên bởi
nhiều yếu tố. Trong đó phải kể đến:
1. Điều kiện lịch sử- xã hội, gia đình, thời đại:
a, Điều kiện lịch sử:


Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Các
phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp liên tục nổi lên, dâng cao và
lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực ở Nam bé,
Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng ở miền
Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích ở miền Bắc. Tuy
nhiên do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, dùa trên ý thức hệ
phong kiến nên đều thất bại.
Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và
phân hoá, tầng líp tiểu tư sản và mầm mèng của giai cấp tư bản bắt đầu xuất
hiện, ảnh hưởng của cuộc vận động cảI cách của Khang Hữu Vi, Lương
Khải Siêu ở Trung Quốc tác động vào Việt Nam. Phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với
sự xuất hiện của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân,
Việt Nam Quang phục hội…do các sĩ phu phong kiến có tư tưởng duy tân
truyền bá và dẫn đường, nhưng do bất cập trước lịch sử nên không tránh
khỏi thất bại
Những năm đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào
yêu nước của nhân dân ta. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa( 12-
1907), cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn
áp( 4-1908), vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và bị tàn sát( 6-1908), căn cứ
nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và bị đánh tan( 1-1909), phong trào Đông
Du bị tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nước
Nhật( 2-1909), các lãnh tụ của phong trào Duy Tân Trung Kỳ, người bị lên
máy chém, người bị đầy ra côn đảo. Tình hình đó cho thấy, phong trào cứu
nước của nhân dân ta muốn thắng lợi thì phảI tìm ra mét con đường mới cho
riêng mình.
Đúng thời điểm đó, xuất hiện một người thanh niên yêu nước, chứa chan
nhiệt tình và nhiệt huyết cháy bỏng. Đó chính là tiền thân của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc.
b, Quê hương và gia đình:

- Quê hương:
Nghệ Tĩnh, quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước, chống ngoại xâm. Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng nổi tiếng
tron lịch sử Việt Nam như Mai Thóc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các
lãnh tụ yêu nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn
áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương.
Những tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan
lại Nam triều đã thôi thóc Người ra đI tìm một con đường cách mạng mới để
cứu dân, cứu nước.
- Gia đình:
Hồ Chí Minh sinh ra trong mét gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân
dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho
giàu lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên
cường vượt qua gian khổ, khó khăn để đạt mục tiêu, chí hướng. Chủ trương
lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cảI cách chính trị- xã hội của cụ Phó bảng đã
có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành tư tưởng chính trị và nhân cách
của Hồ Chí Minh.
c, Thời đại:
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã trở thành một hệ thống thế giới. Các nước
đế quốc vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch
các dân téc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng.
Cuộc đấu tranh giải phóng dân téc sang thế kỷ XX đã khống còn là hành
động riêng rẽ của mỗi nước chống lại sự xâm lược và thống trị của chủ nghĩa
đế quốc, mà trở thành cuộc đấu tranh chung cảu các dân téc thuộc địa gắn
với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tư sản ở chính
quốc.
Khi còn ở trong nước, Hồ Chí Minh tuy chưa nhận thức được đặc điểm của
thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử của đất nước mình Người đã thấy rõ con

