Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại tòa sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.73 KB, 30 trang )

Trường Đại học Kinh tế - Luật
Khoa Luật
Môn : Luật tố tụng dân sự
Phần thứ II : Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ
thẩm
Mục I : Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
1.1. Khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể
khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác.
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại
chương II đã quy định rằng: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”
1
. Trong các quyền con người đã được Hiến pháp ghi nhận, quyền dân sự
của công dân có ý nghĩa rất quan trọng. Theo đó, công dân được phép xử sự
theo một cách nhất định hoặc được yêu cầu người khác thực hiện những
hành vi nhất định để thỏa mãn lợi ích của mình. Quyền năng này được bảo
đảm bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Sử dụng quyền dân sự, cá nhân và
các chủ thể khác được thực hiện quyền tự do kinh doanh và các hoạt động
hợp pháp khác làm ra của cải, tài sản và các thu nhập hợp pháp khác để đáp
ứng tốt hơn các lợi ích vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng cao của mỗi
người. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền dân sự
chính đáng ấy. Vì vậy, BLDS 2005 chính thức ghi nhận quyền này và cho
phép cá nhân và các chủ thể khác được chủ động thực hiện biện pháp để tự
bảo vệ mình. Để bảo hộ cho các quyền dân sự của các chủ thể, Nhà nước
quy định nhiều biện pháp, cách bảo vệ khác nhau như bảo vệ bằng các biện


pháp hình sự, bảo vệ bằng biện pháp hành chính Đặc biệt hơn trong số các
biện pháp bảo vệ quyền dân sự là biện pháp khởi kiện vụ án dân sự theo
trình tự tố tụng dân sự. Thực hiện phương thức này, cá nhân, cơ quan, tổ
chức và các chủ thể khác có quyền dân sự bị xâm phạm có quyền khởi kiện
1 Khoản 1, điều 14, chương II: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, Hiến pháp 2013
1
vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm
phạm quyền dân sự phải chấm dứt hành vi trái pháp luật hoặc phải bồi
thường thiệt hại hoặc phải chịu chế tài phạt vi phạm Như vậy, trong các biện
pháp bảo hộ của Nhà nước đối với quyền dân sự thì quyền khởi kiện vụ án
dân sự là một biện pháp hữu hiệu quan trọng có tính khả thi cao. Tại Điều 161
chương VII Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định về quyền khởi kiện của cá
nhân, cơ quan, tổ chức như sau: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có
thẩm quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Để đảm bảo hơn nữa quyền khởi kiện của cá nhân thì pháp luật nước ta còn
quy định cho một số cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện trong một số lĩnh
vực nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể. Điều này đã được cụ
thể hóa trong Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Theo quy định tại điều
này thì cơ quan dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện về vụ án hôn nhân và gia
đình trong trường hợp do luật Hôn nhân và gia đình quy định. Công đoàn cấp
trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường
hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do
pháp luật quy định. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của
mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
1.1.1.2. Ý nghĩa của việc khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các
chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý

làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Không có hoạt động khởi
kiện thì cũng không có quá trình tố tụng dân sự cho các giai đoạn tiếp theo.
Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của các chủ
thể. Đặc trưng của phương thức khởi kiện là trao cho đương sự quyền tự do
hành động cùng với quyền tự định đoạt của các chủ thể khởi kiện làm cơ sở
tố tụng. Theo đó, khởi kiện là phương thức để các chủ thể có thể hành động
ngay tức khắc để tự bảo vệ các quyền dân sự của mình tránh nguy cơ xâm
phạm xảy ra, như khởi kiện đòi lại tài sản Với hành vi khởi kiện kịp thời như
vậy, các cơ quan tố tụng sẽ có hành động can thiệp kịp thời, các quyền và lợi
ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn và
chấm dứt hành vi trái pháp luật và sớm khôi phục lại mối quan hệ thiện chí,
cởi mở giao hòa giữa các bên trong đời sống dân sự.
1.1.2. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
1.1.2.1. Về chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể theo quy định của pháp luật
được tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Các chủ thể này bao
2
gồm cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp
luật quy định.
Đối với những cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng mà có quyền lợi
cần phải được bảo vệ thì họ không thể tự mình khởi kiện vụ án được mà phải
do người đại diện thay mặt để thực hiện việc khởi kiện vụ án.
Theo Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự thì pháp luật cũng đòi hỏi cá nhân khi
khởi kiện vụ án dân sự phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt trong tố
tụng dân sự, nó không cho phép người không phải là chủ thể của quan hệ
pháp luật lợi dụng quyền khởi kiện để rồi lại xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác.
Cá nhân khi đã có năng lực chủ thể đầy đủ thì có thể tự mình khởi kiện hoặc
làm giấy ủy quyền cho một người khác có năng lực hành vi thay mặt mình

khởi kiện, trừ việc li hôn.
Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình trong trường hợp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Ngoài ra, các
cơ quan, tổ chức còn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác theo quy định của pháp luật. Ngoài những trường hợp
các cá nhân, cơ quan tổ chức khác được khởi kiện những vụ án về hôn nhân
và gia đình theo quy định tại các điều 55, 56 Luật hôn nhân và gia đình, Bộ
luật tố tụng dân sự còn quy định các cơ quan, tổ chức khác trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình
phụ trách.
1.1.2.2. Vụ án được khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
Luật sửa đổi bổ sung BLTTDS quy định các tranh chấp về dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án được bổ sung 02 loại là: Tranh chấp liên quan
đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và Tranh chấp liên quan
đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự.
Vụ việc chưa được Tòa án giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật.
Nếu một vụ án đã được Tòa án của Việt Nam giải quyết bằng một bản án hay
quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không được khởi kiện lại đối
với vụ án đó nữa.
1.1.2.3. Vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện
Việc pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện vừa có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của cá nhân, pháp nhân không bị xâm phạm vừa bảo đảm giải
3
quyết vụ án dân sự được thuận lợi. Vì vậy, việc khởi kiện vụ án phải được
tiến hành trong thời hiệu khởi kiện. Việc xác định đúng thời hiệu khởi kiện có
ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động giải quyết tranh chấp của cơ quan Tòa
án. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự còn