đường của các bậc cha anh không đem lại kết quả, phảI đi tìm một con
đường mới. Trong khoảng 10 năm, Hồ Chí Minh đã vượt 3 đại dương, 4
châu lục, đặt chân lên khoảng gần 30 nước. Nhờ đó, Người đã hiểu được bản
chất chung của chủ nghĩa đế quốc và hoàn cảnh chung của các nước thuộc
địa trên thế giới. Người gia nhập Đảng xã hội Pháp để chống lại thực dân
Pháp( 1917).
Cách mạng tháng 10 Nga bùng nổ đã gây ảnh hưởng đến các phong trào
công nhân các nước châu Âu và Bác Hồ đã gặp được ánh sáng của Chủ
nghĩa Mác Lênin.
Cuối thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng trong phong trào công nhân châu Âu
diễn ra ngày càng thêm sâu sắc, dẫn đến sự phân biệt trong nội bộ các Đảng
Xã hội Dân chủ thuộc Quốc tế II. Một số đảng bị phân hoá. Phái tả trong các
đảng tách ra, thành lập Quốc tế III- Quốc tế Cộng sản, đưa phong trào cộng
sản thoát khỏi chủ nghĩa cải lương, theo đuổi các chính quyền tư sản của các
đảng xã hội. Tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề
dân téc và thuộc địa của Lênin và các Văn Kiện Đại hội II Quốc tế Cộng sản
đánh dấu sự khẳng định về mặt lý luận việc thực hiện mối quan hệ hữu cơ
giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân téc ở các nước thuộc
địa, có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân téc trên thế giới.
Con đường mới đã được tìm thấy. Đó chính là con đường cách mạng vô sản.
2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh:
a, Tư tưởng và văn hoá truyền thống Việt Nam:
Dân téc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã
tạo lập cho mình một nền văn hoá riêng, phong phú và bền vững với những
truyền thống tốt đẹp và cao quý.
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Mỗi người dân Việt Nam là một người anh hùng.
Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt
Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hoá- tinh thần Việt Nam.
Điều đó được thể hiện qua những chiến công vang dội tự ngàn đời của cha

ông ta trong đánh giặc ngoại xâm và giữ từng tấc đất. Một đứa trẻ của dân
téc dù đến năm 3 tuổi vẫn chưa biết nói nhưng vẫn sẵn sàng đứng lên chiến
đấu.
Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái.
Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân téc, từ hoàn
cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm.
Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt nam đã có sự biến đổi sâu sắc về
cơ cấu giai cấp- xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh
đã kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương
thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức,
đồng lòng, đồng minh). Điều đó có thể thấy thông qua chính những cuộc
chiến đấu của chóng ta, ta không những không giết mà còn bảo vệ rất nhiều
tù nhân địch, trao trả chúng trở về với khẩu hiệu: Việt Nam yều hoà bình và
căm ghét chiến tranh, đổ máu, chết chóc.
Thứ ba, dân téc Việt Nam là một dân téc có truyền thống lạc quan, yêu đời.
Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình,
tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của
truyền thống lạc quan đó.
Thứ tư, dân téc Việt nam là dân téc cần cù, dũng cảm, thống minh, sáng tạo,
ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Người Việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thãi bài
ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân téc, nhân dân ta đã biết
chọn lọc, tiếp thu,cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành
những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn
của truyền thống đó.
b, Tinh hoa văn hoá nhân loại:
Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được hấp
thụ một nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài, Người
có thể viết văn Anh, văn Pháp, sắc sảo nh mét nhà báo phương Tây thực thụ,
nhưng khi có nhu cầu “ tự bạch” thì Người lại làm tho bằng chữ Hán. Chính

điều đó tạo điều kiện cho Người tiếp thu được tinh hoa văn hoá nhân loại và
làm nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh, mét con người biểu tượng cho sự kết
hợp hài hoà văn hoá Đông- Tây.
- Tư tưởng- văn hoá phương Đông:
Nho giáo:
Tư tưởng này xâm nhập vào Việt Nam vào những năm đầu Công nguyên.
Đã có nhiều thời kỳ lấy tư tưởng này làm chủ đạo nhưng chúng ta vẫn giữ
được văn hoá truyền thống, không bị đồng hoá. Nho giáo có những yếu tố
duy tâm, lạc hậu nh phân biệt tiểu nhân, quân tử tạo khoảng cách giữa con
người, coi thường lao động chân tay, coi khinh người phụ nữ. Nhưng bên
cạnh đó Nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực. Đó là triết lý hành động, tư
tưỏng nhập thể, hành đạo giúp đời, lý tưởng về xây dựng một xã hội bình trị,
một thế giới đại đồng, triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao
văn hoá, lễ giáo, đề cao tinh thần hiếu học.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lùa chọn những yếu tố tích cực, phù
hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có
những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết
quý báu của các đời trước để lại”
Phật giáo:
Đây là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm. Những
mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu Ên sâu sắc trong tư duy, hành
động, cách ứng xử của con người Việt Nam. Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ
bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân, xâu dựng
nếp sống đạo đứ, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện, đề cao tinh
thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng
cấp. Phật giáo Thiền Tông coi trong lao động, chống lười biếng nhưng nó lại
khuyên con người phảI kiềm hãm sự sung sướng. Phật giáo vào Việt Nam,
gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tù chủ đã hình thành nên Thiền phái
Tróc lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân,
với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân,

chống kẻ thù dân téc.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân téc và nhân dân lao
động, để lại dấu Ên sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cũng
nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư tưởng phương Đông nh Lão
tử, Mặc tử, Quản tử…
Tư tưởng của Tôn Trung Sơn:
Khi đã trở thành người Macxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn: dân quốc độc lập, dân quyền tự do, dân
sinh hạnh phóc. Có thể nói Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích
cực của tư tưởng văn hoá phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng của Người.
- Tư tưởng và văn hoá phương Tây:
Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào trường Quốc học
Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hoá Pháp. Đặc biệt, Người rất ham
mê môn lịch sử và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở NewYork, làm thuê ở
Bruclin và thường suy nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người…
được ghi trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.
Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư
tưởng khai sáng nh Tinh thần pháp luật của Môngtếtxkiơ, Khế ước xã hội
của Rutxô… Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng lớn
tới tư tưởng của Người.
Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống
thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ tring cách sinh hoạt khoa
học ỏ Câu lạc bộ Phôbua, trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp.
Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn luyện
trong phong trào công nhân Pháp, trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã
biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hoá
Đông và Tây, từ tầm cao cảu tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lùa chọn, kế
thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.

c, Chủ nghĩa Mác- Lênin, cơ sơ thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Min:
- Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân téc và thời đại
đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, từ người yêu nước trở
thành người cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hoá được những nhân
tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân téc cũng như của tư tưởng văn
hoá nhân loại để tọ nên hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư tưởng Hồ
Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác- Lênin, những phạm trù cơ bản của tư
tưởng Hồ CHí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận Mác-
Lênin.
- Sở dĩ Hồ Chí Minh đã lùa chọn các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin trên một loạt
luận điểm cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyên nhân sâu
xa là:
+ Khi ra đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã có một vốn học
vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân
tích, tổng kết một cách độc lập, tự chủ và sáng tạo, không rơi vào sao chép,
giáo điều, rập khuôn, tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin một cách
sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác- Lênin là để tìm đường cứu nước,
giảI phóng dân téc, tức là nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chính
Người đã viết: “ Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Nhờ
Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác- Lênin theo phương pháp nhận thức
macxits, cốt nắm lấy tinh thần, cáI bản chất chứ khống tự trãi buộc trong cáI
vỏ ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chr
nghĩa Mác- Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giảI pháp, đối sách phù
hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam

chứ không đI tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
Đây được đánh giá là nguồn gốc có tính quan trọng nhất trong việc hình
thành, quyết định bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Người ra đI tìm
đường cứu nước khi 20 tuổi, nền văn hoá dân téc, dòng máu dân téc đã trang
bị cho Người vốn kiến thức để có khả năng xem xét, nhìn nhận, phân tích để
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Yếu tố thời đại làm nảy sinh cơ hội
cho người anh hùng quyết tâm thoát khỏi bế tắc và CN Mác- Lênin là lối đI
đúng đắn cần phải có. Như Người đã nói: “Luận cương của Lênin làm tôi rất
cảm động, phấn khởi, sáng tá, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi muốn nói to lên như được nói
trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chóng ta, đây là con đường của chúng ta”. Người đã khẳng
định rằng CN Lênin là chắc chắn nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất. Bác
đến với CN Mác- Lênin để tìm hướng định hướng cho việc cứu nước và giải
phóng dân téc Việt Nam. Thấm nhuần tư tưởng, Bác đã đưa ra CNDVBC
vận dụng CN Mác- Lênin vào Việt Nam mét cách sáng tạo tránh giáo điều,
dập khuôn, máy móc.
II, Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng
Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một
quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt
động cách mạng phong phú của Người.
a, Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng( từ
1890- 1911):
Trong thời trẻ, với những đặc điểm quê hương, gia đình và môi trường sống,
Hồ Chí Minh đã tích luỹ được những hiểu biết và phẩm chất tiêu biểu sau:
- Truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân téc.
- Vốn văn hoá dân téc và bước đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây.
- Hình thành hoài bão cứu dân, cứu nước khi chứng kiến cuộc sống khổ cực,
điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh.