nhiều điểm bất cập, tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho
thực tiễn áp dụng, ảnh hưởng không ít đến quyền lợi của đương sự.
Điều 159 BLTTDS quy định thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, thời hiệu khởi kiện là thời
hạn mà đương sự được quyền yêu cầu cơ quan Tòa án giải quyết vụ việc
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Quy định về
thời hiệu khởi kiện buộc các đương sự phải ý thức được việc bảo vệ quyền
lợi của mình và sớm có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tránh tình
trạng khởi kiện tuỳ hứng.
Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thì
thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể
từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm. Như vậy, để xác định đúng
thời hiệu khởi kiện, phải xác định được quan hệ tranh chấp đó có được văn
bản pháp luật nào khác quy định về thời hiệu khởi kiện hay không. Điều quan
trọng thứ hai là phải xác định đúng ngày nào được coi là ngày có quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm để bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện.Tuy nhiên việc
xác định thời hiệu khởi kiện của một vụ án trên thực tế không phải dễ dàng.
Mỗi vụ án thuộc những lĩnh vực khác nhau lại mang những đặc thù riêng của
thời hiệu khởi kiện vụ án. Chính vì vậy mà gặp rất nhiều bất cập khi xác định
thời hiệu khởi kiện của từng loại tranh chấp.
1.1.3. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự
Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự là giới hạn những vấn đề khởi kiện trong một
vụ án dân sự
Để đảm bảo việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhanh chóng và
đúng đắn, Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định phạm vi khởi kiện vụ án dân sự,
cụ thể được quy định tại điều 163 BLTTDS.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quy định tại điều 162 BLTTDS có

thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một
quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải
quyết trong cùng một vụ án.
Các yêu cầu liên quan đến nhau là những yêu cầu phát sinh từ một quan hệ
pháp luật hoặc các quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau. Trong trường
4
hợp đương sự khởi kiện về những yêu cầu không liên quan đến nhau thì Tòa
án phải thụ lý giải quyết các yêu cầu của họ trong từng vụ án riêng.
1.1.4. Hình thức khởi kiện và việc gửi đơn khởi kiện vụ án dân sự
1.1.4.1. Hình thức khởi kiện vụ án dân sự
Vụ án dân sự phát sinh chủ yếu là do cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền
khởi kiện của mình bằng việc nộp đơn khởi kiện tại Tòa án.
Để các đương sự nắm rõ về hình thức và nội dung của đơn khởi kiện thì pháp
luật đã quy định rõ hình thức và nội dung của đơn khởi kiện căn cứ theo điều
164 Bộ luật tố tụng dân sự. Theo đó thì cá nhân, cơ quan tổ chức muốn khởi
kiện thì phải làm đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
án phải rõ ràng, đầy đủ. Nội dung đơn khởi kiện phải trình bày được những
vấn đề cơ bản theo quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS.
Người khởi kiện gửi đơn cho Tòa án có thẩm quyền bằng cách nộp trực tiếp
tại Tòa án hoặc gửi đến Tòa án qua bưu điện. Ngày khởi kiện được tính từ
ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Trong
thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Toà án
phải xem xét và quyết định vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình
hay không, vụ án còn thời hiệu khởi kiện hay không.
1.1.4.2. Việc gửi đơn khởi kiện vụ án dân sự
Theo quy định tại Điều 166 BLTTDS, người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện
vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ án bằng phương thức nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi
đến Tòa án qua bưu điện.
Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án hoặc ngày có

dấu bưu điện nơi gửi.
1.1.4.3 Các trường hợp trả lại đơn khởi kiện
Theo quy định của pháp luật về Tố tụng dân sự (Điều 167, BLTTDS 2004) thì
Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc
gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Việc thụ lý đơn kiện hay không
hoặc có các quyết định khác thì Tòa phải xem xét và đưa ra quyết định trong
thời hạn 5 ngày làm việc.
Các trường hợp Tòa án trả lại đơn kiện được quy định cụ thể tại khoản 1
Điều 168 BLTTDS 2004, sửa đổi bổ sung 2011 như sau :
“a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự;
b) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có
5
thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi
nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi
người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản hoặc vụ án đòi tài sản,
đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện
khởi kiện;
c) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này
mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án,
trừ trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng;
d) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
đ) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.”
1.1.5 Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại
đơn khởi kiện
* Khiếu nại, kiến nghị:
+ Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ kèm theo do Tòa án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại

với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.
+ Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn
khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh
án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.
+ Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời
đơn khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Tòa án,
người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với
Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết.
* Giải quyết khiếu nại, kiến nghị:
+ Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị
về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết
định sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ
lý vụ án.
+ Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến
nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp phải ra
một trong các quyết định sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
6
b) Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
=> Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp trên
trực tiếp là quyết định cuối cùng. Quyết định của Chánh án Tòa án cấp trên
trực tiếp phải được gửi ngay cho người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp,
Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện.
1.2 Thụ lý vụ án
1.2.1 Khái niệm và thời điểm thụ lý vụ án
* Khái niệm :
Thụ lý là hành vi tố tụng của Tòa án có thẩm quyền làm phát sinh một vụ án

dân sự và xác định trách nhiệm giải quyết vụ án đó.
* Ý nghĩa :
Việc thụ lý vụ án có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt trách nhiêm cho Tòa án phải
giải quyết vụ án trong thời gian luật định. Và là một trong những căn cứ để
xác định các thời hạn tố tụng.
* Thời điểm :
Thời điểm thụ lý vụ án là khi người khởi kiện xuất trình cho Tòa án biên lai
đóng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.Trường hợp người khởi kiện được miễn
hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm thì thời điểm thụ lý là khi
Tòa án nhận được đơn kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo. (Điều 171
BLTTDS 2004).
1.2.2 Quyền tố tụng của bị đơn và người liên quan khi nhận đươc thông
báo thụ lý vụ án
- Điều 176, 177 BLTTDS 2004, sđbs 2011
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án có nghĩa vụ thông báo bằng văn bản cho bị đơn,
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết
vụ án và Viện Kiểm sát cùng cấp biết về việc đã thụ lý vụ án đồng thời thông
báo cho bị đơn, người liên quan biết về thời hạn phải nộp văn bản trình bày ý
kiến về việc kiện cho Tòa án.
Việc thông báo trên được quy định cụ thể tại Điều 174 BLTTDS 2004
Đối với bị đơn : họ có quyền có ý kiến về việc kiện của người khởi kiện đồng
thời có quyền đưa ra yêu cầu phản tố để đề nghị Tòa án giải quyết. Tuy nhiên,
yêu cầu của bị đơn chỉ được thừa nhận là yêu cầu phản tố khi :
+ Yêu cầu đó đặt ra nghĩa vụ cho nguyên đơn nhưng có thể bù trừ nghĩa vụ
với yêu cầu của nguyên đơn.
7
+ Yêu cầu đó nếu được chấp nhận có thể dẫn đến việc loại trừ yêu cầu của
nguyên đơn.
+ Giữa yêu cầu phản tố của bị đơn với yêu cầu của nguyên đơn có sự liên
quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì sẽ chính xác

và nhanh hơn.
Đối với người có quyền và nghĩa vụ liên quan : có yêu cầu độc lập tham gia
vào vụ án họ có quyền đưa ra các yêu cầu để Tòa án xem xét giải quyết vì lợi
ích của riêng họ thậm chí có thể chống lại cả yêu cầu của nguyên đơn và bị
đơn trong vụ án đó.
Mục 2 : Chuẩn bị xét xử sơ thẩm
2.1 Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
2.1.1 Khái niệm-ý nghĩa của việc quy định thời hạn chuẩn bị xét xử
2.1.1.1 Khái niệm
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là khoảng thời gian bắt đầu từ điểm Tòa
thụ lý vụ án để xét xử sơ thẩm và kết thúc khi Tòa án sơ thẩm ban hành một
trong các quyết định tố tụng do pháp luật quy định. Là giai đoạn mà Tòa án và
các chủ thể tố tụng tiến hành các hoạt động cần thiết làm cơ sở cho việc giải
quyết vụ án.
2.2.1.2 Ý nghĩa
Giúp quản lý, sắp xếp và thống nhất quy trình tố tụng mà Tòa án áp dụng khi
giải quyết vụ án dân sự. Tăng cường trách nhiệm tích cực giải quyết vụ án
của Tòa nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Ngoài ra
các đương sự cũng có điều kiện xác định quyền hạn và trách nhiệm của
mình.
2.1.2 Nội dung quy định thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Theo quy định tại Điều 179 về thời hạn chuẩn bị xét xử:
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn
là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn
là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án
Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá
hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối

với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
8
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ từng
trường hợp, Toà án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;
c) Đình chỉ giải quyết vụ án;
d) Đưa vụ án ra xét xử.
3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn
này là hai tháng.
2.1.3 Các hoạt động tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
+) Nhận đơn khởi kiện và xem xét đơn khởi kiện:
Theo điều 167 thì:
Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc
gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một
trong các quyết định sau đây:
1. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình;
2. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi
kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác;
3. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án.
+) Nếu đơn khởi kiện không đáp ứng yêu cầu thì tòa án yêu cầu sửa đổi bổ
sung đơn khởi kiện.
+) Nếu người khởi kiện khiếu nại với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn kiện thì
Tòa án phải giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn.
+) Thụ lý vụ án: Theo điều 171 thì:
1. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ

án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay
cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án
phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Toà án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người
khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người
khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.
9
3. Toà án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm
ứng án phí.
4. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền
tạm ứng án phí, án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
+) Phân công thẩm phán giải quyết vụ án: Theo điều 172 thì trong thời hạn ba
ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phân công một Thẩm
phán giải quyết vụ án
+) Thông báo về thụ lý vụ án: Theo điều 174 thì trong thời hạn ba ngày làm
việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn,
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết
vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.
+) Thông báo hòa giải: Theo điều 183 thì trước khi tiến hành phiên hoà giải,
Toà án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của
đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hoà giải, nội dung các
vấn đề cần hoà giải
+) Tiến hành hòa giải: theo điều 180 thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không
tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật này
+) Thông báo về kết quả hòa giải tới các đương sự
+) Quyết định đưa vụ án ra xét xử( nếu hai bên không hòa giải được)

+) Chuẩn bị bắt đầu phiên tòa: Theo điều 212 thì trước khi khai mạc phiên
toà, Thư ký Toà án phải tiến hành các công việc sau đây:
1. Phổ biến nội quy phiên toà;
2. Kiểm tra, xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên
toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án; nếu có người vắng mặt thì cần
phải làm rõ lý do;
3. ổn định trật tự trong phòng xử án;
4. Yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào
phòng xử án.
2.2 Hòa giải vụ án dân sự:
2.2.1 Khái niệm và ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự
2.2.1.1 Khái niệm của hòa giải trong tố tụng dân sự:
10
Hòa giải trong luật tố tụng dân sự là sự giải quyết tranh chấp giữa hai bên
thông qua sự can thiệp của bên thứ ba(thẩm phán), hoạt động một cách trung
lập và khuyến khích các bên xóa bợt sự xung đột.
Như vậy hòa giải gồm ba yếu tố:
+ Thứ nhất: Phải có sự tranh chấp giữa hai bên
+ Thứ 2: Có mục đích là cố gắng đạt được sự thống nhất ý chí giữa hai bên
để giải quyết tranh chấp.
+ Thứ 3: Trong quá trình hòa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba trung
lập ( bên thứ ba là thẩm phán)
2.2.1.2 Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự:
+) Đối với tòa án: Trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án sẽ giảm bớt được
nhiều thời gian, công sức cho việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp giải
quyết không thành thì Tòa án cũng có điều kiện nắm vững nội dung tranh
chấp, tâm tư, nguyện vọng của các đương sự để xác định được đường lối xét
xử đúng đắn.
+) Ý nghĩa đối với các đương sự: Hòa giải các vụ án dân sự giúp các đương
sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau, góp phần khôi phục lại đoàn kết giữa họ.