Sinh ra và lớn lên ỏ 1 đất nước do thực dân Pháp cấu kết với triều đình
phong kiến đẻ bóc lột nhân dân ta, phảI chứng kiến tận mắt nỗi khổ của
người dân. Tinh thần yêu nước, thương đồng bào cháy lên ngùn ngụt hơn
bao giê hết. Điều đó được thể hiện qua việc Người tham gia vào phong trào
đấu tranh yêu nước: phong trào chống thuế ở Trung Kỳ( 1908)…Thêm vào
đó, các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp đầu thế kỷ XX lần lượt
thất bại giúp Bác nhận ra rằng phải tìm một con đường đI mới để giẩi phóng
dân téc. 5-6-1911, Người ra đi tìm đường cứu nước.
b, Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm( 1911-1920):
Đây là giai đoạn bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã:
- Tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống cảu
nhân dân các dân téc bị áp bức.
- Tiếp xúc với Luận cương của Lênin về các vấn đề dân téc và thuộc địa, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân téc.
- Đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Đây chính là giai đoạn đánh dấu bước chuyển biến về chất tron tư tưởng Hồ
Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân téc
đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.
c, Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt
Nam( 1921- 1930):
- Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng
Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo
LeParia nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào các nước thuộc địa.
- Hồ Chí Minh sang Matxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu
vào Đoàn Chủ tịch của Hội giữa năm 1923. Sau đó, Người tiếp tục tahm dự
Đại hội V Quốc tế Cộng sản và Đại hội các đoàn thể quần chung khác: Quốc
tế thanh niên, quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế Công hội đỏ…
- Hồ Chí Minh về Quảng Châu tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
ra báo Thanh niên , mở các líp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ

về nước hoạt động cuối năm 1924.
2-1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước,
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Các văn kiện này cùng với 2 tác phẩm Người hoàn thành và xuất bản trước
đó là Bản án chế độ thực dân Pháp( 1925) và Đường Cách mệnh(1927), đã
đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng Việt Nam.
d, Giai đoạn vượt thử thách, kiên trì con đường đã xác định của cách
mạng Việt Nam (1930-1941)
- Do không nắm được tình hình thực tế các thuộc địa ở phương Đông và
Việt Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả” khuynh, tại Đại hội VI( năm
1928), Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Hồ Chí
Minh vạch ra trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Hội nghị Trung ương
tháng 10-1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, cũng ra “án
nghị quyết” thu hồi Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian đó
Hồ Chí Minh tiếp tục tham gia các hoạt động trong Quốc tế Cộng sản,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên
đinh quan điểm của minh.
- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản( năm 1935) đã có sự tự phê bình về khuynh
hướng “tả”, cô độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân téc và dân chủ trong
phong trào cộng sản, để cho các đảng tư sản, tiểu tư sản và phatxit nắm lấy
mà chống phá cách mạng. Đại hội có sự chuyển hướng về sách lược, chủ
trương thành lập Mặt trận dân chủ chống phatxit.
- Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán những biểu hiện “tả”
khuynh, cô độc, biệt phái trước đây. Trên thực tế, từ đây Đảng đã trở lại với
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Hồ Chí Minh.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11- 1939 khẳng định rõ: “Đứng
trên lập trường giảI phóng dân téc, lấy quyền lợi dân téc làm tối cao, tất cả