Giúp được đơn sự giảm bớt chi phí khi yêu cầu khởi kiện. Nếu thỏa thỏa
thuận không thành thì quá trình hòa giải giúp cho các đương sự ngồi lại với
nhau, hiểu rõ hơn về vấn đề tranh chấp. Bày tỏ được quan điểm của mình
trước Tòa án cũng như là bên đương sự kia. Và hiểu rõ được quan điểm của
bên đương sự
+) Ý nghĩa đối với trật tự xã hội: hòa giải góp phần giữ gìn văn minh trật tự,
công bằng xã hội làm cho mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng
mệnh lệnh mà bằng giáo dục thuyết phục và bằng cảm thông của các thành
viên.
2.2.2 Nguyên tắc tiến hành hòa giải
Theo điều 180 :
1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để
các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án
không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều
181 và Điều 182 của Bộ luật này.
2) Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng
vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận
không phù hợp với ý chí của mình;
3) Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được trái pháp luật hoặc
trái đạo đức xã hội.
11
2.2.3 Phạm vi hòa giải trong tố tụng dân sự:
Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành
hòa
giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật này”. Theo đó, hòa
giải
được tiến hành trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án và được thực
hiện
đối với việc giải quyết hầu hết các vụ án dân sự, trừ những trường hợp sau

đây:
(1) Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của nhà nước
(2) Những vụ án phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội
(3) Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình
vắng mặt
(4) Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng
(5) Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực
hành vi dân sự
2.2.4 Thành phần và trình tự hòa giải
2.2.4.1 Thành phần hòa giải:
Theo quy định tại Điều 184 BLTTDS thì thành phần phiên hòa giải bao gồm:
(1) Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải;
(2) Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải;
(3) Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;
(4) Trong trường hợp cần thiết thẩm phán có quyền yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức có liên quân tham gia hòa giải
(5) Người phiên dịch nếu đương sự không biết tiếng việt
2.2.4.2 Trình tự hòa gải:
a) Chuẩn bị phiên hòa giải
Điều 183 của BLTTDS quy định: “Trước khi tiến hành phiên hoà giải, Tòa án
phải thông báo cho các đương sự( việc gửi thông báo phải được thực hiện
theo các quy định từ điều 46 đến 156), người đại diện hợp pháp của đương
12
sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hoà giải, nội dung các vấn đề
cần hoà giải".
b) Tiến hành phiên hòa giải
Theo quy định tại Điều 185a của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 19 Nghị
quyết số 05/2012/NQ-HĐTP, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
tiến
hành việc hòa giải theo trình tự như sau: (1) Thẩm phán khai mạc phiên hòa

giải và kiểm tra căn cước của những người tham gia phiên hòa giải (2) Thẩm
phán chủ trì phiên hoà giải theo nội dung hoà giải quy định tại Điều 185 của
BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 18 của Nghị quyết này.
(3) Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự trình bày ý
kiến của mình về những nội dung tranh chấp và đề xuất những vấn đề cần
hòa giải.
(4) Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn
đềchưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung những
nội dung chưa rõ, chưa thống nhất.
(5) Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã hòa giải thành
và vấn đề chưa thống nhất.
c) Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
d) Thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự
e) Giải quyết trường hợp hòa giải không thành hoặc không tiến hành hòa giải
được
2.2.5 Kết quả hòa giải trong tố tụng dân sự
2.2.5.1 Vụ án hòa giải không thành
Đây là trường hợp Tòa án tiến hành hoạt động hòa giải đối với các vụ án phải
hòa giải theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng các bên đương sự
đã không thể đạt đến sự thỏa thuận, dàn xếp để giải quyết tranh chấp với
nhau. Đối với các trường hợp này Tòa án sẽ tiến hành lập biên bản hòa giải
không thành ghi đầy đủ nội dung tranh chấp, nêu ý kiến của các bên đương
sự và ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2.2.5.2 Vụ án hòa giải thành
Một vụ án chỉ được coi là hòa giải thành khi tất cả mọi tranh chấp đều được
các đương sự thống nhất giải quyết và Tòa án không phải mở phiên Tòa sơ
thẩm. Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án
thì đây là cơ sở để Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự.
13

2.2.6 Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
theo điều 187:
1. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có
đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên
hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết
định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự
thoả thuận của các đương sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho các đương
sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự
nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
3. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ luật này mà các
đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thoả
thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra
quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương
sự vắng mặt. Trong trường hợp thoả thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền,
nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thoả thuận này chỉ có giá trị và được
Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên
hoà giải đồng ý bằng văn bản.
Mục III : Phiên tòa sơ thẩm
3.1 Khái niệm và ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
3.1.1 Khái niệm phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Bộ luật dân sự 2004 không hề đưa ra khái niệm phiên tòa sơ thẩm.
Theo quyển sổ tay pháp lý thông dụng, thuật ngữ "phiên tòa" có nghĩa là "nơi
diễn ra hoạt động xét xử của tòa án nhân dân" [14, tr. 270]. Theo Từ điển
Tiếng Việt thì "sơ thẩm" có nghĩa là việc "xét xử một vụ án với tư cách là tòa
án ở cấp xét xử thấp nhất" [38, tr. 869], còn Từ điển Luật học thì định nghĩa
"sơ thẩm" là "lần đầu tiên đưa ra xét xử vụ án tại một tòa án có thẩm quyền"
[37, tr. 434].
Từ những khái niệm đó, chúng ta có thể rút ra khái niệm cho phiên tòa sơ

thẩm vụ án dân sự như sau : Phiên tòa sơ thẩm dân sự là hình thức tổ chức
hoạt động xét xử của tòa án, trong đó vụ án dân sự được đưa ra xét xử lần
đầu, do một tòa án cấp huyện hoặc một tòa án cấp tỉnh thực hiện theo thẩm
quyền trên cơ sở một trình tự, thủ tục nhất định.
3.1.2 Đặc điểm phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Thứ nhất, phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự do cấp tòa án cơ sở tiến hành.
14
Thứ hai, phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là phiên tòa đầu tiên giải quyết đơn
khởi kiện tranh chấp của các bên đương sự.
Thứ ba, quyết định của phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự không phải là phán
quyết cuối cùng, đương sự có quyền khiếu nại bản án, quyết định của tòa án
trong vòng 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra bản án hay quyết định.
3.1.3 Ý nghĩa phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Phiên tòa sơ thẩm là phiên xét xử lần đầu tiên nhưng có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc giải quyết vụ án dân sự. Thông qua việc xét hỏi và tranh
luận dân chủ, công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại
toàn bộ chứng cứ, tình tiết của vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa để
quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án, xác định quyền và nghĩa vụ của
các đương sự làm căn cứ cho việc thi hành án.
3.2 Chủ thể tham gia phiên tòa sơ thẩm
3.2.1 Chủ thể tiến hành tố tụng trong phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Chủ thể tiến hành tố tụng trong phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự gồm có :
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, trong một số trường hợp,
phiên tòa xét xử vụ án dân sự có sự tham gia của Kiểm sát viên.
Trong đó, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là thành viên của Hội đồng xét
xử. Theo điều 52 BLTTDS, Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một
Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân
dân.
Trong một số phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, có sự tham gia của