mọi vấn đề của cuộc cách mạng, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái
mục đích Êy mà giải quyết”.
Những diễn biến của quá trình này đã phản ánh quy luất của cách mạng Việt
Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
đ, Giai đoạn phát triển và hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí Minh( 1941-
1969)
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước , trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung
ương 8( tháng 5- 1941), đặt nhiệm vụ giảI phóng dân téc cao hơn hết, tạm
thời gác khẩu hiệu cách mạng điền địa, xoá bỏ vấn đề Liên bang Đông
Dương, lập ra Mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân téc trên cơ sở
công nông liên minh. Nhờ đường lối đúng đắn đó, sau 4năm, Đảng ta đã
lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và nhân dân ta tiến hành 2cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện
trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đường lối chiến
tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dùa vào sức mình là chính”,
về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến,
quá độ đI lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong
điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh, về xây dựng Nhà nước kiều
mới- của dân, do dân, vì dân, về củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế…
- Trước khi qua đời( ngày 2-9-1969), Hồ Chí Minh để lại Di chóc thiêng
liêng gửi gắm trong đó những tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao
đẹp của một vĩ nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và
nhân loại. Di chúc đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang
tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân téc ta sau khi kháng

chiến thắng lợi.
- Đảng ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản
tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho chóng ta. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động
lực soi sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển.
- Những biến động chính trị to lớn trên thế giới diễn ra trong hơn mười năm
qua vừa kiểm chứng, vừa khẳng định tính khoa học, đúng đắn, tính cách
mạng sáng tạo, giá trị dân téc và ý nghĩa quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh.
III, Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về dân téc và
giai cấp:
Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển nền tảng căn
bản do những người đI trước đặt về vấn đề giải phóng dân téc, giải phóng
con người. Đây là yếu tố tiên quyết trong việc định hướng đường đI cho lý
tưởng. Theo Người thì vÊn đề dân téc và giải phóng phải được tiến hnàh
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin, giải phóng dân téc phải gắn với
giải phóng giai cấp, độc lập dân téc cho mình cũng chính là độc lập dân téc
cho tất cả các dân téc, giải phóng dân téc sau đó phải tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Có thể nói vấn đề dân téc với giai cấp, độc lập dân téc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế phảI được kết hợp
nhuần nhuyễn mà không thể tách rời chúng.
-Dân téc phải kết hợp với giai cấp:
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân téc là một động lực lớn của đất nước;
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân téc ở các nước phương
Đông, Hồ Chí Minh khẳng đinh: Đối với các dân téc thuộc địa ở phương
Đông, chủ nghĩa dân téc là động lực lớn của đất nước, người ta sẽ không thể
làm gì được cho người An Nam nếu không dùa trên các động lực vũ đại, và
duy nhất của đời sống xã hội của họ”. Dân téc là sản phẩm của quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử. Từ những hình thức cộng đồng thị téc, bộ lạc,

bộ téc, các quốc gia dân téc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành
chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân téc khác, vấn đề
dân téc cấp thiết phải được giải quyết. Nhưng giải phóng dân téc là nh thế
nào? Có phải đó chỉ đơn giản là đánh đuổi kẻ xâm lược ra khỏi biên cương
đất nước mà vẫn để cho người dân cùng cực khổ ải. Người đã khẳng định
rằng giảI phóng dân téc phải gắn với giải phóng giai cấp, giải phóng nhân
dân lao động, giải phóng giai cấp vô sản để chính quyền có thể thuộc về dân
chúng sô nhiều, chứ không phải là một số bọn Ýt người. Người đã kiến nghị
về cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: Phát động chủ nghĩa dân téc
bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản…Khi chủ nghĩa dân téc của họ thắng
lợi… nhất định chủ nghĩa dân téc sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế.
Tức là việc giải phóng dân téc phải gắn với giải phóng con người với mục
tiêu là đem lại hạnh phóc cho người dân. Người đã lùa chon con đường giải
phóng dân téc trên lập trường vô sản chính vì giảI phóng dân téc là giải
phóng mọi giai cấp tầng líp thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Sở dĩ như
vậy là do một đất nước trở thành thuộc địa khi họ có nguồn lực mà không
biết khai thác nó, họ có tiềm năng mà không biết sử dụng nó, người dân của
họ đông nhưng lại quá nghèo khổ, kinh tế chậm phát triển, không có chỗ
đứng trên trường quốc tế, không có đủ khả năng và vật lực để đấu tranh dù
là mong muốn. Nếu chỉ đơn giản giải phóng dân téc là thay hình thức, người
đàn áp này bằng người khác thì điều đó là không có ý nghĩa và cuộc cách
mạng đó là chưa triệt để. Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân
téc phảI gắn liÒn với giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Độc lập dân téc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân téc và thuộc
địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân téc và chủ nghĩa xã
hội. Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nói
về giải phóng dân tộc và giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: cả hai cuộc
giảI phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách

mạng thế giới.”.
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh đã
xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản tức là cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “…chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giảI phóng được các dân téc bị áp bức và những
người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”.
Xoá bỏ ách áp bức dân téc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp thì không thể giải phóng được người dân. Chỉ có xây dựng một nhà
nước, một chế độ thực sự của dân, vì dân mới bảo đảm cho người lao động
có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và
xã hội, giữa độc lập với tự do và hạnh phóc của con người. Sự phát triển
theo con đường chủ nghĩa xã hội là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập
của dân téc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân téc và chủ
nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiếp giải phóng
dân téc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân téc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
- Chủ nghĩa yêu nước phải kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc
tế:
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm
phạm của các dân téc, dân téc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tran cho độc lập cảu dân téc mình mà còn dám đấu tranh cho độc lập của
tất cả các dân téc bị áp bức. “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với
sự nghiệp của vô sản toàn thế giới, mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được
chút Ýt thắng lợi trong một nước nào đó… thì đó càng là thắng lợi cả cho
người An Nam”.Người đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số
đảng cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí cũng

như tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra luận điểm: các dân téc
thuộc địa phải dùa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn
kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết
phảI đấu tranh giành lại độc lập cho dân téc, rồi từ thăng lợi của cách mạng
giảI phóng dân téc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp
thiết thức vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới. Hay nói cách khác cách
mạng của các dân téc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới.Độc
lập dân téc mình đồng thời độc lập dân téc cho tất cả các dân téc. Ngay năm
1914, trên đất Anh, Người nói: “ Chóng ta phải tranh đấu cho tù do, độc lập
của các dân téc khác nh là tranh đấu cho dân téc ta vậy”. Người đã nhiệt liệt
ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhất của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “ giúp
bạn là giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi chung của cách mạng
mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật đang ngày càng phát triển, những thế lực
chống phá ngày càng có nhiều thủ đoạn tinh vi hơn trong việc bôi xấu Đảng
và Bác Hồ thì việc nhận thức và xác định đúng đắn là hết sức quan trọng.
Đánh vào giới trẻ còn lệch lạc, dễ sai lầm, chúng thường tổ chức lôi kéo, xúi
giục, kích động nhằm đánh vào những người thiếu hiểu biết, không nắm
được tư tưởng của Đảng. Để tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra thì ta
phảI tăng cường tuyên truyền và giáo dục tư tưởng cho mỗi người dân. Đối
với những người nông dân, dân téc miền núi thì có thể sử dụng hệ thống
thông tinh, phát thanh, cán bộ tuyên truyền đI đến tận làng bản. Công tác
này có thể nói là đã được Đảng ta vận dụng đầy đủ nhưng bên cạnh đó cũng
không phảI cảnh giác cao độ đề phòng trước mọi biến cố có thể xảy ra.
Muốn người dân có thể tin tưởng vào Đảng thì chính đảng phải là tấm gương
sáng cho mọi hoạt động. Đảng phải lấy dân làm gốc, kiên quyết bài trừ các
tệ nạn như quan liêu, tham nhũng…Việc giáo dục tư tưởng cho cán bộ cũng
quan trọng không kém việc giáo dục cho người dân. Đồng thời trong xu
hướng hoà cùng thế giới, bước vào WTO, chóng ta cũng phải kiên định với