Kiểm sát viên với vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân
sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo yêu cầu của
pháp luật nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng
pháp luật. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 21 BLTTDS, Viện kiểm sát nhân dân
tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu
thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng,
quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về thể chất, tinh thần.
3.2.2 Chủ thể tham gia tố tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự
Để vụ án được giải quyết nhanh chóng, chính xác và đồng thời bảo đảm cho
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và để bảo đảm cho việc
xét xử liên tục, trực tiếp, bằng lời nói thì Tòa án mở phiên tòa để xét xử vụ án,
tất cả những người tham gia tố tụng phải được triệu tập tham gia phiên tòa.
15
Theo quy định của BLTTDS, những người tham gia tố tụng tại phiên tòa gồm
có : nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người
đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch.
Theo quy định tại Điều 199 BLTTDS, trong đợt triệu tập hợp lệ lần thứ nhất
của tòa án, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự phải có mặt. Nếu có người vắng mặt thì Hội đồng
xét xử hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt. Trường hợp phiên tòa bị hoãn, Tòa án thông báo cho đương sự, người
đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết việc
hoãn phiên tòa.
Trong lần triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sư hoặc người đại diện của họ,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên
tòa, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì sẽ được xử lý như sau :
-Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người đại

diện tham gia phiên tòa thì được coi là từ bỏ việc khởi kiện. Trong trường hợp
nguyên đơn không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Tòa án ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó. Nguyên đơn có
thể yêu cầu khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
-Bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan nếu vắng mặt tại phiên tòa ,
không có yêu cầu độc lập và không có người đại diện tham gia phiên tòa thì
Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ.
-Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà
không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập
của mình , Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập
của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu
độc lập đó nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
-Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt tại phiên
tòa thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
3.2.3. Hoãn phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án dân sự
Hoãn phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án dân sự là việc chuyển thời điểm tiến
hành phiên tòa đã định sang thời điểm khác muộn hơn.
Bộ luật tố tụng dân sự quy định các trường hợp Hội đồng xét xử phải hoãn
phiên tòa tại Điều 208. Theo đó, phiên tòa dân sự sơ thẩm có thể bị hoãn do
sự thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên,
người giám định, người phiên dịch hoặc do sự vắng mặt của các bên đương
sự, những người tham gia tố tụng khác hoặc các trường hợp quy định tại
16
khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 72, các điều 199, 204, 205, 206, 207, 215,
khoản 4 Điều 230.
Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm là không quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết
định hoãn phiên tòa.
Việc hoãn phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định. Quyết định hoãn phiên
tòa phải được lập thành văn bản. Quyết định hoãn phiên tòa phải nêu đầy đủ

các nội dung được quy định tại khoản 2 Điều 208 BLTTDS. Quyết định hoãn
phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt cho Hội đồng xét xử kí tên và
thông bố công khai cho những người tham gia tố tụng biết. Tòa án gửi thông
báo hoãn phiên tòa cho những người vắng mặt và Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp.
3.3 Trình tự phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
3.3.1 Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Trước khi phiên tòa được bắt đầu, Thư ký tòa án thực hiện các công việc
chuẩn bị khai mạc phiên tòa. Thủ tục này nhằm đảm bảo cho phiên tòa diễn
ra có sự tham gia đầy đủ của những người tham gia tố tụng, kiểm tra xem có
trường hợp nào nào buộc phải hoãn phiên tòa không, đồng thời xác lập trật tự
phiên tòa trước khi khai mạc.
Khai mạc phiên tòa là thủ tục bắt buộc, trước khi Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử. Thủ tục khai mạc phiên tòa được quy định tại điều 213 BLTTDS.
Tiếp theo, Hội đồng xét xử tiền hành thủ tục giải quyết yêu cầu thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Trường hợp có người
yêu cầu thay đổi người tiến hành tốt tụng, người giám định, người phiên dịch
thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định theo thủ tục do BLTTDS quy định
và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận, trường hợp không chấp nhận thì
phải nêu rõ lý do. Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch phải được Hội đồng xét xử thảo luận, thông qua theo
đa số tại phòng nghị án và phải lập thành văn bản.
Sau khi hoàn tất thủ tục giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch, Hội đồng xét xử tiến hành thủ tục xem xét,
quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt. Điều 215 BLTTDS có quy
định khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa mà không thuộc
trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa, thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có
ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét
xử xem xét, quyết định , có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận, trường hợp
không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do. Quyết định hoãn phiên tòa phải được

Hội đồng xét xử thảo luận, thông qua đa số tại phòng xử án, quyết định phải
được lập thành văn bản.
17
Cuối cùng, Hội đồng xét xử sẽ tiến hành thủ tục bảo đảm tính khách quan của
người làm chứng được quy định tại Điều 216 BLTTDS. Người làm chứng là
người biết được các tính tiết có liên quan đến vụ án. Những thông tin mà
người làm chứng khai báo, cung cấp rất có giá trị đối với việc xét xử. Vì vậy,
để đảm bảo tính khách quan trong việc tham gia tố tụng của người làm
chứng, các nhà làm luật đã có quy định bảo đảm tính khách quan của người
làm chứng tại Điều 216 BLTTDS.
3.3.2. Thủ tục hỏi tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Ở phiên tòa, Hội đồng xét xử không chỉ dựa vào các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án mà phải xác định lại chúng đồng thời làm rõ thêm những
tình tiết bằng cách nghe ý kiến trình bày cảu các đương sự và những người
tham gia tố tụng khác. Chỉ sau khi nghe ý kiến của những người tham gia tố
tụng, đồng thời kiểm tra đánh giá đầy đủ các chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử mới có thể nghị án để đưa ra các quyết về giải quyết vụ án.
Nhà nước khuyến khích đương sự thỏa thuận, thương lượng giải quyết tranh
chấp trong mọi giai đoạn tố tụng. Vì vậy, Điều 220 BLTTDS quy định trước khi
xét xử vụ án, chủ tọa phiên tòa hỏi xem đến thời điểm này các đương sự có
thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp
các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa
thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Hội
đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc
giải quyết vụ án.
Tiếp đó, Chủ tọa phiên tòa thực hiện thủ tục hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ
sung , rút yêu cầu khởi kiện. Nếu các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của
họ và các bên tranh chấp vẫn không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết tranh chấp thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe các
bên đương sự trình bày các yêu cầu cũng như tài liệu, chứng cứ liên quan