con đường đã chọn là đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, con người xã hội,
bảo vệ độc lập tự chủ đến cùng, xây dựng một xã hội công bằng dân chủ và
văn minh vì dân, do dân và vì dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kim chỉ
nam của Đảng trong mọi hoạt động, cần được Đảng vận dụng một cách sáng
tạo trong bối cảnh thời đại ngày nay.
IV. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về Cách Mạng giải
phóng dân téc
- Cách mạng giải phóng dân téc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
của Cách mạng vô sản:
Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực
tiễn Việt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn
khẳng định một chân lý là: muốn cứu nước và giảI phóng dân téc không có
con đường nào khác là cách mạng vô sản.
Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế
quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám chính quốc, một bám vào thuộc
địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó
đI, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản á chính quốc với cách mạng giải
phóng dân téc ở thuộc địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách
mạng vô sản. Con đường cách mạng vô sản theo Hồ Chí Minh là:
Tiến hành cách mạng giải phóng dân téc và dần dần từng bước “đi tới xã hội
cộng sản”. Cuộc cách mạng dành độc lập này thực chất phảI dùa trên sức
mình là chính. Chúng ta chấp nhận một cuộc kháng chiến lâu dài và trường
kỳ với mục đích cuối cùng không chỉ là độc lập dân téc, toàn vẹn lãnh thổ
mà còn là cuộc sống Êm no, tù do, hạnh phóc cho người dân như đã trình
bày ở trên. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
người không phân biệt chủng téc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết, Êm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui, hoà bình, hạnh phúc…
Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của

nó là Đảng Cộng sản. Cuộc cách mạng giải phóng dân téc phải dùa trên sức
đoàn kết của cả dân téc nhưng cũng phải có một người lãnh đạo và đó chính
là giai cấp công nhân với chính đảng của mình là Đảng Cộng sản. Giai cấp
công nhân ở Việt Nam tuy còn non trẻ nhưng đã dần dần hoàn thiện và phát
triển, là lực lượng vô sản nhất, có khả năng giác ngộ cao nhất về ý thức giai
cấp.
Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa
giai cấp nông dân và lao động trí óc.
Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
- Cách mạng giảI phóng dân téc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo:
Từ khi đế quốc Pháp đặt ách thống trị trên đất nước ta, tính chất xã hội, mâu
thuẫn cơ bản đã thay đổi. Do đó đối tượng, lực lượng và giai cấp lãnh đạo
cách mạng cũng đã thay đổi. Nhưng những người yêu nước Việt Nam trong
phong trào Cần Vương, phong trào có khuynh hướng dân chủ tư sản đã
không tìm thấy quy luật cách mạng của nước ta. Cách mạng Việt Nam đang
đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, thực chất là cuộc
khủng hoảng về vai trò lãnh đạo của giai cấp tiên phong đối với xã hội. Lịch
sử Việt Nam đòi hỏi phải có một giai cấp mới, hệ tư tưởng mới thì mới có
thể đáp ứng được yêu cầu của dân téc. Thấy rõ yêu cầu của cách mạng Việt
Nam từ tháng 6/1925 Nguyễn Ái Quốc đã thành lập ra Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên và đến ngày 3- 2- 1930 là thành lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam. Người khẳng đinh: Muốn giải phóng dân téc thành công trước hết phảI
có đảng cách mệnh. Người phân tích: cách mệnh trước là phải làm cho dân
giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong
trào thế giới, phải bày sách lược cho dân…Vậy nên sức cách mệnh phải tập
trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh”…Đảng Cộng sản Việt nam
ra đời đánh dấu bước ngoặt quyết định của lịch sử cách mạng nước ta, chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam trong những