đến vụ tranh chấp. Điều 221 BLTTDS quy định trình tự các bên đương sự
được trình bày việc kiện tại phiên tòa. Đương sự và người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cảu đương sự cùng song hành tham gia tố tụng, cả hai đều
có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của đương
sự.
Sau khi Hội đồng xét xử nghe xong lời trình bày của các bên đương sự, Hội
đồng xét xửu tiến hành việc hỏi từng người về từng vấn đề của vụ án. Theo
quy định tại Điều 222 BLTTDS, các chủ thể có quyền tham gia vào quá trình
hỏi tại phiên tòa gồm có: các thành viên của Hội đồng xét xử, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đương sự, những người tham
gia tố tụng khác, kiểm sát viên ( nếu có). Việc hỏi được tiến hành theo thứ tự:
chủ tọa phiên tòa, hội thẩm nhân dân,người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, đương sự và cuối cùng là những người tham gia tố tụng khác.
18
Trường hợp có kiểm sát viên tham gia phiên tòa thì kiểm sát viên sẽ tiến hành
hỏi sau đương sự.
Việc hỏi được tiến hành riêng cho từng người, xong người này mới đến người
khác. Các câu hỏi đã đặt ra phải liên quan đến vụ án và những vấn đề đương
sự, người bảo vệ của đương sự trình bày chưa rõ. Đương sự được hỏi có thể
tự trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trả lời
thay, sau đó đương sự bổ sung.
Mục đích của thủ tục hỏi tại phiên tòa là để xem xét, thẩm tra các tài liệu,
chứng cứ cảu vụ án, nhất là những vấn đề của vụ án mà các bên đương sự
còn có các ý kiến khác nhau.
Thủ tục hỏi tại phiên tòa được quy định cụ thể tại các Điều 223, 224, 225, 226
và 230 BLTTDS.
Trong quá trình diễn ra thủ tục hỏi tại phiên tòa, vật chứng, ảnh hoặc biên bản
xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét theo quy định tại điều 229
BLTTDS.
3.3.3 Tranh luận tại phiên tòa

Nếu như trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế và lao
động, mỗi Pháp lệnh chỉ có một Điều quy định về tranh luận tại phiên tòa thì
trong BLTTDS đã dành hẳn một mục với bốn điều luật, từ Điều 232 đến Điều
235 quy định về hoạt động tranh luận tại phiên tòa. Điều đó cho thấy tầm
quan trọng của hoạt động tranh luận trong việc tìm ra sự thật khách quan của
vụ án; đồng thời thể hiện xu hướng đổi mới hoạt động tư pháp, đang tiến dần
đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ở nước ta. Vì tranh luận tại
phiên Tòa là một biểu hiện của hoạt động tranh tụng, là sự thể hiện một cách
tập trung nhất của nguyên tắc tranh tụng. Như vậy, tranh luận là sự thể hiện
tập trung nhất của nguyên tắc tranh tụng, là hoạt động trung tâm của phiên
tòa. Do đó, BLTTDS rất chú trọng và mở rộng quyền và khả năng tranh luận
của đương sự và đại diện của họ ở phiên tòa. Thời gian tranh luận cũng như
số lần phát biểu ý kiến về một vấn đề không bị hạn chế, chủ tọa phiên tòa chỉ
có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Các quy định của
BLTTDS về tranh luận cho thấy vai trò và sự chủ động của các bên đương sự
được nâng cao và phát huy tối đa. Địa vị tố tụng của đương sự với các quyền
được mở rộng và nghĩa vụ của họ cũng rất cụ thể khi tham gia tranh luận.
Mặc dù vậy, vai trò của Hội đồng xét xử mà đặc biệt là của chủ tọa phiên tòa
vẫn là trung tâm trong việc điều khiển quá trình tranh luận. Khác với nội dung
trong thủ tục hỏi ở phiên tòa là Tòa án mới chỉ nghe các đương sự trình bày
yêu cầu và xem xét các chứng cứ. Trong phần tranh luận thì những người
tham gia tố tụng có quyền tranh luận về các chứng cứ và căn cứ vào pháp
luật mà bảo vệ những yêu cầu của mình. Mục đích của tranh luận là để
những người tham gia phiên tòa phân tích, đánh giá chứng cứ của vụ án để
19
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời đề xuất quan điểm và giải
pháp về việc giải quyết vụ án. Nội dung của phần tranh luận dài hay ngắn là
tùy thuộc vào tính chất của từng vụ án. Chủ tọa phiên tòa là người giữ kỷ
cương của phiên tòa, điều khiển phiên tòa cũng như trình tự khi tranh luận
cần hướng dẫn cho đương sự và các đại diện của họ tập trung vào việc trình

bày lý lẽ để bảo vệ quyền lợi của mình, chứ không nên nhắc lại những tài liệu,
sự kiện đã được xác minh, xem xét ở trong phần hỏi.
a. Những người tham gia tranh luận
Căn cứ vào Điều luật về tranh luận ở phiên tòa trong BLTTDS thì những
người tham gia tranh luận gồm có: Đương sự, người đại diện của đương sự,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cơ quan tổ chức khởi kiện.
BLTTDS chỉ quy định thành phần tham gia tranh luận tại phiên tòa với đối
tượng như trên là do đặc trưng và bản chất của vụ án dân sự và Luật Tố tụng
dân sự. Quyền và lợi ích của cá nhân do cá nhân định đoạt và quyết định.
Tranh chấp xảy ra thì Luật Tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp ấy. Bởi vậy
các nguyên tắc hay chế định pháp luật cụ thể được quy định khi giải quyết
tranh chấp ấy phải coi đương sự, người đại diện hay người bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của họ là những người có vai trò tích cực, chủ động và quyết định
trong việc giải quyết vụ án.
b. Nội dung tranh luận
Tranh luận tại phiên tòa, thể hiện tính chất dân chủ, công khai, minh bạch của
hoạt động xét xử. Các quy định của BLTTDS về tranh luận là tạo điều kiện tối
đa để các bên đương sự sử dụng các phương pháp chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới hoạt động tư pháp, trong đó có
việc mở rộng tranh tụng, tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các
đương sự và những người thay mặt họ là đòi hỏi khách quan hiện nay. Nhưng
để tránh phiên tòa đi chệch hướng, sa đà vào những tình tiết không cơ bản
của vụ án, pháp luật quy định các bên khi tham gia tranh luận cần tập trung
vào hai nội dung quan trọng sau đây:
- Phân tích, đánh giá chứng cứ, tranh luận bảo vệ lý lẽ của mình, trong đó có
quyền đưa ra các chứng cứ để bác bỏ lý lẽ của phía bên kia và chỉ rõ việc áp
dụng quy phạm pháp luật nội dung nào để giải quyết vụ án.
- Trong khi phát biểu tranh luận đánh giá về vụ án, các bên tham gia tố tụng
đề xuất quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án trên cơ sở các tài liệu,
chứng cứ đã thu thập được và đã được các bên thảo luận, xem xét, xác minh

và thừa nhận tại phiên tòa.
c. Căn cứ tranh luận
Pháp luật tố tụng dân sự quy định thủ tục tranh luận tại phiên tòa là nhằm tạo
điều kiện tối đa về thời cơ để các bên đương sự tự chứng minh cho các yêu
20
cầu của họ bằng các chứng cứ lý lẽ mà họ phân tích, đánh giá công khai ngay
tại phiên tòa. Vai trò chủ động của cá nhân đương sự và người bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của đương sự trong tranh luận được xem là yếu tố quyết định
trong việc chứng minh, tự chứng minh cho các yêu cầu kiện tụng mà họ đã
nêu ra và họ cho rằng yêu cầu, lý lẽ đó là đúng đắn. Vì vậy BLTTDS quy định
tại Điều 233 về căn cứ phát biểu khi tranh luận và đối đáp là:
- Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc
giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ
đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết
quả việc hỏi tại phiên tòa.
- Khi tham gia tranh luận, các bên đương sự và những người tham gia tố tụng
khác không được dựa vào suy đoán cảm tính để tranh luận, mà phải theo
nguyên lý "nói có sách, mách có chứng".
d. Trình tự tranh luận
Như đã phân tích ở các phần trên, mục đích của phần tranh luận là để Hội
đồng xét xử lắng nghe những người tham gia tố tụng ở phiên tòa tranh luận
về các chứng cứ, tài liệu của vụ án, đồng thời dựa vào pháp luật, họ đề xuất
với Hội đồng xét xử một giải pháp giải quyết vụ án để bảo vệ cho yêu cầu và
quyền lợi của họ. Do đặc điểm của quá trình tranh luận là đề cao quyền tự
chủ, tự định đoạt của từng cá nhân đương sự và người bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của họ; cho nên để tránh nội dung tranh luận trở thành một cuộc cãi vã
đi chệch hướng, các bên sa đà, cay cú khai thác những chi tiết vụn vặt để
phục vụ cho mục đích chủ quan, mà bất chấp quyền lợi của phía bên kia. Do
đó, BLTTDS quy định tại Điều 232 trình tự phát biểu khi tranh luận như sau:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu trước.

Nguyên đơn bổ sung ý kiến. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì
đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích được
bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu. Bị đơn có
quyền bổ sung ý kiến.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan phát biểu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung
ý kiến.
- Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ tự
mình phát biểu khi tranh luận theo thứ tự nguyên đơn phát biểu trước, sau đó
đến bị đơn, rồi mới đến người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Thời gian tranh luận tại phiên tòa dài hay ngắn là do tính chất phức tạp của
từng vụ án, chứ BLTTDS không quy định cụ thể. Nhưng để cho đương sự và
21
những đại diện của họ được thực hiện đầy đủ khả năng tranh luận, được tạo
điều kiện tối đa cho họ được sử dụng tất cả các phương pháp chứng minh
theo luật định để bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của mình, BLTTDS quy định
tại Điều 233 như sau:
- Thời gian tranh luận cũng như số lần phát biểu ý kiến về một vấn đề không
bị hạn chế, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý
kiến. Chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến
vụ án.
- Trong quá trình tranh luận, người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến
của người khác khi có những điểm khác nhau. Thông thường trong thực tiễn
xét xử, thì bị đơn và người bảo vệ quyền lợi của bị đơn được phát biểu lời đối
đáp cuối cùng.
e. Phát biểu của Kiểm sát viên
Khác với phiên Tòa hình sự, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, cho
nên trong phần tranh luận, Kiểm sát viên là người trình bày cáo trạng đầu

tiên, sau đó mới đến lượt phát biểu tranh luận của những người tham gia tố
tụng khác.
Còn trong phiên tòa xét xử vụ án dân sự, theo tính chất của tranh chấp thì
đây là "việc của đôi bên" mang nặng dấu ấn cá nhân, cho nên vai trò của
đương sự và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ có ý nghĩa quyết
định, họ có toàn quyền chủ động trong việc quyết định tự bảo vệ quyền, lợi
ích chính đáng của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát không nhất thiết phải
tham gia tất cả các phiên tòa dân sự. Đối với những vụ án dân sự mà theo
quy định của BLTTDS phải có sự tham gia của Kiểm sát viên, thì Bộ luật quy
định trình tự phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa như sau:
Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong,
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp
luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
f. Trở lại việc hỏi
Nguyên tắc xét xử trực tiếp đòi hỏi những người tham gia tranh luận chỉ được
viện dẫn những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra, xác minh, xem xét trong
phần thủ tục hỏi tại phiên tòa, không được đưa ra lý lẽ mà chỉ dựa vào các tài
liệu chưa được xác minh, chưa được xem xét trong phần thủ tục hỏi. Vì vậy,
trong quá trình tranh luận, nếu có đương sự có yêu cầu xuất trình tài liệu,
chứng cứ mới thì Hội đồng xét xử phải cho dừng việc tranh luận, quay trở lại
thủ tục hỏi, tiến hành phần hỏi đối với những người có liên quan để làm sáng
22
tỏ những giả định mà họ đã đưa ra trước đó. BLTTDS quy định thủ tục trở lại
việc hỏi xảy ra khi phiên tòa đang trong phần tranh luận như sau:
Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc
xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét
xử quyết định trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
3.3.4 Nghị án và tuyên án