năm đầu thế kỷ XX, đồng thời nó khẳng định dứt khoát vị trí lãnh đạo của
giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là một sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát
triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau. Đây chính là sự chuẩn bị điều
kiện cơ bản quyết định cho những thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy
vọt lớn trong lịch sử tiến hoá của dân téc. Đảng là trung tâm kết hợp các yếu
giai cấp, dân téc, quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng để
giành thắng lợi.
- Cách mạng giảI phóng dân téc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân,
trên cơ sở liên minh công- nông:
Hồ Chí Minh viết: cách mạng là việc chung cả dân chúng chứ không phảI
việc một hai người, vì vậy phảI đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãI đó, Người
khẳng định cáI cốt của nó là công- nông, “ công nông là người chủ cách
mệnh…công nông là gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, 3 hạng Êy
chỉ là bầu bạn cách mệnh mà thôi”.
Trong cách mạng giảI phóng dân téc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận
động, tập hợp rộng rãI các tầng líp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang
bị làm nô lệ trong Mặt trận dân téc thống nhất rộng rãI nhằm huy động sức
mạnh của toàn dân téc, đấu tranh giành độc lập, tự do. Người đặc biệt chú
trọng đến tinh thần đoàn kết, đề cao sức mạnh của người dân. Lời kêu gọi là
toàn dân kháng chiến, là tất cả mọi tầng líp chỉ cần họ có trong mình dòng
máu yêu nước. Đồng thời dùa trên sự phân tích về tương quan lực lượng
giữa ta và địch. Chúng ta kém địch về mọi mặt: vũ khí, trang thiết bị, đời
sống vật chất… nhưng chúng ta có lực lượng lớn và đông đảo là tất cả dân
téc, chúng ta có lòng yêu nước và truyền thống đánh giặc ngoại xâm từ ngàn
đời. Mỗi người dân là một chiến luỹ che bộ đội, tiêu diệt quân thù, lấy chiến
tranh du kích làm cơ sở, lấy lực lượng công nông làm nòng cốt vì đây là lực
lượng quan trọng nhất, có yếu tố quyết định, bị đàn áp và cần giảI phóng lớn

nhất, đông đảo nhất…
Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng líp nhân
dân vì mục tiêu chung. Trong Sách lược vắn tắt, Người viết: Đảng phảI hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt…để
kéo họ đI vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phảI lợi dụng, Ýt
lâu mới làm cho họ đứng trung lập…”
Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãI các lực lượng dân téc chống
đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phảI quán triệt quan điểm giai cấp: “
công nông là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền bằng công
nông, 3 hạng Êy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôI”. Và trong
khi liên lạc với các giai cấp, phảI rất cẩn thận, không khi nào nhượng một
chút lợi Ých gì của công nông mà đI vào đường thoả hiệp”. Chóng ta phảI
phân định rạch ròi mà không nên đồng nhất toàn bộ mọi tầng líp. Chúng ta
hoàn toàn có thể kêu gọi những người địa chủ yêu nước đứng vào hàng ngò
chiến đấu, định hướng cho những người còn đang lưỡng lự giữa 2 con
đường: địch và ta, kiên quyết bài trừ những phần tử phản động, việt gian,
chống phá cuộc cách mạng của quân và dân ta.
- Cách mạng giảI phóng dân téc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:
Đầu thế kỷ XX, trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tông tại quan
điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng
lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm
giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã phân tích: “ Vận
mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là của vận mệnh của giai cấp
vô sản ở các nước đI xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp
bị áp bức ở các thuộc địa”, “ nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ
nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc
địa tức là “muốn đánh chết rắn bằng đuôI”.

Vận dụng công thức của Mác: “Sự giảI phóng của giai cấp công nhân là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đI tới luận điểm:
“Công cuộc giảI phóng anh em ( tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của bản thân an hem”.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa
đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân téc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không
những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước.
Người khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giảI phóng thuộc địa trong
mối quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “ trong khi
thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa
đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giảI phóng hoàn toàn”.
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và

×