a. Thủ tục nghị án
Nghị án là phần việc của Hội đồng xét xử, nó quyết định kết quả giải quyết vụ
án của Tòa án. Trên cơ sở theo dõi kết quả của các hoạt động trong Tố tụng
hỏi và Tố tụng tranh luận ở phiên tòa, Hội đồng xét xử sẽ vào phòng nghị án
để nghiên cứu, đánh giá tất cả các chứng cứ, tài liệu của vụ án đã được xem
xét, thẩm định công khai qua từng phần tố tụng ở phiên tòa. Theo nguyên tắc
xem xét sự vật một cách khách quan, toàn diện, với ý thức pháp luật và năng
lực của từng thành viên Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Hội đồng xét xử
bàn bạc, thảo luận các vấn đề sau đây:
- Những quan hệ pháp luật cần phải giải quyết trong vụ án.
- Những tài liệu, chứng cứ của vụ án.
- Quyết định về quyền và nghĩa vụ cụ thể của nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Khi thảo luận nghị án, chủ tọa nêu từng vấn đề và giới thiệu các quy định
pháp luật tương ứng quy chiếu vào vấn đề đang thảo luận để Hội đồng xét xử
cùng trao đổi. Với tinh thần đổi mới hoạt động tư pháp như Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị là "Việc phán quyết của Tòa án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của nguyên đơn, bị đơn và những
người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật, có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật quy định". Vì vậy, việc nghị
án chỉ được căn cứ vào chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra, trao đổi, thảo
luận, thẩm định tại phiên tòa, kết quả của việc hỏi, việc tranh luận cũng như
các ý kiến của những người tham gia tố tụng.
Tùy theo từng trường hợp cụ thể, Hội đồng xét xử có thể chấp nhận một phần
hay toàn bộ các yêu cầu của đương sự hoặc bác bỏ các yêu cầu đó.
Theo quy định tại Điều 236 BLTTDS, thủ tục, thẩm quyền và nội dung nghị án
được tiến hành như sau:
- Hội đồng xét xử nghị án tại phòng riêng. Chỉ có các thành viên của Hội đồng
xét xử mới có quyền nghị án.

23
- Khi Nghị án, Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án
bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu
quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có
quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
- Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra,
xem xét tại phiên tòa, kết quả việc hỏi tại phiên tòa và phải xem xét đầy đủ ý
kiến của những người tham gia tố tụng, kiểm sát viên để quyết định giải quyết
vụ án.
- Phải có biên bản nghị án ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội
đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng xét xử ký
tên tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
- Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải
có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng
không quá 05 ngày làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và
người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết giờ, ngày và địa điểm tuyên
án; nếu Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà đến ngày tuyên án
vẫn có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành
việc tuyên án theo quy định tại Điều 239 của BLTTDS.
Một điểm mới của BLTTDS, thể hiện sự đổi mới của hoạt động tư pháp theo
tinh thần của Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị là mở
rộng tranh tụng nhằm giúp Tòa án đưa ra phán quyết một cách thận trọng,
khách quan trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện. Theo tinh thần này,
BLTTDS đã quy định, ngay cả đến lúc nghị án mà vẫn thấy chứng cứ, tài liệu
chưa đầy đủ thì Hội đồng xét xử vẫn cho dừng việc nghị án lại và Tố tụng
phiên tòa được quay lại với phần hỏi và phần tranh luận - Điều 237 BLTTDS
quy định như sau:
Qua Nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi
chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định

trở lại việc hỏi và tranh luận.
b. Thủ tục tuyên án
Sau khi bản án đã được thông qua, Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để
tuyên án. Trên thực tế, việc viết bản án phải rất công phu và cần nhiều thời
gian, do đó Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải chịu trách nhiệm chuẩn bị đề
cương và chắp bút. BLTTDS quy định thời gian để nghị án và viết bản án tối
đa là 5 ngày làm việc; vì thế, cần phải tuyệt đối tránh việc tuyên án mà bản án
vẫn chưa viết hoặc viết chưa xong. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải
ký tên vào bản án đó. BLTTDS quy định tại Điều 239 về thủ tục tuyên án được
thực hiện như sau:
24
- Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp
đặc biệt được phép của chủ tọa phiên tòa.
- Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đứng đọc
nguyên văn bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành
bản án và quyền kháng cáo. Đối với những vụ xử kín, Tòa án vẫn phải tuyên
án công khai.
- Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án,
người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà
họ biết.
3.4 Bản án sơ thẩm
Bản án của tòa án nói chung và bản án sơ thẩm dân sự nói riêng là một văn
kiện được tuyên nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
khi có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những
người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành (xem Điều 136 Hiến
pháp, Điều 12 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Điều 19 BLTTDS).
Bản án kết thúc toàn bộ quá trình tố tụng xét xử, xác định những vấn đề chủ
yếu của vụ án cần phải giải quyết. Đối với các vụ án dân sự, bản án phân tích
chính xác những quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và tòa án đưa ra phán

quyết có tình, có lý. Bản án giúp cho mọi người nhận thức rõ các quy định của
pháp luật được vận dụng vào thực tiễn. Bản án là văn kiện của cơ quan xét
xử bảo vệ chế độ, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân. Bản án có tác dụng giáo dục đương sự, giáo dục quần chúng tin
tưởng vào hoạt động xét xử, nâng cao ý thức pháp luật, góp phần củng cố,
xác lập nếp sống mới trong xã hội. Vì vậy, bản án phải được Hội đồng xét xử
thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
Theo quy định của BLTTDS tại Điều 238, mẫu bản án sơ thẩm ban hành kèm
theo Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao cơ cấu bản án gồm có phần mở đầu, phần nội
dung vụ án và nhận định của Tòa án, phần quyết định. Nội dung từng phần
trong bản án như sau:
- Trong phần mở đầu phải ghi rõ tên Tòa án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý
vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét
xử, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa
chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan,
tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự; đối tượng tranh chấp; số ngày, tháng, năm của
quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian,
địa điểm xét xử.
25

×